✨Ludwig II xứ Hessen

Ludwig II xứ Hessen

Ludwig II (26 tháng 12 năm 1777 – 16 tháng 6 năm 1848) là Đại công tước đời thứ 2 của xứ Hessen và Rhein, tại vị từ ngày 6 tháng 4 năm 1830 đến khi qua đời vào ngày 16 tháng 6 năm 1848. Ông là con trai của Đại công tước Ludwig I và mẹ là Louise xứ Hessen-Darmstadt.

Ông là người yêu thích chế độ chuyên chế, điều này hoàn toàn trái ngược với cha của ông. Vì thế, sau khi lên ngôi Đại công tước, Ludwig II đã thực hiện việc đảo ngược các chính sách của người tiền nhiệm Ludwig I, chính điều này đã làm người dân mất cảm tình và dẫn đến nhiều sự xung đột.

Ludwig II qua đời vào năm 1848, ở tuổi 70, ông đã chứng kiến giai đoạn đầu của Cuộc cách mạng 1848 đang quét qua các nhà nước Đức, trong đó có Hessen. Tuy nhiên, ông đã qua đời trước khi đưa ra bất kỳ phản ứng chính trị nào. Cái chết của ông và sự kế vị của Ludwig III đã xoa dịu căng thẳng trong dân chúng.

Tuy ông có 4 người con với người vợ Wilhelmine xứ Baden, nhưng có tin đồn phổ biến rằng, họ là sản phẩm của việc vợ ông ngoại tình với một viên thị thần tên là August von Senarclens de Grancy. Thông qua cuộc hôn nhân quý tiện kết hôn của người con trai út là Alexander xứ Hessen và Rhein, ông trở thành tổ phụ của Gia tộc Battenberg. Thông qua cuộc hôn nhân của con gái ông là Marie Maximiliane xứ Hessen và Rhein với Sa hoàng Aleksandr II của Nga, ông trở thành tổ ngoại của Hoàng tộc Romanov.

Cuộc sống đầu đời

Ludwig là con trai trưởng trong số 5 người con của Đại công tước Ludwig I xứ Hessen và Louise xứ Hessen-Darmstadt. Thông qua cha của mình, Ludwig là cháu nội của Bá tước Ludwig IX xứ Hessen-Darmstadt và Karoline xứ Pfalz-Zweibrücken. Thông qua mẹ của mình, ông là cháu ngoại của Georg Wilhelm xứ Hessen-Darmstadt và Maria Luise Albertine xứ Leiningen-Dagsburg-Falkenburg. Vì mẹ của ông là em họ của cha ông, nên dù xét ở bên ngoại hay bên nội thì ông cũng đều thuộc Vương tộc Hessen-Darmstadt của Nhà Hessen. Ludwig được sinh ra khi cha của ông vẫn còn là người thừa kế của Bá quốc Hessen-Darmstadt.

Trước khi tiếp nhận ngai vàng, Ludwig chủ yếu sống ẩn dật ở Darmstadt. Năm 1804, ông đại diện cho cha mình tham dự lễ đăng quang của Hoàng đế Napoleon I tại Paris. Sau khi cha ông trở thành Đại công tước vào năm 1806, Ludwig mang tước hiệu “Đại thế tử”. Ludwig đã tham dự Đại hội Erfurt và Đại hội Viên. Ông cũng đại diện cho triều đình Hessen tại lễ đăng quang của Vua Louis XVIII tại Paris.

Theo Hiến pháp của Đại công quốc Hessen năm 1820, Đại thế tử Ludwig là thành viên của Nghị viện Hessen cho đến khi ông nhậm chức Đại công tước vào năm 1830. Ông tham dự các cuộc họp của họ mà không tỏ ra có sự đồng thuận. Một ngoại lệ là nỗ lực của ông nhằm bảo vệ Hiến pháp tháng 3 năm 1820 được áp đặt chống lại những thay đổi (Hiến pháp tháng 12 năm 1820 sau này) của các điền trang.

