✨Johan III của Thụy Điển

Johan III của Thụy Điển

thumb|Hình của Vua Johan III trên tường [[:en:Stockholm Palace|cung điện Stockholm.]] Johan III (, ) (20 tháng 12, 1537 - 17 tháng 11, 1592) là Quốc vương của Thụy Điển từ năm 1568 cho đến khi ông băng hà. Ông là con trai của Vua Gustav I của Thụy Điển và người vợ thứ hai, Margaret Leijonhufvud. Ông đồng thời cũng là Công tước của Phần Lan (hay còn được gọi là Công tước Juhana) từ năm 1556 đến năm 1563. Năm 1581, ông nhận tước vị Đại Công tước của Phần Lan (hay Đại Hoàng tử của Phần Lan).

Tiểu sử

Johan III là con trai thứ hai của Vua Gustav Vasa (1523-1560). Mẹ của ông, Margareta Leijonhufvud (1514-1551), là một nữ quý tộc người Thụy Điển. Với cương vị là Công tước của Phần Lan, ông luôn đối đầu với người anh cùng cha khác mẹ là Erik XIV của Thụy Điển (1560-1568) và bị bắt giam năm 1563. Sau khi được trả tự do, có lẽ bởi vì hành động điên rồ của Erik XIV, Johan lại một lần nữa đứng lên chống lại anh trai và tự đưa mình lên ngai vàng. Đồng minh đắc lực của ông chính là người cậu Sten Leijonhufvud, người sau khi mất được phong tước vị Công tước xứ Raseborg. Sau đó ít lâu, Johan ra lệnh chém đầu người cố vấn đáng tin cậy nhất của anh trai mình là Jöran Persson, người luôn đối xử tàn tệ với ông khi ông còn ở trong tù.

Sau đó, Johan đã tham dự nhiều cuộc đối thoại hoà bình với Đan Mạch và Lübeck cho đến khi cuộc chiến tranh Bảy năm kết thúc, nhưng cuối cùng ông đã từ chối ký Hiệp ước Rokskilde vì những yêu cầu quá mức mà Đan Mạch đòi hỏi khi chiến tranh kết thúc. Do đó, trong hai năm liền, dù chiến tranh liên tiếp xảy ra nhưng Thụy Điển vẫn quyết không chịu nhượng bộ. Trong những năm tiếp theo, Johan đã giành chiến thắng vẻ vang trước Nga trong cuộc chiến tranh ở Livonian, đồng thời ký Hiệp ước Plussa năm 1583 chấp nhận cho Thụy Điển lấy lại thành phố Narva. Bên cạnh đó, những chính sách đối ngoại của ông luôn bị ảnh hưởng bởi mối liên hệ giữa ông và Ba Lan, quốc gia mà con trai ông, Zygmunt III Waza sẽ lên trị vì vào năm 1587.

Về tình hình chính trị trong nước, Johan luôn bày tỏ sự tin sùng của mình đối với Giáo hội Công giáo Rôma, khơi nguồn từ hoàng hậu người Ba Lan, vợ của ông. Năm 1575, ông cho phép các nữ tu viện của Giáo hội Công giáo Rôma được tiếp tục hoạt động và nhận các tín đồ mới. Ông luôn bất đồng quan điểm với người em trai là Công tước Karl xứ Sudermania (sau này là Vua Karl IX của Thụy Điển). Ngoài ra, ông còn là một người đam mê hội họa và kiến trúc.

Johan III khi trở thành Vua

Tháng 1 năm 1569, Johan thừa kế ngai vàng sau khi ông buộc Erik XIV phải thoái vị.

Tuy nhiên, ngày nào Erik XIV vẫn còn sống thì ngày đó, Johan III vẫn chưa an tâm ngồi trên chiếc ngai vàng của mình. Lo sợ rằng một ngày nào đó, Erik XIV sẽ quay lại giành lấy ngai vàng, Johan III đã ra lệnh cho cận vệ của mình phải giết cho bằng được Erik. Kết quả, mạng sống của Erik bị kết liễu năm 1577.

