✨Karl Friedrich xứ Baden

Karl Friedrich xứ Baden

Karl Friedrich xứ Baden (; 22 tháng 11 năm 1728 - 10 tháng 6 năm 1811), là một nhà cai trị thế tục của Đế chế La Mã Thần thánh, từ năm 1771 đến 1803, ông giữ vị trí là Phiên địa bá tước xứ Baden, từ năm 1803 đến khi Thánh chế La Mã tan rã (1806), địa vị của ông được nâng lên thành Tuyển hầu, từ năm 1806 đến khi qua đời vào năm 1811, lãnh thổ của ông được nâng lên thành Đại công quốc Baden, vì thế tước vị cuối cùng của ông là Đại công tước.

Karl là một người tham vọng, ông đã thống nhất 2 phiên hầu quốc Baden-Durlach và Baden-Baden sau hàng thế kỷ chia tách bởi các dòng khác nhau của Nhà Zähringen. Ông tìm cách mở rộng thêm lãnh thổ xung quanh thông qua việc liên minh với Nhà Habsburg-Lorraine của Áo chống lại Cách mạng Pháp, sau đó trở giáo chiến đấu bên cạnh Hoàng đế Napoleon của Đệ Nhất Đế chế Pháp, cũng chính vị hoàng đế này nâng ông lên vị trí Tuyển đế hầu vào năm 1803 và ban thưởng cho Baden nhiều đất đai. Năm 1806, Franz II của Thánh chế La Mã tuyên bố chấm dứt sự tồn tại của Đế chế La Mã Thần thánh, các nhà nước của đế chế, trong đó có Tuyển hầu quốc Baden tuyên bố trở thành những nhà cai trị có chủ quyền. Đại công tước Karl qua đời vào năm 1811, nên không thể thấy sự sụp đổ của Napoleon và Đế chế Pháp bốn năm sau đó.

Năm 10 tuổi, ông được thừa kế ngôi Bá tước xứ Baden-Durlach từ ông nội, lãnh thổ này có diện tích 1.631 km2, đến năm 1771, sau cái chết của August Georg Simpert, Bá tước xứ Baden-Baden, mà không để lại người thừa kế, nên Karl đã được thừa kế thêm 140,18 km2 lãnh thổ của Baden-Baden, ông chính thức hợp nhất 2 bá quốc sau 235 năm chia cắt, không dừng lại ở đó, trong suốt 73 năm cai trị của mình ông đã mở rộng lãnh thổ lên gấp 13,3 lần, cho đến khi ông qua đời độ rộng lớn của nó đã đạt 15.082 km2. Đây là kết quả của sự khôn ngoan của ông trong ngoại giao và liên minh. Ông cũng là một nhà cái trị hiếm có trong lịch sử 1000 năm của Đế chế La Mã Thần thánh, vì ông đã trải qua 5 tước vị quân chủ trong suốt cuộc đời của mình, lúc đầu là Bá tước cai trị xứ Baden-Durlach, sau được thừa kế và nhận thêm tước vị Bá tước xứ Baden-Baden, hai bá quốc Baden-Durlach và Baden-Baden được hợp nhất nên ông trở thành Bá tước xứ Baden, sau đó Baden được nâng lên Tuyển đế hầu và cuối cùng được nâng lên Đại công tước xứ Baden. Ông giữ ngôi vị trong 73 năm và sống thọ đến 83 tuổi, nên ông trở thành một trong những vị quân chủ nắm giữ ngai vàng lâu nhất trong lịch sử thế giới, lâu hơn cả Vua Louis XIV của Pháp hay Elizabeth II của Anh.

Tiểu sử

thumb|Chân dung của Karl, có lẽ được vẽ vào khoảng năm 1746–1750 bởi [[Philipp Heinrich Kisling.]]

Karl sinh ra tại Karlsruhe, ông là con trai của Thân vương cha truyền con nối Frederick xứ Baden-Durlach và mẹ là Thân vương nữ Amalia xứ Nassau-Dietz (13 tháng 10 năm 1710 - 17 tháng 9 năm 1777), con gái của Johan Willem Friso, Thân vương xứ Orange.

Ông kế vị quyền cai trị Phiên hầu quốc Baden-Durlach từ ông nội của mình vào năm 1738, lúc đó ông chỉ mới 10 tuổi, đến năm 1746 ông mới được hội đồng nhiếp chính trao lại quyền cai trị. Năm 1771, ông thừa kế thêm Phiên hầu quốc Baden-Baden từ dòng công giáo của gia tộc. Điều này khiến ông trở thành một nhà cai trị theo Tin Lành nhưng phần lớn thần dân lại theo Công giáo La Mã, tuy nhiên Đại hội Đế chế cho phép điều này, bởi vì trước đây Tuyển hầu quốc Sachsen đã chuyển sang Công giáo từ Tin Lành mà vẫn được phép giữ quyền kiểm soát của mình trong nhóm Nhà nước theo Tin Lành trong Đại hội Đế chế. Sau khi kế thừa thêm lãnh thổ Baden-Baden, ông đã chính thức hợp nhất 2 phiên hầu quốc này lại với tên gọi Phiên hầu quốc Baden sau hàng thế kỷ bị chia tách. Ông được xem là một ví dụ điển hình cho một nhà cai trị theo Chủ nghĩa chuyên chế khai sáng (Enlightened absolutism), với những chính sách hỗ trợ các trường học, đại học, tư pháp, dịch vụ dân sự, kinh tế, văn hóa và phát triển đô thị. Ông cho loại bỏ các hình thức tra tấn trong việc thực thi pháp luật vào năm 1767, và bãi bỏ chế độ nông nô vào năm 1783. Ông được bầu làm Thành viên Hoàng gia của Hiệp hội Hoàng gia vào năm 1747.

