Mikhail Fyodorovich (, tiếng Slav Đông cổ: Міхаи́лъ Ѳео́доровичь; 22 tháng 7 [12 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1596 – 23 tháng 7 [13 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1645), còn được gọi là Mikhail I hoặc Michael I, là vì Sa hoàng đầu tiên của nhà Romanov được Hội nghị quý tộc bầu chọn vào năm 1613. Mikhail là con trai của Fyodor Nikitich Romanov (sau này được biết với tên Thượng phụ Philaret) với bà Xenia (được biết với tên Martha), đồng thời là cháu họ ngoại của Sa hoàng Fyodor I thông qua người bà cô Anastasia Romanovna (người vợ đầu của Sa hoàng Ivan IV của Nga).
Sự lên ngôi của ông đánh dấu kết thúc Thời kì Đại Loạn ở Nga trong những năm 1598 - 1613. Các cuộc chiến tranh Ingria và Ba Lan-Muscovite lần lượt kết thúc vào năm 1617 và 1618, với việc Nga tiếp tục giành được độc lập nhưng phải trả giá bằng việc mất lãnh thổ ở phía Tây. Vua Ba Lan Władysław IV Vasa cuối cùng đã đồng ý chính thức từ bỏ yêu sách ngai vàng của mình với Hiệp ước Polyanovka năm 1634. Trong khi đó, ở phía Đông, người Cossack đã đạt được những tiến bộ chưa từng có trong cuộc chinh phục Siberia và các nhà thám hiểm Nga đã đến Thái Bình Dương (Biển Okhotsk) vào cuối triều đại của Mikhail.
Cuộc sống và lên ngôi Hoàng đế Nga
Ông nội của Mikhail, boyar Nikita Romanovich Zakharyin-Yuriev (1522 - 1586), là anh trai của hoàng hậu Nga Anastasia Romanovna (1530 - 1560), và là một cố vấn trung thành của Sa hoàng Ivan Bạo chúa. Hoàng hậu Anastasia sinh cho Nga hoàng 6 người con, trong đó có con trai Dmitry (chết lúc mới 1 tuổi), cựu thái tử Ivan (bị cha giết năm 1582) và người kế vị Fyodor (1557 - 1598). Ít lâu sau, Nikita Romanov cưới thêm người vợ Alexandrovna Gorbataya-Shuyskaya sinh ra Fyodor Nikitich Romanov (1553 - 1633). Có quan hệ với hoàng gia Nga thông qua cô của mình, Fyodor Romanov trở thành một chỉ huy quân đội và nhà ngoại giao xuất sắc.
Dưới triều đại Fyodor I (1584 - 1598), Mikhail được làm boyar (lãnh chúa) vào năm 1583. Năm 1590, ông chiến đấu chống lại lực lượng viễn chinh của Johan III của đế quốc Thụy Điển, và năm 1593-1594, tiến hành đàm phán hòa bình với Hoàng đế Rudolf II của đế quốc La Mã Thần Thánh.
Ngày 17/1/1598, Sa hoàng Fyodor I bất ngờ băng hà mà chưa có con nối dõi. Hội đồng boyar tổ chức bầu cử vào tháng 1/1598, chọn Boris Godunov (anh vợ của Fyodor I) kế vị ngôi Sa hoàng.
Sau khi lên ngôi, Godunov tìm cách trục xuất những người thân của Sa hoàng tiền nhiệm, trong đó có Fyodor Romanov; Năm 1600, ông này và vợ là Xenia Shestova (1560 - 1631) bị buộc phải vào tu viện để tu hành, dưới tên Philaret và Martha (lúc đó bà có dắt theo các con, trong đó có con trai Mikhail mới 4 tuổi). Philaret bị giam cầm ở tu viện Antoniev của miền bắc nước Nga.
Đến năm 1605, gia đình được Dmitriy I (vị Sa hoàng thân Ba Lan) giải thoát. Năm 1612, hoàng tử Ba Lan Władysław IV lên ngôi Sa hoàng Nga và tiếp tục giam cầm gia đình của Philaret.
thumb|Mikhail I được các quý tộc Nga bầu lên ngôi Sa hoàng. Tranh của [[Aleksey Kivshenko.]]
thumb|[[Xu bạc 1 Ruble "Kỷ niệm 300 năm Triều đại Romanov", được tính khởi đầu từ sự lên ngôi của Mikhail I năm 1613 đến năm 1913 dưới triều đại của Nikolai II của Nga]]
Được bầu lên ngai vàng Nga
Ngày 21/1/1613, trong tu viện tồi tàn Troitsa cách Moskva 70 km về hướng đông bắc, Hội đồng boyar đã họp và bầu con trai của Philaret, Mikhail Romanov lên ngôi Sa hoàng.