Johan III đã công bố việc này với toàn dân, nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng "Thụy Điển đã tự do", thoát khỏi "con chó săn" Christian II của Đan Mạch cũng như đã giải thoát nhân dân khỏi "bạo quân" Erik XIV của Thụy Điển, một ông vua ngang tàng, độc ác.

Tổ tiên

right|thumb|128 px|Catherine Jagiellon.

Gia đình

thumb|right|Gunilla Bielke Johan III kết hôn với vợ trước là Catherine Jagellonica của Ba Lan (1526-1583), thuộc triều đại Jagiellonian ngày 4 tháng 10, 1562 tại Vilnius. Ở Thụy Điển, bà thường được biết đến với cái tên Katarina Jagellonica. Bà là em gái của vua Zygmunt II August của Ba Lan. Họ có ba người con là:

  • Isabella (1564–1566)
  • Zygmunt III Waza, Vua của Thụy Điển (1592–1599), và Vua của Ba Lan (1587–1632), Đại Công tước của Phần Lan và Litva
  • Anna (1568–1625)

Ông kết hôn với người vợ thứ hai là Gunilla Bielke (1568-c. 1592) vào ngày 21 tháng 2, 1584. Họ có với nhau 1 người con trai là:

thumb|right|Lăng mộ của Johan III ở [[:en:Uppsala Cathedral|Thánh đường Uppsala.]]

  • John (Johan) (1589–1618), lúc đầu là Công tước của Phần Lan, sau đó từ năm 1608 đổi thành Công tước xứ Ostrogothia. Ông kết hôn với người em họ là Công chúa Maria Elisabet (1596-1618), con gái của Karl IX của Thụy Điển (trị vì từ năm 1599 đến năm 1611)

Bên cạnh đó, ông còn có thêm ít nhất 4 người con ngoài giá thú với người hầu gái của mình là Karin Hansdotter (1532-1596):

  • Julius Gyllenhielm (1559–1581)
  • Augustus (1557–1560)
  • Sofia Johansdotter Gyllenhielm (1556–1583), sau này kết hôn với Pontus De la Gardie
  • Lucretia (1560–85)