Ông tỏ ra ít quan tâm đến các vấn đề của chính phủ, mặc dù các thủ tướng, đầu tiên là Karl Ludwig Wilhelm von Grolman, sau đó là Karl du Thil, đã cố gắng lôi kéo ông và thông báo cho ông bằng thư. Từ năm 1823, Ludwig là thành viên của Hội đồng Nhà nước.

Trị vì

Năm 1830, ông lên ngôi Đại công tước với hiệu Ludwig II sau khi cha ông là Ludwig I qua đời. Ngay từ đầu, ông đã đánh dấu sự đảo ngược chính sách cai trị so với người tiền nhiệm. Ludwig II bắt đầu đặt câu hỏi về các điều khoản của hiến pháp tự do năm 1820, do cha ông khởi xướng. Ông đã gây ra xung đột với Nghị viện Hessen khi ông yêu cầu nhà nước tiếp quản khoản nợ cá nhân lớn của mình.

Dưới thời Ludwig I, chế độ quân chủ lập hiến của Đại công quốc Hessen đã thực hiện phân chia quyền lập pháp giữa Đại công tước và Nghị viện, nhưng sau khi lên ngôi, Ludwig II đã sửa đổi hiến pháp đồng thời giảm bớt ảnh hưởng của Nghị viện để củng cố quyền lực cá nhân của mình, ông và Nghị viện xung đột với nhau trong hầu hết thời gian ông ở ngai vàng. Các chính sách này khiến ông mất lòng dân và trong những tháng cuối cùng của triều đại, trong Cách mạng 1848, ông đã gặp phải một số cuộc biểu tình dẫn đến bạo loạn. Đại công tước không có thời gian để đưa ra phản ứng chính trị trước những sự kiện này vì ông qua đời vào ngày 16 tháng 6 năm 1848 ở tuổi 70. Cái chết và sự kế vị của con trai ông đã xoa dịu căng thẳng trong dân chúng.

Qua đời và chôn cất

Ludwig II ban đầu được chôn cất tại hầm mộ của gia tộc mình trong nhà thờ Stadtkirche Darmstadt. Năm 1910, quan tài của ông được chuyển đến Lăng mộ cũ ở Công viên Rosenhöhe.

Hôn nhân và hậu duệ

Vào ngày 19 tháng 6 năm 1804, tại Karlsruhe, ông kết hôn với người em họ đời đầu của mình là Đại công nữ Wilhelmine xứ Baden, con gái út của Karl Ludwig, Đại thế tử xứ Baden, và Amalie xứ Hessen-Darmstadt.

Do đời sống tình cảm phức tạp của Ludwig, cuộc hôn nhân của ông và vợ không mấy hạnh phúc, và cặp đôi đã chia tay sau khi đứa con thứ 3 của họ chào đời.

Wilhelmine có 4 người con vào những năm 1820, nhưng có tin đồn rộng rãi rằng cha ruột của chúng là viên thị thần August von Senarclens de Grancy. Tuy nhiên, Ludwig II vẫn thừa nhận chúng, và chúng được các quý tộc châu Âu coi là Đại công nữ và Đại công tử hợp pháp của Hessen và Rhein. Hai người trong số họ sống đến tuổi trưởng thành.

  • Đại thế tử Ludwig xứ Hesse và Rhein (9 tháng 6 năm 1806 – 13 tháng 6 năm 1877); (Đại công tước tương lai).
  • Con trai chết lưu (18 tháng 8 năm 1807).
  • Đại công tử Karl Wilhelm Ludwig xứ Hessen và Rhein (23 tháng 4 năm 1809 – 20 tháng 3 năm 1877).
  • Đại công nữ Amalia Elisabeth Luise Karoline Friederike Wilhelmine xứ Hessen và Rhein (20 tháng 5 năm 1821 – 27 tháng 5 năm 1826).
  • Con gái chết lưu (7 tháng 6 năm 1822).
  • Đại công tử Alexander Ludwig Georg Friedrich Emil xứ Hessen và Rhein (15 tháng 7 năm 1823 – 15 tháng 12 năm 1888)
  • Đại công nữ Maximiliane Wilhelmine Auguste Sophie Marie xứ Hesse và Rhein (8 tháng 8 năm 1824 – 3 tháng 6 năm 1880); Hoàng hậu của Đế chế Nga, vợ của Aleksandr II.

