✨Aleksandr II của Nga
Alexander II (; 29 tháng 4 năm 181813 tháng 3 năm 1881)) là Hoàng đế Nga, Vua của Ba Lan và Đại vương công Phần Lan từ ngày 2 tháng 3 năm 1855 cho đến khi ông bị ám sát.
Cuộc cải cách quan trọng nhất của Aleksandr trên cương vị hoàng đế là giải phóng nông nô ở Nga vào năm 1861, mà ông được gọi là Aleksandr vị Nga hoàng giải phóng (). Sa hoàng lần lượt thực hiện nhiều cải cách khác, bao gồm tổ chức lại hệ thống tư pháp, tuyển các thẩm phán địa phương thông qua bầu cử, bãi bỏ nhục hình, thúc đẩy chính quyền địa phương tự quản thông qua hệ thống zemstvo, áp đặt nghĩa vụ quân sự phổ cập, chấm dứt một số đặc quyền của giới quý tộc, và thúc đẩy giáo dục đại học. Sau khi bị ám sát hụt vào năm 1866, Aleksandr đã áp dụng một lập trường có phần phản động hơn cho đến khi ông qua đời.
Aleksandr xoay chuyển về chính sách đối ngoại và bán Alaska cho Hoa Kỳ vào năm 1867, lo sợ thuộc địa xa xôi này sẽ rơi vào tay người Anh nếu diễn ra một cuộc chiến tranh khác. Ông tìm kiếm giải pháp hòa bình, rời khỏi nước Pháp đầy biến động khi Napoléon III thất thủ vào năm 1871, và vào năm 1872, ông tham gia cùng với Đức và Áo trong Liên minh Ba Hoàng đế để ổn định tình hình châu Âu. Bất chấp chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa hòa bình, ông đã tham gia vào trong một cuộc chiến ngắn với Đế quốc Ottoman vào năm 1877–78, theo đuổi việc mở rộng lãnh thổ sang Siberia và Caucasus, và chinh phục Turkestan. Mặc dù thất vọng trước kết quả của Hội nghị Berlin năm 1878, Aleksandr vẫn tuân thủ thỏa thuận đó. Trong số những thách thức lớn nhất trong đất nước của ông là một cuộc nổi dậy ở Ba Lan vào năm 1863, mà ông đã phản ứng bằng cách loại bỏ vùng đất đó trong hiến pháp và sáp nhập nó trực tiếp vào Nga. Aleksandr đang đề xuất quốc hội các cải cách bổ sung để chống lại sự trỗi dậy của các phong trào cách mạng và vô chính phủ non trẻ trước khi ông bị ám sát vào năm 1881.
Tuổi trẻ
trái|nhỏ|[[Charlotte Wilhelmine của Phổ cùng với hai đứa con đâu lòng là Aleksandr và Maria Nikolaievna.]] Ông sinh năm 1818 tại thành phố Moskva, Thiếu thời, ông đã bộc lộ chút ít tiềm năng cơ bản của mình; đến khi ông lên ngôi năm 1855, tuổi 37, một số người cho rằng hậu thế sẽ xem Aleksandr là một ông vua có khả năng thực hiện những cải cách mang tính thử thách nhất trong lịch sử Nga, kể từ thời vua Pyotr Đại đế (1682 - 1725).
Việc giáo dục vị Nga hoàng tương lai được thực hiện dưới sự giám sát của một nhà thơ lãng mạn theo xu hướng tự do, đồng thời cũng là một dịch giả tài ba tên là Vasily Andreyevich Zhukovsky, cùng với M. M. Speransky và E. F. Kankrin. Sau này ông đã trở thành sĩ quan chỉ huy của đội vệ binh. Kể từ khi Aleksandr được tấn phong làm Hoàng thái tử, ông trở thành Hiệu trưởng của một trường quân sự tại Nga. Khác với vua cha, ông không yêu thích quân đội Nga thời bấy giờ. Có người cho rằng ảnh hưởng từ thầy Zhukovsky đã khiến ông không có thiện cảm với quân đội Nga. Các sử gia về sau đã phát hiện rằng ông không có hứng với việc quân sự, và có lẽ đây chỉ là phản ứng của ông đối với thất bại của Hoàng gia Nga trong cuộc Chiến tranh Krym, và đối với những hậu quả mà đất nước phải gánh chịu trong cuộc chiến tranh tàn khốc này. Thái tử Aleksandr đã thực hiện một chuyến hành trình sáu tháng, thăm viếng 20 tỉnh trên khắp nước Nga, một việc làm khác thường trong thời kỳ này. Ông cũng thăm viếng nhiều quốc gia giàu mạnh ở Tây Âu. Ông trở thành Thái tử nhà Romanov đầu tiên đến thăm Xibia.