Johan III vẫn luôn quan tâm và chăm sóc cho Karin và các con của họ ngay cả khi ông đã kết hôn với Catherine Jagellonica năm 1562 và lên ngôi vua năm 1568. Sau này, ông còn gả chồng cho Karin để chăm sóc cho cô và các con. Năm 1561, Karin kết hôn với nhà quý tộc Klas Andersson (nhà Västgöte), là một người bạn, đồng thời là người đầy tớ trung thành của Johan III. Họ có thêm với nhau một người con gái tên là Brita. Năm 1563, do Klas Andersson bị Erik XIV giết chết nên đến năm 1572, Karin tái hôn với Lars Henrikson, một người được Johan III phong tước quý tộc vào năm 1576 để chăm sóc cho con của họ.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Hình của Vua Johan III trên tường [[:en:Stockholm Palace|cung điện Stockholm.]] **Johan III** (, ) (20 tháng 12, 1537 - 17 tháng 11, 1592) là Quốc vương của Thụy Điển từ năm 1568 cho đến
**Gustav III** (24 tháng 1 năm 1746 – 29 tháng 3 năm 1792), còn được gọi là _Gustavus III_, là Vua Thụy Điển từ năm 1771 cho đến khi bị ám sát vào năm 1792.
**Karl IX**, còn gọi là **Carl**, **Charles** (; 4 tháng 10 năm 1550 – 30 tháng 10 năm 1611), là Quốc vương Thụy Điển từ năm 1604 cho đến khi băng hà. Ông là con
**Gustav IV Adolf** hoặc _Gustav IV Adolph_ (1 tháng 11 năm 1778 – 7 tháng 2 năm 1837) là Quốc vương Thụy Điển trị vị từ năm 1792 cho đến khi bị lật đổ vào
**Karl XIV Johan**, tên khai sinh: **Jean-Baptiste Bernadotte**, về sau là **Jean-Baptiste Jules Bernadotte** (26 tháng 1 năm 1763 – 8 tháng 3 năm 1844), con trai thứ hai của luật sư Henri nhà Bernadotte,
**Erik XIV** (13 tháng 12 năm 1533 - 26 tháng 2 năm 1577) là Quốc vương Thụy Điển từ năm 1560 cho đến khi bị lật đổ năm 1568. Ngoài ra, Erik XIV cũng là
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Gustav I của Thụy Điển** (tên khi sinh là **Gustav Eriksson** của gia tộc Vasa), và sau này là **Gustav Vasa** (12 tháng năm 1496 – 29 tháng 9 năm 1560), là Quốc vương Thụy
Thụy Điển sở hữu các thuộc địa ở hải ngoại từ 1638 đến 1663 và từ 1784 đến 1878. ## Danh sách ### Các thuộc địa cũ của Thụy Điển ở Châu Phi *Bờ biển
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Sigismund III Vasa** (tên khác: **Sigismund III của Ba Lan**, , ; 20 tháng 6 năm 1566 – 30 tháng 4 năm 1632 N.S.) là vua của Ba Lan và Đại công tước của Litva,
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
thumb|Huy hiệu của Thụy Điển (với lỗi [[Tincture (huy hiệu)|tinctures) trên một bức tường của Tòa thị chính tại Lützen ở Đức]] Thuật ngữ **Đế quốc Thụy Điển** dùng để chỉ tới **Vương quốc Thụy
nhỏ|Thời kỳ đầu Vasa **Thời kỳ đầu Vasa** là một giai đoạn trong lịch sử Thụy Điển và Phần Lan kéo dài từ năm 1523 đến 1611. Thời kỳ này bắt đầu sau cuộc chinh
**Katarzyna Jagiellonka** (; Tiếng Litva: _Kotryna Jogailaitė_; 1 tháng 11 năm 1526 – 16 tháng 9 năm 1583) là Vương nữ của Liên bang Ba Lan-Lietuva và là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1569
thumb|Gia huy của Vương tộc Holstein-Gottorp **Nhà Holstein-Gottorp**, là một nhánh của triều đại Oldenburg, cai trị Thụy Điển từ năm 1751 đến 1818 và Na Uy từ 1814 đến 1818, trải qua 4 đời
**Luise Ulrike của Phổ** (; 24 tháng 7 năm 1720 – 16 tháng 7 năm 1782) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1751 đến năm 1771 với tư cách là phối ngẫu của Adolf
**Vương tộc Vasa** hoặc **Wasa** (, , ) là một Vương tộc thuộc thời kỳ cận đại được thành lập vào năm 1523 tại Thụy Điển. Các thành viên của gia tộc là người cai
**Đại vương công Phần Lan** (, , ), một số tài liệu còn dịch là **Đại công tước Phần Lan**, là tước hiệu của người cai trị lãnh thổ Phần Lan. Nó được hầu hết
**Christian III** (12 tháng 8 năm 1503 - 1 tháng 1 năm 1559) là vua của Đan Mạch từ năm 1534 cho đến khi ông qua đời và là vua Na Uy từ năm 1537
**Ulrikke Eleonore của Đan Mạch** (; 11 tháng 9 năm 1656 – 26 tháng 7 năm 1693) là Vương hậu Thụy Điển với tư cách là phối ngẫu của Karl XI của Thụy Điển. Bà
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
**Stockholm** (; phiên âm: "Xtốc-khôm") là thủ đô của Thụy Điển và là thành phố đông dân nhất trong các nước Bắc Âu; 949.761 người sống tại khu tự quản này, khoảng 1,5 triệu người
Hiện nay, **Quốc huy của nước Cộng hòa Phần Lan** là hình ảnh một con sư tử màu vàng trên nền chiếc khiên màu đỏ. Con sư tử đầu đội vương miện và giẫm lên