Gia tộc Battenberg-Mountbatten

Gia tộc Battenberg xuất phát từ cuộc hôn nhân của Đại công tử Alexander xứ Hesse và Rhine (con trai út của Ludwig II) với Nữ bá tước Julia Hauke và đây là một cuộc hôn nhân không môn đăng đối hộ. Gia đình Battenberg sau này định cư ở Anh đã đổi tên thành Mountbatten sau Thế chiến thứ nhất theo lệnh của George V của Anh, người đã thay thế tước hiệu thân vương Đức trước đây của họ bằng tước hiệu quý tộc Anh. Hậu duệ của gia tộc này đã hôn phối với nhiều vương tộc ở châu Âu.

  • Con trai thứ của Alexander và Julia là Aleksandr, thành viên của gia tộc Battenberg đã được bầu lên ngai vàng Bulgaria và trở thành Thân vương đầu tiên của nó với vương hiệu Aleksandr I.

  • Con trai thứ 3 của Alexander và Julia là Heinrich xứ Battenberg, thông qua hôn nhân với Vương nữ Beatrice của Liên hiệp Anh, con út của Nữ hoàng Victoria I, Heinrich trở thành thành viên Vương thất Anh. Cũng nhờ con gái Victoria Eugenie kết hôn với Vua Alfonso XIII và trở thành Vương hậu của Tây Ban Nha, Heinrich là tổ tiên của Vương thất Tây Ban Nha hiện tại.

  • Con trai cả của Alexander và Julia là Thân vương Louis xứ Battenberg, trở thành Đệ nhất đại thần Hải quân của Hải quân Hoàng gia Anh. Do tình cảm bài Đức thịnh hành ở Anh trong Thế chiến thứ nhất, ông đã Anh hóa họ của mình thành Mountbatten. Con gái thứ hai của Thân vương Louis xứ Battenberg là Louise Mountbatten, kết hôn với Gustaf VI Adolf vua tương lai của Thụy Điển vào năm 1923, vì thế trở thành Vương hậu của Thụy Điển vào năm 1950. Con trai út của Thân vương Louis xứ Battenberg là Louis Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện, trở thành Phó vương cuối cùng của Ấn Độ. ** Con gái lớn của Thân vương Louis xứ Battenberg là Alice xứ Battenberg, kết hôn với Andreas của Hy Lạp và Đan Mạch; con trai của họ, Philip của Hy Lạp và Đan Mạch (sau này được phong là Công tước xứ Edinburgh), kết hôn với người thừa kế ngai vàng Anh, sau này là Nữ vương Elizabeth II.

  • Con trai út của Alexander và Julia là Thân vương Francis Joseph xứ Battenberg kết hôn với Vương nữ Anna xứ Montenegro, em gái của Vương hậu Elena của Ý (vợ của Vua Vittorio Emanuele III của Ý) và là dì ruột của Vua Aleksandar I của Nam Tư.