Ngày 2 tháng 3 năm 1855, Nga hoàng Nikolai I lâm bệnh mất, trong lúc chiến tranh Krym còn tiếp diễn. Theo đạo luật về quyền thừa kế ngôi Hoàng đế (ban hành năm 1797), hoàng thái tử Aleksandr lên nối ngôi ở tuổi 36, Năm 1849 nhà văn này súy nữa thì bị hành hình trước khi được giảm án mà đày sang Xibia. phải|nhỏ|Nga hoàng Aleksandr II được xức dầu thánh. Mặc dù nền kinh tế lạc hậu, nước Nga cũng dần dần thực hiện những bước tiền trên con đường phát triển kỹ thuật. Vào năm 1837, người ta khai thông một tuyến đường sắt nối liền kinh thành Sankt-Peterburg với "Hoàng Thôn" (Tsarskoye Selo) của Hoàng gia Nga. Năm 1851, người ta lại hoàn thành tuyến đường sắt thứ hai trong lịch sử Nga, kết nối Sankt-Peterburg với Moskva., sống trong những điều kiện thường là tồi tệ hơn so với các nông dân Tây Âu tại các thái ấp thế kỷ XVI. Nga hoàng Aleksandr II lên ngôi giữa lúc cuộc chiến tranh Krym vẫn còn tiếp diễn, lợi thế nghiêng về đối phương. Sau khi Sevastopol thất thủ, một cận thần của Nga hoàng là Công tước Gorchakov đã tiến hành đàm phán hóa bình. Với việc ký kết Hiệp ước Paris, cuộc chiến tranh Krym chấm dứt, đế quốc Nga mất vùng lãnh thổ phía nam. Thất bại ê chề trong cuộc chiến tranh Krym đã làm cho đế quốc Nga bị choáng váng và nhục nhã. Những vụ hối lộ, trộm cắp và tham nhũng xảy ra ở mọi nơi. Trước tình cảnh đó, nhiều người Nga mong muốn cải cách. Nền kinh tế đất nước cần phải được chấn hưng và nền chính trị phải được giữ ổn định hơn trước.
Dù là vị Hoàng đế nắm quyền hành chuyên chế trị vì đế quốc Nga, trong một vài năm ông có những hoạt động hơi giống một vị vua lập hiến của đế quốc rộng lớn này. Đại văn hào Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky - vốn đã bị đày sang Xibia như đã nêu - được Nga hoàng mới khôi phục địa vị trong tầng lớp quý tộc cũng như trong quân đội Nga. Năm 1859, ông cũng cho phép Dostoyevsky được về Sankt-Peterburg sau 10 năm lưu đày mà sống trong quãng đời còn lại, nhưng không ban cho văn hào này một đặc ân hay đặc lợi gì đồng thời Dostoyevsky không thể thoát khỏi tầm theo dõi của lực lượng cảnh sát. Dù sao thì sự khoan hồng của Nga hoàng cũng là một trong những lý do khiến Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky thay đổi quan điểm. Tuy nhiên, theo một tài liệu của những tác giả Nga thì khoảng mười triệu người Nga đã thoát khỏi thân phận nông nô, được cấp một số ít đất đai. Cuộc cải cách này được xem là "phong trào xã hội vĩ đại nhất kể từ cuộc Đại cách mạng Pháp" và tạo nên một bước tiến quan trọng cho phong trào giải phóng nhân dân lao động Nga.
phải|nhỏ|Những người Cossack bái tạ Aleksandr II, trong lễ đăng quang năm 1856. Bên cạnh đó, cuộc cải cách - bị xem là nửa vời bịp bợm - vẫn còn hạn chế: những người tá điền canh tác những mảnh đất nào còn bị ép buộc phải trả lệ phí cho những mảnh đất đó. :...Và khi chế độ nông nô đã bị xoá bỏ, vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIXI - ở nước Nga, muộn hơn các nơi khác, vào năm 1861 - thì nhà nước tư bản thay thế cho nhà nước phong kiến; nó tuyên bố mọi người đều được tự do, nó nói rằng nó là biểu hiện ý chí của tất cả mọi người, nó không nhận nó là một nhà nước giai cấp; thế là giữa những người xã hội Chủ nghĩa đấu tranh cho tự do của toàn thể nhân dân và nhà nước tư bản diễn ra một cuộc đấu tranh, nó vừa đưa đến việc thành lập nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa xô-viết và đang lan tràn khắp thế giới.
Những cải cách khác và sự phát triển của tư bản Chủ nghĩa
trái|
Năm 1870, triều đình cũng thực hiện cải cách nữa về chính quyền thành phố.
