Pyotr II (tiếng Nga: Пётр II Алексеевич; 23 tháng 10 năm 1715 – 30 tháng 1 năm 1730) là Hoàng đế Nga từ năm 1727 đến khi qua đời. Ông là con trai duy nhất của Thái tử Aleksei Petrovich và quận chúa Charlotte của Brunswick-Wolfenbüttel, người đã mất ngay sau khi sinh ra ông. Ông cũng là cháu nội (trực hệ) duy nhất của Pyotr I của Nga và hoàng hậu đầu tiên của ông này là Evdokiya Fyodorovna Lopukhina.
Cuộc đời
Pyotr sinh tại Sankt-Peterburg ngày 12 tháng 10 năm 1715 (lịch Julius). Từ thời thơ ấu của ông thì Đại công tước mồ côi sớm này đã được câu lưu tại nơi hẻo lánh một cách nghiêm ngặt. Ông là người đầu tiên trong Hoàng gia Nga không có tước hiệu Hoàng tử mà có tước hiệu đại công tước. Ông nội của ông, Nga hoàng Pyotr I (còn gọi là Pyotr Đại Đế), nói chung không thừa nhận đứa cháu trai này. Những người bảo mẫu đầu tiên của ông là các bà vợ của các thủy thủ và những người bán rượu vang gốc Hà Lan sống tại Nga; một thủy thủ tên là Norman đã dạy ông những kiến thức cơ bản của nghề hàng hải và khi ông nhiều tuổi hơn một chút thì ông đã được đặt dưới sự chăm sóc của một người tị nạn gốc Hungary, Janos Zeikin, là một người thầy rất tận tâm và chu đáo của ông. Pyotr I đã ra một sắc luật vào năm 1722, theo đó Sa hoàng có quyền chỉ định người kế vị, nhưng ông đã không sử dụng quyền lực này. Sau khi Pyotr I chết năm 1725, nhiều quý tộc đã ủng hộ người cháu 9 tuổi của ông là Pyotr Alekseevich, nhưng khi đó nắm quyền lực lại là những người ủng hộ người vợ góa của Nga hoàng Pyotr I là Ekaterina I, đã cùng trị vì với chồng từ năm 1724.
Trong thời gian trị vì của Yekaterina I, Pyotr đã bị chối bỏ hẳn; nhưng chỉ trước khi bà này chết thì một điều trở nên rõ ràng đối với những người đang nắm quyền lực tại Nga là cháu nội của Pyotr Đại Đế không thể bị tách khỏi quyền kế vị lâu hơn nữa. Phần lớn dân chúng và khoảng ba phần tư tầng lớp quý tộc ủng hộ ông, trong khi đó ông bác đằng mẹ (chồng của chị mẹ) của ông, hoàng đế La Mã Thần thánh Karl VI, thông qua đại sứ của mình tại Sankt-Peterburg, đã kiên trì vận động và thúc đẩy quyền lợi của ông. Vấn đề này đã được dàn xếp giữa Aleksandr Danilovich Menshikov và Bá tước Andrey Ivanovich Osterman; và vào ngày 18 tháng 5 năm 1727 vua Pyotr II, theo các điều kiện trong di chúc cuối cùng (có thể là giả mạo) của Ekaterina I, đã chính vị hiệu Hoàng đế và Đấng cầm quyền chuyên chính của tất cả nước Nga.
nhỏ|trái|Pyotr II và cô của ông, [[Elizaveta Petrovna, đi săn (1900)]]
Tất cả thời gian trị vì của ông là cuộc đấu tranh giữa các nhóm quý tộc khác nhau, có ý định ràng buộc ông với các cuộc hôn nhân có lợi cho phe cánh của họ (với cô ruột, công chúa Elizaveta Petrovna hơn ông 6 tuổi - sau này là nữ hoàng Elizaveta của Nga trị vì từ năm 1741 đến 1762, sau đó là Maria, con gái của A. D. Menshikov, với nữ công tước Ekaterina Dolgoruka).