Tổ tiên

Tài liệu

  • Siegfried Büttner: Die Anfänge des Parlamentarismus in Hessen-Darmstadt und das du Thilsche System. Historischer Verein für Hessen, Darmstadt 1969.
  • Eckhart G. Franz (Hrsg.): Haus Hessen. Biografisches Lexikon. (= Arbeiten der Hessischen Historischen Kommission N.F., Bd. 34) Hessische Historische Kommission, Darmstadt 2012, ISBN 978-3-88443-411-6, Nr. HD 65, S. 338–339 (Eckhart G. Franz).
  • Jochen Lengemann: MdL Hessen. 1808–1996. Biographischer Index (= Politische und parlamentarische Geschichte des Landes Hessen. Bd. 14 = Veröffentlichungen der Historischen Kommission für Hessen. Bd. 48, 7). Elwert, Marburg 1996, ISBN 3-7708-1071-6, S. 182.
  • Johann Wilhelm Christian Steiner: Ludwig II. Großherzog von Hessen und bei Rhein. Darmstadt 1848.
  • Johann Wilhelm Christian Steiner: Die Geschichte der Regierung Ludwig II, Grossherzogs von Hessen und bei Rhein. Seligenstadt 1849.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ludwig II** (26 tháng 12 năm 1777 – 16 tháng 6 năm 1848) là Đại công tước đời thứ 2 của xứ Hessen và Rhein, tại vị từ ngày 6 tháng 4 năm 1830 đến
**Ludwig IX, Phong địa Bá tước xứ Hessen-Darmstadt** (tiếng Đức: _Ludwig_; 15 tháng 12 năm 1719 – 6 tháng 4 năm 1790) là Landgraf trị vì Bá quốc Hessen-Darmstadt từ năm 1768 đến 1790. Ludwig
**Wilhelm I, Tuyển hầu xứ Hessen** (tiếng Đức: _Wilhelm I., Kurfürst von Hessen_; 3 tháng 6 năm 1743 - 27 tháng 2 năm 1821) là Phong địa bá tước cuối cùng của Bá quốc Hessen-Kassel
**Marie Maximiliane xứ Hessen và Rhein** **hay Marie xứ Hessen-Darmstadt** (tiếng Đức: _Marie Maximiliane von Hessen und bei Rhein/Marie von Hessen-Darmstdt_; tiếng Hà Lan: _Marie van Hessen-Darmstadt_; tiếng Nga: _Мария Гессенская и Прирейнская_; tiếng Anh:
**Ludwig II** (_Ludwig Otto Friedrich Wilhelm_; 25 tháng 8 năm 1845 – 13 tháng 6 năm 1886), còn được gọi là **Vua Thiên nga** hoặc **Vua truyện cổ tích** (der Märchenkönig), là Vua của Bayern
**Philipp I xứ Hessen** (13 tháng 11 năm 1504 - 31 tháng 3 năm 1567), biệt danh là _der Großmütige_ ("người vĩ đại"), là Phong địa bá tước thứ 16 và cũng là người cai
**Heinrich I xứ Hessen** (24 tháng 6 năm 1244 - 21 tháng 12 năm 1308), còn được gọi là **Heinrich Con trẻ** (tiếng Đức: _Heinrich das Kind_), là vị Phong địa bá tước (_Landgraf_) đầu
**Julia Hauke, Thân vương xứ Battenberg**, trước đây là **Nữ bá tước Julia von Hauke** và **Bá tước xứ Battenberg** (tên đầy đủ: _Julia Therese Salomea Hauke_; – 19 tháng 9 năm 1895), là vợ
**Bá quốc Hessen-Kassel** (tiếng Đức: _Landgrafschaft Hessen-Kassel_; tiếng Anh: _Landgraviate of Hesse-Kassel_) được đánh vần là **Hesse-Cassel** trong suốt thời gian tồn tại của nó, là một nhà nước trong Đế chế La Mã Thần
**Elisabeth Sophia xứ Sachsen-Altenburg** (tiếng Đức: _Elisabeth Sophia von Sachsen-Altenburg_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Sofía de Sajonia-Altemburgo_; tiếng Đan Mạch: _Elisabeth Sophie af Sachsen-Altenburg_; tiếng Ba Lan: _Elżbieta Zofia z Saksonii-Altenburga_; tiếng Anh: _Elizabeth
**Victoria của Hessen và Rhein,** sau là Victoria Mountbatten, Hầu tước phu nhân xứ Milford Haven (tên đầy đủ: **Victoria Alberta Elisabeth Mathilde Marie**; 5 tháng 4 năm 1863 – 24 tháng 9 năm 1950)
**Irene của Hessen và Rhein** (Irene Luise Marie Anne; 11 tháng 7 năm 1866 – 11 tháng 11 năm 1953), sau là **Vương tức Heinrich của Phổ**, là người con thứ ba của Alice của
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Friedrich của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Friedrich von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Frederick of Hesse and by Rhine_; tên đầy đủ: _Friedrich Wilhelm August Victor Leopold Ludwig_; 7 tháng 10 năm 1870