Ban thưởng những người trung thành và khuyến khích Chủ nghĩa dân tộc Phần Lan phát triển ở Nga
Đài tưởng niệm Aleksandr II (Romanov) ở Helsinki, Phần Lan. Năm 1863 Nga hoàng Aleksandr II tái lập Nghị viện Phần Lan và thực hiện một số cải cách nhằm gia tăng quyền tự trị của xứ Phần Lan trong đế quốc Nga. Ông cho thành lập đơn vị tiền tệ riêng của Phần Lan - Markka. Sự tự do thương mại đã khiến cho nước ngoài tăng cường đầu tư vào Phần Lan và công nghiệp được mở rộng.
Cuối cùng, tiếng Phần Lan được nâng lên từ một ngôn ngữ của dân chúng thành một ngôn ngữ quốc gia ngang hàng với tiếng Thuỵ Điển. Cải cách này đã tạo sự cân xứng không nhỏ trong xã hội. Đến nay, người Phần Lan vẫn xem Aleksandr II như một Nga hoàng có lòng nhân ái.
Những cải cách này có thể được xem như kết quả của một ý nghĩ chính xác rằng cải cách dễ được thực hiện ở một vùng đất thưa dân, thuần nhất hơn là ở nước Nga rộng lớn. Chúng cũng có thể được xem như sự ban thưởng cho lòng trung thành của những thần dân Đông Tây của triều đình Nga trong cuộc chiến tranh Krym và cuộc khởi nghĩa của nhân dân Ba Lan. Việc khuyến khích sự phát triển của ngôn ngữ và Chủ nghĩa dân tộc Phần Lan cũng có thể được xem như là một cố gắng để làm giảm bớt những phụ thuộc vào vương quốc Thụy Điển.
Mười ba năm sau khi ông bị ám sát, đài tưởng niệm Nga hoàng Aleksandr "Nhà giải phóng" tại Quảng trường Thượng Nghị viện được xây dựng ở Helsinki năm 1894. Khi đó, Phần Lan vẫn là một công quốc thuộc đế quốc Nga. Dưới tượng đài có ghi niên đại "1863" - tức năm tái lập Nghị viện Phần Lan. Đài tưởng niệm này, nêu rõ lòng biết ơn của nhân dân Phần Lan đối với Nga hoàng Aleksandr II, vẫn tồn tại nguyên vẹn qua nhiều thời kỳ căng thẳng và chiến tranh với Nga dưới nhiều chính thể của quốc gia rộng lớn này về sau.
Dù không triệt để, những cải cách nêu trên của Nga hoàng Aleksandr II - còn gọi là cuộc "đại cải cách" - thường được xem là những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử nước Nga thời cận đại, kể từ thời vua Pyotr Đại đế cho đến khi những phong trào cách mạng Nga năm 1905 và 1907 bùng nổ.
Những hoạt động đối ngoại
phải|Nga hoàng Aleksandr II qua nét vẽ của [[Konstantin Makovsky (1881).]] [http://en.wikipedia.org/wiki/Eastern_Question Vấn đề Đông phương] là vấn đề đầu tiên mà chính sách đối ngoại của Nga hoàng Aleksandr II hướng tới. Chiến bại của quân Nga tại vùng Krym đã làm vị thế quốc tế của Nga bị suy giảm và làm Nga mất đi thế mạnh của họ trên vùng Balkan. Sự trung lập hóa Biển Đen đã khiến cho vùng biển tại biên giới phía nam của nước Nga không được phòng vệ, thế là sự phát triển của miền Nam Nga và phá vỡ sự mở rộng của việc ngoại thương. Dù vậy, ngoại trưởng Mỹ Seward cho rằng thương vụ này là cả một tính toán về chiến lược. Vùng Alaska nằm gần sát với Canada, một phần thuộc đế quốc Anh. Mục đích của việc bán Alaska là Mỹ sẽ cùng liên minh với Nga đương đầu với Anh. Trước đây, Nga là nước ủng hộ phe liên quân trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, trong khi Anh thì ngược lại. Ngày 18 tháng 10 năm 1867, hai bên thực hiện lễ chuyển giao vùng đất Alaska. Tuy nhiên, cho tới năm 1917 (50 năm sau thương vụ Alaska) và tới ngày nay, người Nga đã hối hận về thương vụ Alaska.
Năm 1864, quân đội Nga bắt đầu tiến đánh các Hãn quốc vùng Trung Á. Mùa xuân năm 1866, họ gặt hái thành công trong những chiến dịch đánh đánh Bukhara. Tháng 3 năm 1868 vua xứ Bukhara tuyên bố một cuộc "thánh chiến" chống Nga hoàng, nhưng bị đánh bại. Tháng 6 năm đó vua xứ Bukhara phải ký một hòa ước bất bình đẳng với chính phủ Nga hoàng.