Thượng viện, hội đồng bí mật tối cao và những người bảo vệ đưa ra lời tuyên thệ trung thành ngay tức thì. Việc giáo dục vị hoàng tử trẻ được giao phố cho phó thủ tướng Ostermann. Menshikov đã khống chế Pyotr II và câu lưu ông tại cung điện của mình tại đảo Vasilievsky, có ý định gả con gái của mình là Maria cho Pyotr; nhưng ý định này đã thất bại do sự mất quyền lực của ông này (ngày 21 tháng 9 năm 1727); nhưng Pyotr cũng chỉ rơi vào tay của một công tước vô nguyên tắc là Vasiliy Lukich Dolgorukov, người đã đem ông từ Sankt-Peterburg tới Mạc Tư Khoa. Lễ đăng quang của Pyotr được tổ chức tại thành phố này vào ngày 25 tháng 2 năm 1728. Ông đã đính hôn với cháu gái của ông này là nữ công tước Ekaterina Dolgorukova, và đám cưới đã được định ngày vào 30 tháng 1 năm 1730; nhưng trong cùng ngày đó thì ông đã chết vì bệnh đậu mùa tại cung điện Petrovskii (Mạc Tư Khoa). Trong khi ông hấp hối, người vợ trẻ mới cưới đã được đưa vào giường ông nằm trong cố gắng vô vọng nhằm làm cho cô này có thai. Pyotr II cũng là vị Sa hoàng cuối cùng được chôn cất tại nhà thờ Arkhangelskii của Kremli tại Mạc Tư Khoa.
Sau khi vua Pyotr II qua đời, nhà Romanov đã không còn người kế vị là nam giới. Người kế vị ông là bác gái họ, nữ hoàng Anna Ioannovna.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Pyotr II** (tiếng Nga: Пётр II Алексеевич; 23 tháng 10 năm 1715 – 30 tháng 1 năm 1730) là Hoàng đế Nga từ năm 1727 đến khi qua đời. Ông là con trai duy nhất của
**Yekaterina II Đại đế** (tiếng Nga: Екатерина II Великая; sinh ngày 2 tháng 5 năm 1729 – mất ngày 6 hoặc 17 tháng 11 năm 1796), đôi khi được viết là **Ekaterina II**, hay **Yekaterina
**Pyotr I** (), có sách viết theo tiếng Anh là **Peter I** hay tiếng Pháp là **Pierre I** (sinh ngày: 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất ngày: 8 tháng 2 năm 1725
**Đại vương công Pyotr Nikolayevich của Nga** (tiếng Nga: Пётр Никола́евич Рома́нов) (sinh ngày – 17 tháng 6 năm 1931) là một trung tướng và tổng phụ tá quân đội đế quốc Nga. Pyotr là
**Nikolai II của Nga** cũng viết là **Nicholas II** ( , phiên âm tiếng Việt là **Nicôlai II Rômanốp** hay **Ni-cô-lai II**) (19 tháng 5 năm 1868 – 17 tháng 7 năm 1918) là vị
**Pyotr III** ( – ) (, _Pyotr III Fyodorovich_), còn gọi là **Pie III** là một Nga hoàng, chỉ trị vì trong 6 tháng năm 1762. Vì một số chính sách không được lòng dân, ông
**Alexander II** (; 29 tháng 4 năm 181813 tháng 3 năm 1881)) là Hoàng đế Nga, Vua của Ba Lan và Đại vương công Phần Lan từ ngày 2 tháng 3 năm 1855 cho đến khi
**Elizaveta Petrovna** (; - ), cũng được gọi là **Yelisavet** hay **Elizabeth**, là Nữ hoàng nước Nga từ năm 1741 đến khi qua đời năm 1762, tổng cộng 20 năm. Bà vẫn là một trong
**Đại vương công Aleksey Petrovich của Nga** hay **_Tsarevich_ Aleksey Petrovich của Nga** (tiếng Nga: _Алексей Петрович Романов_; 28 tháng 2 năm 1690 – 7 tháng 7 năm 1718) là Thái tử của Nga đồng
**Pavel I của Nga**, còn được chép là **Paul I** (; _Pavel Petrovich_) ( – ) là Hoàng đế Nga từ năm 1796 đến năm 1801. Trong triều đại mình, Pavel đã bãi bỏ nhiều
**Anna Petrovna của Nga** (; 27 tháng 1 năm 1708 – 4 tháng 3 năm 1728) là con gái cả của Hoàng đế Pyotr I của Nga và vợ là Hoàng hậu Yekaterina I. Mặc
**Aleksey Nikolayevich của Nga** () ( – 17 tháng 7 năm 1918) là thái tử (_tsesarevich_) cuối cùng của Đế quốc Nga. Ông là con út và là người con trai duy nhất của Hoàng
**Nikolay Nikolayevich của Nga** (tiếng Nga: _Великий князь Николай Николаевич_; – 5 tháng 1 năm 1929), là thành viên Vương tộc Romanov và là Sĩ quan cấp tướng, tổng tư lệnh của Nga. Ông thường
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Mariya Nikolayevna của Nga** (Mariya Nikolayevna Romanova; tiếng Nga: Великая Княжна Мария Николаевна, ( – 17 tháng 7 năm 1918). Vào năm 1900 và sau đó, sinh nhật của cô diễn ra vào ngày 26
**Tatyana Nikolaevna của Nga** (Tatyana Nikolaevna Romanova) (Tiếng Nga Великая Княжна Татьяна Николаевна) (29 tháng 5 (OS) / 10 tháng 6 (NS) 1897- 17 tháng 7 năm 1918) (năm 1900 và sau đó, sinh nhật
**Olga Nikolayevna của Nga**, tên đầy đủ là **Olga Nikolaevna Romanova** (tiếng Nga: Великая Княжна Ольга Николаевна; 15 tháng 11 năm 1895 – 17 tháng 7 năm 1918). Cô là con gái lớn của Nikolai
**Mikhail Fyodorovich** (, tiếng Slav Đông cổ: _Міхаи́лъ Ѳео́доровичь_; 22 tháng 7 [12 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1596 – 23 tháng 7 [13 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1645), còn được gọi
nhỏ|Ivan VI của Nga với [[Julia von Mengden]] **Ivan VI Antonovich của Nga** (Ioann Antonovich; ; – ) là hoàng đế danh nghĩa của Nga năm 1740-41. Ông lên ngôi khi chỉ mới hai tháng
**Ludwig II** (_Ludwig Otto Friedrich Wilhelm_; 25 tháng 8 năm 1845 – 13 tháng 6 năm 1886), còn được gọi là **Vua Thiên nga** hoặc **Vua truyện cổ tích** (der Märchenkönig), là Vua của Bayern
**Nikolas I** (6 tháng 7 [lịch cũ 25 tháng 6] 1796 – 2 tháng 3 [lịch cũ 18 tháng 2] 1855) là Hoàng đế Nga, Vua của Vương quốc Lập hiến Ba Lan và Đại
**Đại vương công Konstantin Nikolayevich của Nga** (21 tháng 9 năm 1827 – 25 tháng 1 năm 1892) là người con thứ 5 và là con trai thứ của Sa hoàng Nikolai I của Nga
**Anastasia Nikolaevna của Nga** (tiếng Nga: Великая Княжна Анастасия Николаевна Романова, Velikaya Knyazhna Anastasiya Nikolayevna Romanova) ( – 17 tháng 7 năm 1918) là đứa con thứ tư cũng là con gái út của Sa
**Nikolai Aleksandrovich của Nga** (tiếng Nga: Николай Александрович) ( – ) là _tsesarevich_ tức Thái tử Nga từ năm 1855 đến năm 1865. Ông là con trai cả của Nga hoàng Alexander II và Marie
**Maria Nikolayevna của Nga** (; 18 tháng 8 năm 1819 – 21 tháng 2 năm 1876) là con gái của Hoàng đế Nikolai I của Nga và là em gái của Alesandr II của Nga.
**Aleksandra Aleksandrovna của Nga** (30 tháng 8 năm 1842 – 10 tháng 7 năm 1849) là con cả và con gái đầu lòng của Aleksandr II của Nga và Marie Maximiliane xứ Hessen và Rhein.