Ngày 22/7/1613, Mikhail tiếp nhận vương miện từ tay hội đồng boyar và lấy hiệu Mikhail I, khai sinh ra triều đại Romanov (1613 - 1917).
Sau khi đăng cơ, Mikhail I quyết tâm giải phóng đất nước Nga bằng cách điều hành quân đội phối hợp với các nhóm du kích ở Karelia và Pskov tấn công quân Ba Lan khắp nơi.
Ở miền bắc nước Nga, nhân dân vùng Novgorod bị chiếm đóng đã nổi dậy chống quân Thụy Điển, buộc chính phủ của họ phải đàm phán với Nga. Theo Hòa ước Stolbovo ký giữa hai nước ngày 27 tháng Giêng (17 tháng Giêng theo lịch cũ) năm 1617, vùng đất Novgorod được trao trả cho nước Nga, nhưng vịnh Phần Lan (gồm eo Carel, sông Neva và các thành phố Iam, Coporie, Ivan, Corela và Orensec), cửa ngõ duy nhất ra biển Baltic của Nga, vẫn nằm trong tay Thụy Điển.
Sau đó, Mikhail quay sang tuyên chiến với Ba Lan bắt đầu từ năm 1609, nhưng bất phân thắng bại. Từ năm 1612 - 1616, những đội quân đánh thuê của Ba Lan đã vây hãm thành Bryansk và đánh tan quân cứu viện của Nga ở gần Karachev. Năm 1615 - 1616, tướng Ba Lan Lisowski liên tiếp đánh bại quân Nga tại Rzhev, tiến về phía bắc Kashin, đốt Torzhok và tiến đánh Bolkhov vào cuối năm 1616. Với mục đích tiêu diệt hẳn quân Nga, vào đầu năm 1617 Quốc hội của liên minh Ba Lan - Litva thống nhất theo đề nghị của vua Ba Lan Wladislav IV biểu quyết tăng ngân sách cho cuộc chiến. Liên minh Ba Lan - Litva ào ạt tấn công và chiếm được các thị trấn Dorogobuzh (Дорогобуж, Drohobuż, Drohobycz) và Vyazma (Вязьма, Wiaźma) vào tháng 10/1617.
Tuy nhiên sau đó, lực lượng Khối thịnh vượng chung lại bị đánh bại ở Vyazma và Mozhaisk, khiến kế hoạch phản công của Chodkiewicz nhằm tiến đến Moskva thất bại. Cuối năm 1617 - đầu năm 1618, liên quân Ba Lan - Litva mở hai cuộc tấn công lớn vào Moskva, nhưng bị đánh bại ngay dưới chân thành.
Kế hoạch đánh chiếm nước Nga bị thất bại, vua Ba Lan buộc phải ký Hiệp định đình chiến Deulino ngày 11/12/1618, có hiệu lực vào ngày 4/1/1619. Hiệp định này buộc hai nước ngừng chiến trong thời hạn 14,5 năm, theo đó Ba Lan đóng giữ các lãnh thổ của Chernigov, Severia (Siewiersk) và thành phố Smolensk. Hiệp định buộc Wladislav từ bỏ ngôi Sa hoàng Nga và phải trao trả Thượng phụ Philaret về Nga.
Tổ chức chính quyền Nga thời Mikhail I
thumb|Sa hoàng Mikhael I trong một cuộc họp của các boyar Nga. Hoạ phẩm của [[Andrei Ryabushkinv, hiện đang ở tại Phòng trưng bày Tretyakov, Moskva.]]
Sau khi lên ngôi, Mikhail I cải tổ hệ thống chính quyền Nga. Lúc đầu, ông cho phép hai cơ quan cao nhất của chính phủ: Hội đồng cơ mật (Posolsky Prikaz) và Hội đồng lãnh chúa (Razryadny Prikaz) được hoạt động sông song, đứng đầu bởi các dyak (chuyên viên thư ký).