Sau khi dập tắt một cuộc khởi nghĩa tại Kokand (1875-1876), ngày 19 tháng 2 năm 1876 Nga hoàng tuyên bố vùng Kokand trở thành một phần của xứ Turkistan thuộc Nga. Tuy nhiên, các Hãn quốc Bukhara và Khiva đã giữ được nền độc lập trên danh nghĩa. Trong các năm 1878 - 1879 Vương quốc Afghanistan cũng bị thực dân Anh xâm chiếm và bảo hộ.
Ngoài ra, đầu thập niên 1870, quân đội Nga hoàng bắt đầu tiến đánh các bộ lạc Turkmen. Triều đình Nga thực hiện chính sách chấp thuận những truyền thống bản địa của dân thuộc địa Trung Á. Người Nga cũng xây dựng luật pháp tại Trung Á. Xung đột nội bộ vùng Trung Á kết thúc. Người Nga và người các nước láng giềng được tự do di cư đến Trung Á.
Chiến tranh chống Ottoman
phải|[[Đài tưởng niệm vị Nga hoàng giải phóng ở Sofia, tưởng nhớ vai trò quyết định của Aleksandr II đối với cuộc giải phóng Bulgaria khỏi ách thống trị của Thổ (Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877–1878)).]]
Năm 1855, Nga hoàng Aleksandr II lên nối ngôi. Theo sau lễ gia miện của ông là một câu hỏi: "Phải làm gì với đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ?" - mà người ta thường gọi là "vấn đề Đông phương". Kể từ khi quân đội Ottoman chiếm kinh đô Constantinopolis của đế quốc Đông La Mã, người Nga luôn khao khát chiếm lại Constantinopolis và đặt lại Thánh giá lên Giáo đường Hagia Sophia. Với khát vọng này, trước đây quân Nga đã không ít lần giao chiến với quân Ottoman. Vấn đề này đã chi phối chính sách đối ngoại của Aleksandr II, cuối cùng dẫn tới chiến tranh.
Trước chiến tranh, Serbia đã được tự trị năm 1833, còn Bulgaria vẫn là xứ thuộc đế quốc Ottoman. Năm 1875, khủng hoảng chính trị xảy ra ở Balkan. Do chính quyền Ottoman đánh sưu cao thuế nặng lên người dân Bosnia và Herzegovina, họ phải nổi dậy đấu tranh. Người Serbia thấy Bosnia Herzegovina làm loạn cũng giúp những người Bulgaria - vốn đã bị trấn áp nặng nề tại đế quốc Ottoman - vùng dậy khởi nghĩa. Chính quyền Ottoman mong muốn dập tắt nhanh chóng các cuộc khởi nghĩa này để lấy trường hợp Bulgaria ra làm bài học cho những người khác và trấn áp khởi nghĩa Bulgaria một cách tàn nhẫn. Trong triều đình Aleksandr II, dù Bộ trưởng Ngoại giao Aleksandr Gorchakov là người phản đối Chủ nghĩa Đại Sla-vơ, nhiều triều thần theo Chủ nghĩa này. Kể từ cuối thập niên 1860, Nga hoàng Aleksandr II ít quan tâm đến Hoàng gia và xã hội Sankt-Peterburg vì vướng vào mối tình khó giấu giếm với Yekaterina Dolgorukov, hơn nữa, sự mặc cảm tội lỗi của ông đã khiến ông dễ bị tổn thương trước áp lực của các nhà dân tộc Chủ nghĩa Đại Sla-vơ - những người đã nhờ bà Hoàng hậu đau yếu bào chữa cho họ khi Serbia tuyên chiến với đế quốc Ottoman vào năm 1876. Được Nga xúi dục, Serbia và Montenegro tuyên chiến với đế quốc Ottoman. Tuy nhiên Nga không thể trực tiếp tuyên chiến với Thổ Ottoman vì trong "Liên minh ba hoàng đế", Áo-Hung không muốn Nga can thiệp quá mạnh mẽ vào vùng Balkan vì họ có tham vọng đối với vùng đất đó. Aleksandr II bèn đề nghị hoàng đế Áo-Hung giữ thái độ trung lập nếu Nga can thiệp vào khủng hoảng chính trị vùng Balkan. Không nhận được sự hồi đáp, Aleksandr đã gửi tiền, quân nhu, và cả "những cựu tướng lĩnh và sĩ quan" đến giúp phong trào khởi nghĩa vùng Balkan. Áo-Hung và đặc biệt và Anh không muốn Nga bảo hộ Thổ Nhĩ Kỳ - đồng