**Anna Ioannovna** (tiếng Nga: Анна Иоанновна; 7 tháng 2 [lịch cũ 28 tháng 1] năm 1693 – 28 tháng 10 [lịch cũ 17 tháng 10] năm 1740), cũng được Nga hóa là **Anna Ivanovna** và
**August II Mạnh mẽ** (; ; 12 tháng 5 năm 1670 – 1 tháng 2 năm 1733) là Tuyển hầu xứ Sachsen của nhánh Albertine của gia tộc Wettin với tôn hiệu **Friedrich August I**. Ông
**Nikolay Nikolayevich của Nga** (; 8 tháng 8 năm 1831– 25 tháng 4 năm 1891), hay còn được biết với tên **Nikolay Nikolayevich Cha** (), là người con thứ 6 đồng thời là con trai
**Aleksandr III Aleksandrovich** ( – ) (, Aleksandr III Aleksandrovich) là vị Hoàng đế, hay Sa hoàng áp chót của đế quốc Nga từ ngày 13 tháng 3 năm 1881 tới khi qua đời năm
**Đại vương công George Alexandrovich của Nga** (tiếng Nga: _Георгий Александрович_; 9 tháng 5 năm 1871 – 10 tháng 7 năm 1899) là thành viên của Vương tộc Romanov và là người con thứ 3
**Konstantin Pavlovich** (tiếng Nga: Константи́н Па́влович; 08 Tháng 5 năm 1779 (lịch cũ 27 tháng 4) - 27 tháng 6 năm 1831 (lịch cũ 15 tháng 6) là đại công tước của Nga và là
**Đại vương công Michael Nikolaevich của Nga** (25 tháng 10 năm 1832 – 18 tháng 12 năm 1909) là người con út trong số 7 người con của Nikolai I của Nga và Charlotte Wilhelmine
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
Trong lịch sử Nga, giai đoạn từ 1796 đến 1855 (bao gồm các triều đại của Pavel I, Aleksandr I và Nikolai) đã chứng kiến các cuộc chiến tranh của Napoléon, cải cách chính phủ,
**Quốc huy Liên bang Nga** có nguồn gốc từ hậu kì trung đại, với hình ảnh con đại bàng 2 đầu của Đế quốc Đông La Mã Byzantine và hình ảnh thánh George cưỡi ngựa
**Dagmar của Đan Mạch** (26 tháng 11 năm 1847 – 13 tháng 10 năm 1928), sau khi lấy chồng thì sử dụng tên tiếng Nga **Mariya Feodorovna** (), là Hoàng hậu của Đế quốc Nga
phải|nhỏ|300x300px|[[Cung điện Marie trên Quảng trường Thánh Isaac là trụ sở của Hội đồng Nhà nước trong thế kỷ 20.]] **Hội đồng Nhà nước** () là tình trạng cơ quan tư vấn tối cao cho
**Victoria Melita của Sachsen-Coburg và Gotha** (tên khai sinh là **Victoria Melita của Edinburgh**; 25 tháng 11 năm 1876 – 2 tháng 3 năm 1936), là con thứ ba và con gái thứ hai của
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
Đây là danh sách tất cả các vị vua trị vì trong lịch sử nước Nga, bao gồm các danh hiệu Đại vương công Novgorod, Đại vương công Kiev, Đại vương công Vladimir, Đại vương
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
Bá tước **Pyotr Alexandrovich Rumyantsev-Zadunaisky**, còn được viết là **Rumiantsof**, **Romanzow** hay **Romanzoff** (15 tháng 1 năm 1725 – 19 tháng 12 năm 1796) là một trong những vị thống soái lỗi lạc nhất của
Bá tước của Moskva, **Pyotr Semyonovich Saltykov** (, đọc là **Piốt Xêmiônôvích Xanticốp**) (1697 – 26 tháng 12 năm 1772) là một quan chức của triều đình Nga và cũng là một Nguyên soái xuất
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
Quân phục Thống chế Nga ([[1793)]] nhỏ|446x446px|Thống chế [[Aleksandr Vasilyevich Suvorov|A.B. Suvorov.]] **Thống chế** (, đôi khi được dịch là **Nguyên soái**) là cấp bậc quân sự cao nhất trong quân đội Nga từ đầu
nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily trên Quảng trường Đỏ, ở Moskva|thế=]] **Văn hóa Nga** có truyền thống lâu đời về nhiều mặt của nghệ thuật, đặc biệt khi nói đến văn học, múa dân
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Hoàng đế của Toàn Nga** hoặc **Sa hoàng Nga** (tiếng Nga: (cải cách năm 1918) Императоръ Всероссійскій, Императрица Всероссійская, (chính tả hiện đại) Император Всероссийский, Императрица всероссийская, _Imperator Vserossiyskiy_, _Imperatritsa Vserossiyskaya_) là hoàng đế chuyên