Hội đồng cơ mật đóng vai trò như là thượng viện Nga, trực thuộc Boyar Duma (tức Quốc hội Nga ngày nay, có chức năng quản lý hoàng cung, quân đội, nhà thờ Chính thống giáo và các vấn đề dân sinh.). Người đầu tiên đứng đầu hội đồng này là Pyotr Tretyakov (cho đến khi qua đời năm 1618); ông đã thi hành chính sách liên minh với Thụy Điển để chống lại Ba Lan. Người kế nhiệm Pyotr, Ivan Gramotin, từng đàm phán thành công với Ba Lan ở Poloniphile để đưa Thượng phụ Philaret về nước. Nhưng năm 1626, ông bị lưu đày vì phản đối Thượng phụ Philaret gây chiến với Ba Lan. Những người kế nhiệm Efim Telepnev và Fedor Likhachov cũng bị lưu đày lần lượt vào các năm 1630 và 1631 trong nỗ lực giảm bớt thù hằn của Thượng phụ với Ba Lan. Ivan Gryazev, được bổ nhiệm vào năm 1632 và được thăng làm thành viên thứ hai của bộ máy quan liêu để thi hành các mệnh lệnh của Philaret. Năm 1634, đại sứ tại Anh (1621-1622) là Gramotin đã cố gắng hạ nhiệt căng thẳng trong quan hệ Nga - Ba Lan. Đến khi Likhachov lên nắm hội động giai đoạn 1635-1643, quan hệ hai nước được bình thường hóa.
Hội đồng lãnh chúa đứng đầu là Sydavny Vasilyev, rồi được kế nhiệm bởi Tomillo Lugovskoy. Sau khi Lugovskoy bị Philaret lưu đày năm 1623, Fyodor Likhachov trở thành người đứng đầu Prikaz cho tới khi ông chuyển sang Hội đồng cơ mật. Năm 1630, Hội đồng lãnh chúa được trao cho Ivan Gavrenev lãnh đạo trong 30 năm sau đó.
Ba cơ quan khác là Streletsky Prikaz (phụ trách các trung đoàn của Streltsy đóng quân ở Moskva), Kho bạc (Prikaz bolshoy kazny), và Aptekarsky Prikaz ("Văn phòng Dược phẩm", hay Bộ Y tế). Lúc đầu, ba cơ quan này đều do Ivan Cherkassky (cháu trai của Philaret) nắm giữ từ năm 1619. Ivan sau đó làm thủ tướng Nga cho đến khi qua đời vào năm 1642. Sau đó, tướng Fedor Sheremetev giữ chức thủ tướng trong giai đoạn 1642 - 1646, nhưng trên thực tế mọi quyền lực của chính phủ Nga thuộc về hoàng thân Alexey Lvov. Năm 1644, Lvov làm đại sứ Nga tại Ba Lan. Năm 1645, Lvov nhường chức thủ tướng Nga cho Boris Morozov.
Năm 1645, Mikhail I băng hà. Con trai thứ là Aleksei kế vị, tức Sa hoàng Aleksei I
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikhail Fyodorovich** (, tiếng Slav Đông cổ: _Міхаи́лъ Ѳео́доровичь_; 22 tháng 7 [12 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1596 – 23 tháng 7 [13 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1645), còn được gọi
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Nikolas I** (6 tháng 7 [lịch cũ 25 tháng 6] 1796 – 2 tháng 3 [lịch cũ 18 tháng 2] 1855) là Hoàng đế Nga, Vua của Vương quốc Lập hiến Ba Lan và Đại
**Đại vương công Michael Nikolaevich của Nga** (25 tháng 10 năm 1832 – 18 tháng 12 năm 1909) là người con út trong số 7 người con của Nikolai I của Nga và Charlotte Wilhelmine
**Nikolai II của Nga** cũng viết là **Nicholas II** ( , phiên âm tiếng Việt là **Nicôlai II Rômanốp** hay **Ni-cô-lai II**) (19 tháng 5 năm 1868 – 17 tháng 7 năm 1918) là vị
**Dmitriy III** (giả) (tiếng Nga: Лжедмитрий III, tr. Lzhedmitrii III, qua đời tháng 7 năm 1612), được biết đến với cái tên Pseudo-Demetrius III, là người cuối cùng trị vì nước Nga trong thời kỳ
**Aleksey Nikolayevich của Nga** () ( – 17 tháng 7 năm 1918) là thái tử (_tsesarevich_) cuối cùng của Đế quốc Nga. Ông là con út và là người con trai duy nhất của Hoàng
**Alexander II** (; 29 tháng 4 năm 181813 tháng 3 năm 1881)) là Hoàng đế Nga, Vua của Ba Lan và Đại vương công Phần Lan từ ngày 2 tháng 3 năm 1855 cho đến khi
**Elizaveta Petrovna** (; - ), cũng được gọi là **Yelisavet** hay **Elizabeth**, là Nữ hoàng nước Nga từ năm 1741 đến khi qua đời năm 1762, tổng cộng 20 năm. Bà vẫn là một trong
**Anna Petrovna của Nga** (; 27 tháng 1 năm 1708 – 4 tháng 3 năm 1728) là con gái cả