minh của họ trong chiến tranh Krym ngày trước. Họ đã triệu tập một Hội nghị Constantinopolis nhưng không thành công. Trong lúc này, chiến tranh vẫn tiếp diễn, phong trào khởi nghĩa đến hồi thất thế. Cuối năm 1876 quân Thổ Ottoman đã áp đảo quân khởi nghĩa. Thổ Nhĩ Kỳ có 400.000 quân trong khi lực lượng khởi nghĩa của Bulgaria, Serbia, và Montenegro chỉ có 105.000 quân. trước áp lực của các nhà dân tộc Chủ nghĩa Đại Sla-vơ Nga hoàng tuyên bố ông là người bảo vệ của giáo dân Chính Thống giáo Đông phương sống trong đế quốc Ottoman, rồi tuyên chiến với đế quốc này vào ngày 12 tháng 4. Đây là cuộc chiến tranh cuối cùng trong một loạt cuộc chiến tranh Nga-Thổ trong lịch sử. Nga hoàng Aleksandr II phái 1.200.000 quân đến đánh quân Ottoman tại vùng Kavkaz. Tuy nhiên, sự thối nát hết thuốc chữ của quân đội Nga đã khiến cho họ nhận lấy tổn thất nặng nề và cuộc chiến trở nên đẫm máu. Dù Aleksandr II đã cải cách quân đội Nga theo kiểu Phổ, những cải cách này đã không khiến quân đội khắc phục tình trạng vô học của các binh sĩ. Tương tự như Anh, Áo-Hung cũng đe dọa chiến tranh và gửi một đạo quân đông đảo đến hòng tấn công bên sườn quân Nga. Trước sự can thiệp của các đế quốc Tây Âu, Aleksandr II nhận thấy nước ông không có tiềm lực về quân sự để tham gia một cuộc chiến tranh nữa (mà lần này thì đối phương quá mạnh), bèn tiếc nuối hạ lệnh cho quân sĩ không chiếm đóng Constantinopolis. Sự kiện này đã khiến cho biết bao người Nga thất vọng. Không những thế, ông cũng nhận thấy rằng cứ kéo dài chiến tranh thì nước Nga cũng không có thêm lợi lộc gì, bèn hạ lệnh ngừng bắn. Hiệp ước này được ký kết vào ngày 19 tháng 2 (3 tháng 3) năm 1878, theo đó đế quốc Ottoman phải thừa nhận sự thành lập của Nhà nước Bulgaria (trong đó có Macedonia và Rumelia). Đồng thời Serbia, Montenegro và Romania cũng giành được độc lập, lãnh thổ Serbia và Montenegro được mở rộng. Cũng theo hiệp ước này quyền kiểm soát của Nga đối với xứ Armenia được củng cố, toàn bộ lực lượng Ottoman trên sông Danube bị tiêu diệt, tất cả các nước đều có quyền ra vào các eo biển, triều đình Ottoman phải cống cho Nga một khoản bồi thường đồ sộ Như vậy là Nga hoàng Aleksandr II phá vỡ thỏa thuận trước đây với hoàng đế Áo-Hung, theo đó Áo-Hung sẽ chiếm lấy Bosna và Hercegovina.
Hiệp ước San Stefano đã bị nhiều quốc gia phản đối, chủ yếu là Anh và Áo-Hung. Một quốc gia Bulgaria sẽ khiến cho đế quốc Áo-Hung bị ngăn chặn từ biển Aegean và Constantinopolis, còn đế quốc Anh thì rất lo sợ người Nga sẽ mang ảnh hưởng lớn lao vào các eo biển và Kênh đào Suez. Theo tác phẩm "Sử Trung Quốc" của Nguyễn Hiến Lê, năm 1860, Nga đứng ra làm "trung gian" trong Hiệp ước Bắc Kinh giữa Anh, Pháp với Trung Quốc, lại bắt Mãn Thanh nhượng toàn bộ miền Bắc Ô Tê Lý Giang cho tới bờ biển và cho phép các nhà buôn người Nga tha hồ tới Bắc Kinh. Triều đình Mãn Thanh đã mất tỉnh Maritime về tay đế quốc Nga hoàng.
Năm 1855, Hiệp ước Shimoda được ký kết giữa Nhật Bản và nước Nga Sa hoàng. Với Hiệp ước này, Nhật Bản và Nga đã thành lập mối ngoại giao song phương. Ngoài ra, Hiệp ước còn chỉ ra vùng biên giới Nga-Nhật nằm giữa các đảo Iturup (Etorofu), Urup (Uruppu) và hai phần của quần đảo Kuril. Giờ đây tàu thuyền Nga đã được phép ra vào các cảng Shimoda, Hakodate và Nagasaki của Nhật Bản.