**Đại công quốc Phần Lan**, tên chính thức và cũng được gọi là **Đại Thân vương quốc Phần Lan**, là tiền thân của Phần Lan hiện đại. Nó tồn tại từ năm 1809 đến năm
**Pyotr I** (), có sách viết theo tiếng Anh là **Peter I** hay tiếng Pháp là **Pierre I** (sinh ngày: 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất ngày: 8 tháng 2 năm 1725
**Anna I của Ba Lan** hay **Anna** **Jagiellonka** (, ; 18/10/1523 – 12/11/1596) là Nữ vương Ba Lan và là Nữ Đại vương công Lietuva từ năm 1575 đến năm 1586. Bà là con gái
**Hòa ước Westfalen** (, ) là tên gọi chung của 2 hiệp ước hòa bình được ký kết vào tháng 10 năm 1648 tại các thành phố Osnabrück và Münster của Westfalen. Hòa ước đã
Đây là **danh sách vua Phần Lan** cho đến khi nó trở thành một nước cộng hòa năm 1919; do đó các đời vua Thụy Điển với chức quan Nhiếp chính và Tổng trấn của
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**_Hearts of Iron III_** (tạm dịch: _Trái tim sắt đá 3_) là phần thứ ba của loạt trò chơi máy tính thuộc thể loại wargame đại chiến lược thời gian thực _Hearts of Iron_ lấy
nhỏ|306x306px|Giáo hội Công giáo tôn phong thánh [[Henrik (giám mục Phần Lan)|Giám mục Henricus làm thánh quan thầy nước Phần Lan]] **Công giáo Phần Lan** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới
**Harald V của Na Uy** (sinh ngày 21 tháng 2 năm 1937) là đương kim Quốc vương Na Uy. Ông là người thứ 3 của gia tộc Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg kế thừa ngôi vị này. Harald sinh
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
nhỏ|Andersson tại Retro Gathering năm 2009 **Johan Andersson** (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1974) là trưởng nhóm lập trình game và người quản lý studio Paradox Tinto, một chi nhánh của Paradox Interactive tại
**Đại vương công** (; ; ), một số tài liệu ghi là **Đại thân vương** theo thuật ngữ tiếng Anh _grand prince_, _great prince_, là tước vị quý tộc dưới hoàng đế và sa hoàng
**Mikhail Fyodorovich** (, tiếng Slav Đông cổ: _Міхаи́лъ Ѳео́доровичь_; 22 tháng 7 [12 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1596 – 23 tháng 7 [13 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1645), còn được gọi
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
Ngày **16 tháng 3** là ngày thứ 75 (76 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 290 ngày trong năm. ## Sự kiện *934 – Mạnh Tri Tường lên ngôi hoàng đế, lập ra nước
**Paradox Development Studio** là một nhà phát triển video game Thụy Điển được thành lập vào năm 1995. Studio được kết hợp chặt chẽ với công ty mẹ và nhà phát hành video game Paradox
**Ytri(III) Oxide** là một hợp chất hóa học vô cơ, còn được gọi dưới một cái tên khác là ytria,có thành phần chính yếu gồm hai nguyên tố là ytri và oxy, có công thức
**Hearts of Iron IV** là phần tiếp theo của _Hearts of Iron III_ của hãng Paradox Development Studio, một phần trong loạt game đại chiến lược _Hearts of Iron_ tập trung vào Thế chiến II,
**Oslo** ( hay , phiên âm: Ốt-xlô) là một khu tự quản, thủ đô và cũng là thành phố đông dân nhất Na Uy. Oslo trở thành khu tự quản (_formannskapsdistrikt_) vào ngày 1 tháng
**Vương tộc Bernadotte** là triều đại trị vì Thụy Điển kể từ khi thành lập vào năm 1818 cho đến nay. Đây cũng là vương tộc trị vì Na Uy từ năm 1818 đến năm
**Robert Lewandowski** (; sinh ngày 21 tháng 8 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ba Lan hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cắm cho câu lạc bộ
Ngày **31 tháng 10** là ngày thứ 304 (305 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Nó là ngày cuối cùng trong tháng 10, với 61 ngày còn lại trong năm. Ngày này được biết đến
**Leonhard Euler** ( , ; 15 tháng 4 năm 170718 tháng 9 năm 1783) là một nhà toán học, nhà vật lý học, nhà thiên văn học, nhà lý luận và kỹ sư người Thụy
thumb|right|Kiểu dáng tiêu chuẩn của Huân chương Chữ thập Sắt Huân chương **Thập tự Sắt** hay **Chữ thập Sắt** (tiếng Đức: _Eisernes Kreuz_, viết tắt **EK**) là một huân chương quân sự của Vương quốc