của Hoàng đế Pyotr I của Nga và vợ là Hoàng hậu Yekaterina I. Mặc
**Nikolay Nikolayevich của Nga** (; 8 tháng 8 năm 1831– 25 tháng 4 năm 1891), hay còn được biết với tên **Nikolay Nikolayevich Cha** (), là người con thứ 6 đồng thời là con trai
**Nikolay Nikolayevich của Nga** (tiếng Nga: _Великий князь Николай Николаевич_; – 5 tháng 1 năm 1929), là thành viên Vương tộc Romanov và là Sĩ quan cấp tướng, tổng tư lệnh của Nga. Ông thường
thumb|Các thi thể trong trang phục dân sự, được Ukraine tuyên bố là bị bắn bởi binh sĩ Nga, nằm trên một con phố ở Bucha. Tay của một trong số họ bị trói sau
**Anastasiya Mikhaylovna của Nga** (; 28 tháng 7 năm 1860 – 11 tháng 3 năm 1922) là thành viên của Hoàng tộc Romanov, Nữ Đại vương công Nga và thông qua hôn nhân là Đại
**Sa quốc Nga** ( hay **Nước Nga Sa hoàng**, ) hay nó có một tên gọi khác là **Sa quốc Muscovy** là giai đoạn trung ương tập quyền hóa trong lịch sử Nga, bắt đầu
**Anna Ioannovna** (tiếng Nga: Анна Иоанновна; 7 tháng 2 [lịch cũ 28 tháng 1] năm 1693 – 28 tháng 10 [lịch cũ 17 tháng 10] năm 1740), cũng được Nga hóa là **Anna Ivanovna** và
**Vasili III Ivanovich** (tiếng Nga: Василий III Иванович, còn được gọi là Basil III; (25 tháng 3 năm 1479 – 3 tháng 12 năm 1533 tại Moskva) là một Đại công Nga từ năm 1505
**Aleksey Mikhailovich** ( ; ; 29 tháng 3 [19 tháng 3 theo lịch cũ] năm 1629 – ) là Sa hoàng của Nga trong những thập kỷ sôi động nhất của giữa thế kỷ 17.
**Nikolai Aleksandrovich của Nga** (tiếng Nga: Николай Александрович) ( – ) là _tsesarevich_ tức Thái tử Nga từ năm 1855 đến năm 1865. Ông là con trai cả của Nga hoàng Alexander II và Marie
**Ivan III Vasilyevich** () (22 tháng 1 năm 1440, Mátxcơva – 27 tháng 10 năm 1505, Mátxcơva), cũng được gọi là **Ivan Đại đế**, là một Quận công Moskva và Hoàng tử của toàn Nga.
**Đại vương công George Alexandrovich của Nga** (tiếng Nga: _Георгий Александрович_; 9 tháng 5 năm 1871 – 10 tháng 7 năm 1899) là thành viên của Vương tộc Romanov và là người con thứ 3
Trong lịch sử Nga, giai đoạn từ 1796 đến 1855 (bao gồm các triều đại của Pavel I, Aleksandr I và Nikolai) đã chứng kiến các cuộc chiến tranh của Napoléon, cải cách chính phủ,
"**Quốc ca Liên bang Nga**" () là tên bài quốc ca chính thức của Nga. Bài quốc ca này dùng chính giai điệu của bài "Quốc ca Liên bang Xô viết", sáng tác bởi Alexander
**Tỉnh Kiev** (chính tả cũ ; ) là một đơn vị hành chính của Đế quốc Nga từ 1796 đến 1919 và của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina từ 1919 đến
**Chiến tranh Nga-Ba Tư** giai đoạn 1722-1723, được sử sách nước Nga chép là **Chiến dịch Ba Tư của vua Pyotr Đại đế**, là một cuộc chiến tranh giữa Nga và Ba Tư (Iran), một
**Hiệp ước Polyanovka** (tiếng Ba Lan: _Polanów_, còn được gọi là Hòa ước Polyanovka/Polanów) là một hòa ước được ký vào ngày 14 tháng 6 năm 1634 giữa Liên bang Ba Lan và Lietuva và
**Mikhail Illarionovich Golenishchev-Kutuzov** (hoặc **Mikhain Illariônôvích Cutudốp** trong các tài liệu tiếng Việt) (tiếng Nga: князь Михаи́л Илларио́нович Голени́щев-Куту́зов; 16 tháng 9 năm 1745 — 28 tháng 4 năm 1813) là một nhà quân sự,
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily trên Quảng trường Đỏ, ở Moskva|thế=]] **Văn hóa Nga** có truyền thống lâu đời về nhiều mặt của nghệ thuật, đặc biệt khi nói đến văn học, múa dân
Quân phục Thống chế Nga ([[1793)]] nhỏ|446x446px|Thống chế [[Aleksandr Vasilyevich Suvorov|A.B. Suvorov.]] **Thống chế** (, đôi khi được dịch là **Nguyên soái**) là cấp bậc quân sự cao nhất trong quân đội Nga từ đầu
**Mikhail Yaroslavich** (tiếng Nga: Михаил Ярославич) (1271 - 1318), là công vương thứ hai của xứ Tver (1285 - 1318), đồng thời là Đại công xứ Vladimir trong những năm 1304 - 1314 và 1315–1318.