Mặc dù cả hai nước vẫn cùng cai quản Sakhalin, người Nhật lại đặt quyền cai quản lên những hòn đảo Iturup, Kunashir (Kunashiri), Shikotan và Khabomai (Habomai) - giữa lúc người chủ của những hòn đảo này chưa được xác định là ai .
Đến năm 1875, Hiệp ước Sankt-Peterburg được ký kết giữa đế quốc Nhật và Nga: tất cả các quần đảo Kurile giờ đây nằm dưới quyền kiểm soát của triều đình Nhật hoàng. Đáp lại, Nga được đặt quyền cai quản lên đảo Sakhalin. Mãi đến năm 1905, chiến bại của Nga trong chiến tranh Nga-Nhật (1904 - 1905) đã khiến Nga mất quyền kiểm soát phía nam đảo Sakhalin Năm xưa, các thầy của ông đã cho rằng Aleksandr là người dễ lùi bước trước khó khăn, thật vậy, trong những năm 1865 - 1866 ông chán nản vì những cải cách của ông đã không làm cho xã hội nước Nga được hòa thuận. quân khởi nghĩa bị quân đội Nga hoàng trấn áp. Ngày 22 tháng 7 năm 1863, một hội nghị của công nhân được họp tại thành phố Luân Đôn, với quan điểm ủng hộ khởi nghĩa Ba Lan và phản kháng lại sự ủng hộ của các lãnh đạo Âu châu với chính quyền Aleksandr II. Năm sau (1864), vào ngày 28 tháng 9, công nhân các nước Anh và Pháp lại họp tại Luân Đôn, tỏ ra quan điểm chống đối việc quân Nga dập tắt cuộc đấu tranh của nhân dân Ba Lan.
Hàng trăm người Ba Lan bị xử tử, và một số người bị trục xuất đến Xibia. Cái giá của khởi nghĩa đó là sự ủng hộ của Nga đối với công cuộc thống nhất nước Đức do người Phổ lãnh đạo. Được sự ủng hộ của Nga, Thủ tướng Phổ Otto von Bismarck đã đánh bại quân Đan Mạch (1864), Áo (1866) và Pháp (1871).
Vào tháng 12 năm 1879, hai thành viên của tổ chức "Dân ý" là Andrei Zhelyabov và Sophia Perovskaya đã dùng nitrôglyxêrin để phá hoại chiếc xe lửa của Nga hoàng. Tuy vậy, những người khủng bố đã tính toán sai lệch và kết quả là một chiếc xe lửa khác bị phá hoại. Một âm mưu dùng chất nổ để phá chiếc cầu Kamenny ở kinh thành Sankt-Peterburg khi Aleksandr II đi qua chiếc cầu này cũng không thành công. Stefan Khalturin đến kiếm việc ở Cung điện Mùa Đông, được cho phép ngủ tại đó. Thế là Stefan Khalturin đem những gói thuốc nổ dynamit vào phòng của mình và giấu giếm chúng dưới bộ đồ giường của Khalturin.
Vào ngày 17 tháng 2 năm 1880, theo lệnh của tổ chức "Dân ý", Khalturin đặt mìn trong một tầng hầm dưới phòng ăn trong Cung điện Mùa Đông. Quả mìn sẽ nổ vào lúc Nga hoàng Aleksandr II ăn tối, theo tính toán của tổ chức "Dân ý". Rủi thay cho những nhà cách mạng, khách của ông là Vương công Alexander xứ Bulgaria đến trễ, vì thế Aleksandr chưa ngồi vào bàn ăn. Thế là ông lại thoát khỏi một vụ ám sát khác dù 67 người bị giết và bị thương trong vụ nổ.
Cái chết của Aleksandr II
Trước khi Aleksandr II bị giết, nhà cách mạng người Ba Lan Ignacy Hryniewiecki - một trong những người tham gia vụ mưu sát Nga hoàng - có viết:
Đề xuất của Mikhail Tarielovich, Bá tước Loris-Melikov
Nga hoàng bổ nhiệm Mikhail Tarielovich, Bá tước Loris-Melikov làm Chủ tịch Ủy ban Hành pháp tối cao - một Ủy ban vừa được thiết lập tại Sankt-Peterburg sau vụ mưu sát Aleksandr II vào tháng 2 năm 1880, với trọng trách đối phó với phong trào cách mạng. Hội "Dân ý" tuyên bố sẽ chấm dứt những hoạt động khủng bố nếu triều đình Nga ban bố một bản Hiến pháp công nhận quyền tự do bầu cử và bãi bỏ cơ quan kiểm duyệt. Vào ngày 25 tháng 2 năm 1880, Aleksandr II tuyên bố rằng ông đang suy xét về việc ban bố Hiến pháp. Để chứng tỏ ý định tốt của mình, ông ra lệnh cho các nhà tù phóng thích một số lượng lớn tù nhân. Ngoài ra, ông cũng hạ lệnh cho Loris-Melikov soạn thảo một bản Hiến pháp, với những quy định làm thoả mãn những nhà cách mạng nhưng đồng thời bảo vệ quyền lợi của tầng lớp thống trị.