**Luise xứ Baden** (tiếng Đức: _Luise von Baden_; tiếng Nga: _Луиза Баденская_; tiếng Anh: _Louise of Baden_; tên đầy đủ: _Luise Marie Auguste_; 24 tháng 1, năm 1779 – 16 tháng 5, năm 1826) còn
**Marie của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Marie von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Marie of Hesse and by Rhine_; tên đầy đủ: _Marie Victoria Feodore Leopoldine_; 24 tháng 5 năm 1874 – 16
**Vương tộc Hessen** (tiếng Đức: _Haus Hessen_) là một triều đại châu Âu, có nguồn gốc trực tiếp từ Nhà Brabant. Họ cai trị vùng Hessen, hai dòng quan trọng nhất của vương tộc Hessen
Dưới đây là danh sách khách mời tại lễ đăng quang của Nữ vương Elizabeth II, diễn ra vào ngày 2 tháng 6 năm 1953. ## Gia đình Nữ vương Elizabeth II * Vương Mẫu
**Heinrich** Ludwig Wilhelm Adalbert Waldemar Alexander **của Hessen và Rhein** (28 tháng 11 năm 1838 tại Bessungen – 16 tháng 9 năm 1900 tại München) là một Đại Công tôn của Hessen và Rhein, đồng
**Leopold** (tiếng Đức: _Karl Leopold I. Friedrich von Baden_; 29 tháng 8 năm 1790 - 24 tháng 4 năm 1852) là Đại công tước đời thứ 4 của xứ Baden, ông trị vì từ năm
**Alfred của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (Alfred Ernest Albert; 6 tháng 8 năm 1844 – 30 tháng 7 năm 1900) là thành viên của Vương thất Anh và là Công
**Karl Friedrich xứ Baden** (; 22 tháng 11 năm 1728 - 10 tháng 6 năm 1811), là một nhà cai trị thế tục của Đế chế La Mã Thần thánh, từ năm 1771 đến 1803,
**Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha**, có biệt danh là **Ernst Ngoan đạo** (25 tháng 12 năm 1601 – 26 tháng 3 năm 1675) là công tước của Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg thuộc Các công quốc
nhỏ|Chân dung Anna của Hannover – tranh của Bernardus Accama (năm 1736) **Anne của Đại Anh** (tiếng Anh: _Anne of Great Britain_; tiếng Đức: _Anna von Großbritannien_; ; 2 tháng 11 năm 1709 - 12
**Ernst Ludwig** (; 25 tháng 11 năm 1868 – 9 tháng 10 năm 1937) là Đại công tước cuối cùng của Hessen và Rhein, trị vì từ năm 1892 đến năm 1918, vào cuối Chiến
**Alix của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Alix von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Alix of Hesse and by Rhine_; 6 tháng 6 năm 1872 – 17 tháng 7 năm 1918), còn được gọi
**Sophie Dorothee xứ Württemberg** (tiếng Đức: _Sophie Dorothee von Württemberg_, tiếng Nga: _София Доротея Вюртембергская_; tiếng Anh: _Sophia Dorothea of_ _Württemberg_; tên đầy đủ: _Sophie Marie Dorothee Auguste Luise_; 25 tháng 10 năm 1759 –
**Ludwig xứ Battenberg, Louis xứ Battenberg**, sau này là Thống chế Hải quân Hoàng gia Anh **Louis Alexander Mountbatten, Hầu tước thứ 1 xứ Milford Haven** (1854-1921) là một Vương thân Đức có mối quan
**Maximilian II của Bayern** (28 tháng 11 năm 1811 – 10 tháng 3 năm 1864) có dòng dõi nhà Wittelsbach, là vua của Bayern từ năm 1848 đến năm 1864. Ông là con trai của
thumb|Ludwig I của Bayern khi còn là thái tử, được vẽ năm 1807 bởi [[Angelika Kauffmann]] **Ludwig I của Bayern,** (tiếng Đức: _Ludwig I. von Bayern_; 25 tháng 8 năm 1786 tại Straßburg; 29 tháng