**Mikhail Sergeyevich Gorbachyov** (chính tả tiếng Anh: **Gorbachev**; phiên âm tiếng Việt: **Goóc-ba-chốp**; 2 tháng 3 năm 1931 – 30 tháng 8 năm 2022) là một chính khách người Nga, nhà lãnh đạo thứ tám
**Mikhail Yuryevich Lermontov** (tiếng Nga: Михаи́л Ю́рьевич Ле́рмонтов, 15 tháng 10 năm 1814 – 27 tháng 7 năm 1841) là nhà thơ lãng mạn, đồng thời cũng là một nhà văn và họa sĩ người
**Tiền đề của Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga** - một tập hợp phức tạp các biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa trong và ngoài nước có mối
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
Với sự giải tán Liên bang Xô viết ngày 25 tháng 12 năm 1991, Liên bang Nga trở thành một quốc gia độc lập. Nga là nước cộng hòa lớn nhất trong số 15 nước
phải|nhỏ|Cờ hiệu của một Tsesarevich Đế chế Nga. **Tsesarevich** (tiếng Nga: _Цесаревич_) là một tước hiệu được pháp luật công nhận vào năm 1797 và theo truyền thống được sử dụng chính thức bởi người
**Sư đoàn bộ binh ô tô Cận vệ số 2 "Taman", Huân chương Cách mạng Tháng Mười, Huân chương Cờ đỏ, Huân chương Suvorov, mang tên M. I. Kalinin** (), hoặc gọi đơn giản là
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Mikhail Semyonovich Khozin** (; - 27 tháng 2 năm 1979) là một tướng lĩnh Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. ## Sự nghiệp ### Thiếu thời Mikhail Semyonovich Khozin sinh ngày 10
**Chiến dịch nước Nga** (hay còn gọi là **Cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812**, ) là bước ngoặt trong các cuộc chiến tranh của Napoléon. Trong vòng 10 năm trước đó, quân Pháp thắng
**Hiến pháp Nga năm 1906** một bộ luật liên quan đến các nguyên tắc chung của hệ thống nhà nước của Đế quốc Nga, bao gồm các nguồn luật trước đây, hoạt động ở Nga
**Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên bang Nga** (), viết tắt **Genshtab** (_Генштаб_), **GSh VS RF** (_ГШ ВС РФ_), là cơ quan Tổng tham mưu của Lực lượng Vũ trang Liên
**_Hồ thiên nga_** ( ), là vở ballet số 20 của nhà soạn nhạc Pyotr Ilyich Tchaikovsky, sáng tác khoảng năm 1875–1876. Mặc dù ban đầu, vở ballet gặp thất bại, nhưng hiện nay nó
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
**Quan hệ Nga – Việt Nam** () là quan hệ giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga, kế thừa quan hệ đồng minh thân thiết giữa Việt Nam Dân
**Điện ảnh Nga** (tiếng Nga: _Кинематограф России_) bắt đầu từ thời Đế quốc Nga, phát triển qua thời Liên Xô và sau khi Liên Xô sụp đổ, nền điện ảnh Nga đã nhận được sự
Rạng sáng ngày 20 tháng 6 năm 2024, Tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin đã có chuyến thăm cấp nhà nước đến Hà Nội, thủ đô Việt Nam theo lời mời trước đó của Tổng
**_Moskva_** (), tên cũ là **_Slava_** (), là một tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường của Hải quân Liên Xô (cũ) và Hải quân Nga. Đây là chiếc tàu đầu tiên thuộc Dự