Trong thời gian này, Bộ Công an Nga thiết lập Tổ chức Mật vụ thời Nga hoàng, còn gọi là "Okhrana". Theo lệnh của Bộ trưởng Nội vụ Loris-Melikov, những người làm tay trong bắt đầu tham gia các tổ chức chính trị chủ trương vận động cải cách xã hội thời bấy giờ.
Vào tháng 1 năm 1881, Bá tước Loris-Melikov đề xuất những dự định của mình với Nga hoàng Aleksandr II. Trong những dự định này có việc mở rộng quyền lực của các Zemstvo. Sự mở rộng này sẽ giúp cho mỗi zemstov có thể gửi các đại biểu đến một Hội đồng Quốc gia được gọi là "Gosudarstvenny Soviet". Hội đồng Quốc gia này có quyền ban hành luật pháp. Aleksandr II lo ngại rằng nếu thực hiện những đề xuất của Loris-Melikov, Hội đồng Quốc gia sẽ nhận được quá nhiều quyền lợi. Vì thế, thay vì ban bố ngay Hiến pháp, ông triệu tập một uỷ ban có vai trò xem xét những đề xuất của Loris-Melikov.
Từ nhiều năm trước, cứ mỗi Chủ Nhật thì Nga hoàng lại đến Manezh để chứng kiến cuộc duyệt binh của các vệ sĩ. Ngày hôm đó, trên đường tới Manezh cũng như trên đường về, ông ngồi trên một chiếc xe ngựa kín, được hộ tống bởi sáu người Cossack, cùng một chỗ ngồi thứ bảy nằm ở phía bên trái người đánh xe. Theo sau xe của Aleksandr II có hai chiếc xe trượt tuyết chở cảnh sát trưởng và người đứng đầu toán vệ binh của Nga hoàng. Như thường lệ, bọn họ phải đi theo đường kênh Ekaterina và vượt qua cầu Pevchesky. Các thành viên hội "Dân ý" đã theo dõi Nga hoàng trên suốt quãng đường Đó là một quả bom: nó đã giết chết cả Nga hoàng lẫn Hryniewiecki. Các thành viên Hoàng gia Romanov đều kéo nhau đến hiện trường. Hay tin, Dolgorukov chạy vào căn phòng của Aleksandr II và tình cờ nhìn thấy thi thể Nga hoàng, bà khóc "Sasha! Sasha!" Trong hồi ký của mình, Đại vương công Aleksandr Mikhailovich cho biết chiếc áo khoác màu hồng và trắng của Dolgorukov đã được nhúng vào máu của Aleksandr II.
Vị Nga hoàng hấp hối được làm lễ ban thánh thể và lễ xức dầu lần cuối cùng. Người ta hỏi quan Thái y Sergey Petrovich Botkin rằng Nga hoàng còn có thể sống được bao nhiêu lâu nữa, Botkin nói "còn 15 phút nữa". Lúc 3 giờ rưỡi ngày hôm đó, Aleksandr II qua đời tại Cung điện Mùa Đông,
Nga hoàng Aleksandr II được chôn chất tại Đại giáo đường Thánh Phêrô và Phaolô tại kinh đô Sankt-Peterburg. Tại địa điểm xảy ra vụ ám sát ông, Thánh đường Chúa Ki-Tô Cứu Thế Trên Vũng Máu được xây nên..