**Friederike xứ Baden** (tên đầy đủ: _Friederike Dorothea Wilhelmine_; 12 tháng 3 năm 1781 – 25 tháng 9 năm 1826) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1797 đến 1809 với tư cách là phối
**Friederike xứ Mecklenburg-Strelitz** (tiếng Đức: _Friederike zu Mecklenburg-Strelitz_; tên đầy đủ: _Friederike Luise Karoline Sophie Charlotte Alexandrine_; 3 tháng 3 năm 1778 - 29 tháng 6 năm 1841) là một Công nữ Đức, bà đã
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Auguste của Phổ** (Christine Friederike Auguste; 1 tháng 5 năm 1780 – 19 tháng 2 năm 1841) là chủ của một salon, họa sĩ và thông qua hôn nhân với Wilhelm II xứ Hessen là
**Tuyển hầu quốc Hannover** ( hoặc đơn giản là _Kurhannover_; ) là một Tuyển hầu quốc của Đế quốc La Mã Thần thánh, toạ lạc ở Tây Bắc nước Đức hiện nay. Tên của nó
Quân phục Thống chế Nga ([[1793)]] nhỏ|446x446px|Thống chế [[Aleksandr Vasilyevich Suvorov|A.B. Suvorov.]] **Thống chế** (, đôi khi được dịch là **Nguyên soái**) là cấp bậc quân sự cao nhất trong quân đội Nga từ đầu
**Otto Eduard Leopold von Bismarck-Schönhausen** (1 tháng 4 năm 1815 – 30 tháng 7 năm 1898) là một chính trị gia người Đức, ông là người lãnh đạo nước Đức và châu Âu từ năm
phải|nhỏ|Ludwig von Wittich **Friedrich Wilhelm Ludwig von Wittich** (15 tháng 10 năm 1818 tại Münster – 2 tháng 10 năm 1884 tại điền trang Siede của mình ở miền Neumark) là một sĩ quan quân
**Louisa của Đại Anh** (18 tháng 12 (lịch cũ) 1724 – 19 tháng 12 năm 1751) là Vương hậu Đan Mạch và Na Uy từ năm 1746 cho đến khi qua đời với tư cách
**John William Friso** (tiếng Hà Lan: _Johan Willem Friso_; 14 tháng 8 năm 1687 – 14 tháng 7 năm 1711) trở thành Thân vương xứ Orange (trên danh nghĩa) vào năm 1702. Ông là _Stadtholder_
**Ludwig Georg Leopold Franz von Spangenberg** (24 tháng 5 năm 1826 tại Fulda – 19 tháng 1 năm 1896 tại Frankfurt am Main) là một Thượng tướng Bộ binh Phổ. Nguyên là một sĩ quan
**Philipp Christian Theodor Conrad von Schubert** (29 tháng 10 năm 1847 tại Wielkibor – 21 tháng 1 năm 1924 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung tướng,
**Gia tộc Battenberg** (; ) là một nhánh của Nhà Hessen-Darmstadt, cai trị Đại Công quốc Hessen cho đến năm 1918. Thành viên đầu tiên là Julia Hauke, người có anh rể là Đại Công
**Alice của Liên hiệp Anh và Ireland** (**Alice Maud Mary**; ngày 2 tháng 4 năm 1843 – ngày 14 tháng 12 năm 1878) là con gái của Victoria I của Liên hiệp Anh và Albrecht
**Thuộc địa của các Nghệ sĩ Darmstadt** đề cập đến một nhóm các nghệ sĩ theo phong cách Thanh niên cũng như các tòa nhà tại **Mathildenhöhe** ở Darmstadt, nơi mà các nghệ sĩ sống
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
**Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời
**Gia tộc Mountbatten** là một gia tộc Anh có nguồn gốc là một nhánh của Gia tộc Battenberg thuộc Đức. Tên này được các thành viên của gia tộc Battenberg đang sinh sống tại Vương
**Louis Francis Albert Victor Nicholas Mountbatten, Bá tước Mountbatten thứ nhất của Miến Điện** (tên khai sinh là Hoàng tử Louis của Battenberg; 25 tháng 6 năm 1900 – 27 tháng 8 năm 1979), là
**Chiến tranh Áo – Phổ** (hay còn gọi là **Chiến tranh bảy tuần**, **Nội chiến Đức** hoặc **Chiến tranh Phổ – Đức**; ) là cuộc chiến tranh diễn ra vào năm 1866 giữa 2 cường