Một hậu quả thứ ba vụ ám sát là sự trấn áp dân quyền tại Nga và lực lượng cảnh sát - vốn ít hung bạo hơn dưới thời Aleksandr II - lại trở nên hung bạo như trước. Cái chết của Nga hoàng Aleksandr II được chứng kiến trực tiếp bởi con trai ông là Aleksandr III và cháu nội ông là Nikolai II. Cả hai Nga hoàng này đều nguyện thề rằng họ sẽ không chết giống như Aleksandr II. Trong số những người díu líu tới vụ ám sát Aleksandr II, Nikolai Sablin tự tử trước khi ông ta có thể bị bắt còn Gesia Gelfman thì chết trong ngục tù. Sophia Perovskaya, Andrei Zhelyabov, Nikolai Kibalchich, Nikolai Rysakov và Timofei Mikhailov bị treo cổ vào ngày 3 tháng 4 năm 1881. Sau đó, Yekaterina Mikhailovna Dolgorukova trở thành tình nhân của nhà vua - người đã nói với bà "Giờ đây nàng đã trở thành người vợ bí mật của Trẫm. Quả nhân nguyện thề rằng nếu Trẫm được tự do, Trẫm đây nhất định sẽ cưới nàng làm vợ". Người phụ nữ này cư ngụ không xa Hoàng cung (Cung điện Mùa Đông) ở kinh thành Sankt-Peterburg. Nhờ thế, bằng lối bí mật, bà không gặp trở ngại trong việc ra vào cung điện mà gặp nhà vua. Sau vụ mưu sát Nga hoàng năm 1866, Aleksandr II bắt đầu có quan hệ tình dục với Yekaterina Mikhailovna Dolgorukova. Đây là một bước chuyển biến trong đời tư của vua Aleksandr II. Quan hệ khó giấu giếm này này đã khiến cho ông xao lãng gia đình ông cũng như xã hội Sankt-Peterburg.
trái|Tranh biếm họa Aleksandr II. Có ghi chú "La civilisation Russe". Cuộc tình đã bị Hoàng gia Nga và các quan trong triều phản đối kịch liệt. Người ta cho rằng Yekaterina Mikhailovna Dolgorukova đã hợp tác với những tên thương nhân bất lương, có mưu đồ chiếm đoạt ngôi Hoàng hậu và thao túng Nga hoàng trong việc trị quốc. Một số hoàng thân còn nghĩ đến chuyện các con của Yekaterina sẽ cướp quyền thực kế của những người thừa tự hợp pháp của Nga hoàng. Năm 1880, lo sợ rằng Dolgorukova sẽ bị ám sát, ông đã đưa Dolgorukova và các con của bà đến tầng ba của Cung điện Mùa Đông. Các triều thần đã truyền miệng rằng bà Hoàng hậu hấp hối Maria bị Nga hoàng bắt phải nghe tiếng các con của Dolgorukova chuyển động, dù những căn phòng của Dolgorukova có khoảng cách rất cao so với nơi Hoàng hậu ở.
Trong hồi ký của mình, Đại vương công Alexander Mikhailovich ghi nhận rằng Nga hoàng đối xử như một cậu thiếu niên khi Yekaterina có mặt, còn Yekaterina cũng hết sức yêu quý ông. Có lần, Nga hoàng có ý định phong chức Đại vương công cho con trưởng của Yekaterina là George. Dù Yekaterina đã phản đối: "Sasha, vì Thượng đế, xin Hoàng thượng đừng làm như vậy!", ý đồ này đã khiến Hoàng gia lo sợ rằng ông sẽ tấn phong Yekaterina làm Hoàng hậu, rồi truất phế những người thừa tự hợp pháp của ông rồi thay thế họ bằng những thành viên trong "gia đình thứ hai" của ông. Hoàng gia cũng bực bội khi họ nghe Yekaterina Dolgorukova gọi Nga hoàng bằng cái tên thân mật "Sasha." Theo ghi nhận của Đại vương công Alexander Mikhailovich, cha của Mikhailovich là Đại vương công Mikhail Nikolaevich của Nga đã xin lỗi Yekaterina vì thái độ lạnh nhạt của Hoàng gia đối với bà.
Đến ngày 6 tháng 7 năm 1880, gần một tháng sau khi Hoàng hậu Maria mất (ngày 8 tháng 6 năm đó), Aleksandr II chính thức kết hôn không đăng đối với Dolgorukova, có bốn người con. Cuộc hôn nhân đã làm cho Hoàng gia và nhân dân không vui, nhưng ông buộc họ phải chấp thuận. Ông phong Dolgorukov làm "Vương phi Yurievskaya" và hợp pháp hóa các con của bà, dù họ - với tư cách là những đứa con của một cuộc hôn nhân không đăng đối - không có quyền kế vị ngôi vua. Trong một chuyến đến Krym, ông đã đi cùng Yekaterina M. Dolgorukova, bị giới quan chức Nga nói xấu sau lưng. Sau một năm Nga hoàng Aleksandr và Vương phi Yekaterina Mikhailovna Dolgorukova sống với nhau, ông bị ám sát (1881). Trước đó, nhà vua đã có dự định phong người phụ nữ này làm Hoàng hậu. Cuộc cải cách giải phóng nông nô (1861) của ông đã mở đường cho sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản tại Nga. Nếu khi Aleksandr II lên ngôi Nga hoàng, nước Nga chỉ có gần 965 km đường ray tàu hỏa, thì khi ông qua đời nước Nga đã có khoảng 22.525 km đường sắt.