Năm 1803, Karl Frederick được nâng lên Tuyển đế hầu xứ Baden, và năm 1806 là Đại công tước đầu tiên của Đại Công quốc Baden. Thông qua quá trình Hòa giải Đức, bộ trưởng Sigismund von Reitzenstein đã nỗ lực giúp Baden có được lãnh thổ của Giáo phận vương quyền Constance, và các lãnh thổ của Giáo phận vương quyền Basel, Giáo phận vương quyền Strassburg, và Giáo phận vương quyền Speyer nằm ở hữu ngạn sông Rhine, ngoài Breisgau và Ortenau. Năm 1806, Baden gia nhập Liên bang Rhine.

Ông qua đời tại Karlsruhe vào năm 1811, và là một trong số ít các nhà cai trị Đức chết trong Kỷ nguyên Napoléon, không có cơ hội nhìn thấy sự thất bại và xụp đổ của Đệ Nhất Đế chế Pháp.

Sự phát triển lãnh thổ

Vào đầu triều đại của Karl (1746), Bá quốc Baden-Durlach có ít hơn 90.000 cư dân và diện tích chỉ 29 dặm vuông (~1.631 km2). Khi ông qua đời (1811), Đại công quốc Baden có diện tích 260 dặm vuông (~14.622 km2) với khoảng 930.000 cư dân.

Khi Karl 18 tuổi, ông đã tiếp quản một trong nhiều lãnh thổ nhỏ và rời rạc nằm trong Đế chế La Mã Thần thánh; Ở tuổi 83, ông qua đời với tư cách là vị quân chủ khai sáng của một nhà nước bậc trung, được kính trọng khắp châu Âu và được coi là "đất nước Baden kiểu mẫu" (badisches Musterländle). Chính phủ của ông đã tuân theo phương châm Ôn hòa và thận trọng hơn - với sự điều độ và lý trí.

Sự phát triển lãnh thổ của Baden dưới thời cai trị của Karl diễn ra theo nhiều bước:

  • 1771 – Hai vùng lãnh thổ bị tách rời của Baden là Bá quốc Baden-Durlach và Bá quốc Baden-Baden được tái thống nhất, để thành lập ra Bá quốc Baden.
  • 1796 – Hòa ước riêng biệt giữa Bá quốc Baden và Đệ Nhất Cộng hòa Pháp đã khiến bá quốc mất các khu vực ở tả ngạn sông Rhine. 1803 - Sau Kết luận chính của Phái đoàn Hoàng gia một số Thành bang đế chế đã được sáp nhập Baden thông qua Hòa giải Đức, cũng như nhiều Giáo phận vương quyền khác.
  • 1805 – Hòa ước Pressburg quy định rằng Breisgau thuộc vùng Thượng Áo trước đây được bàn giao cho Baden.
  • 1806 – Đạo luật Liên bang Rhine bổ sung thêm các lãnh thổ cho Baden, bao gồm hầu hết Thân vương quốc Fürstenberg.
  • Từ năm 1803 đến năm 1814, Baden đã ký kết các thỏa thuận trao đổi các lãnh thổ tách rời với nhiều nước láng giềng để thống nhất quyền cai trị.
Markgrafschaft Baden-Durlach.png|Bá quốc Baden-Durlach 1535 đến 1771 Markgrafschaft Baden-Baden.png|Bá quốc Baden-Baden 1535 đến 1771 Baden.svg|Tuyển đế hầu/Đại công quốc Baden 1803–1819

Hôn nhân và con cái

thumb|[[Xu bạc: 1 konventionsthaler Karl Friedrich xứ Baden-Durlach, đúc năm 1766]] Karl Frederick kết hôn với Karoline Luise xứ Hessen-Darmstadt vào ngày 28 tháng 1 năm 1751. Bà là con gái của Louis VIII xứ Hesse-Darmstadt, sinh ngày 11 tháng 7 năm 1723 và mất ngày 8 tháng 4 năm 1783.

Karl Frederick và Caroline Louise có những người con sau:

  • Karl Ludwig, Đại công tử cha truyền con nối xứ Baden (14 tháng 2 năm 1755 - 16 tháng 12 năm 1801); con trai của ông, Karl, kế vị Karl Frederick làm Đại Công tước sau khi ông qua đời vào năm 1811.
  • Đại công tử Frederick xứ Baden (29 tháng 8 năm 1756 - 28 tháng 5 năm 1817); kết hôn vào ngày 9 tháng 12 năm 1791 với Louise xứ Nassau-Usingen (16 tháng 8 năm 1776 - 19 tháng 2 năm 1829), con gái của Công tước Frederick xứ Nassau-Usingen.
  • Đại công tử Ludwig xứ Baden (9 tháng 2 năm 1763 - 30 tháng 3 năm 1830); có ba người con ngoài giá thú với Katharina Werner, tạo ra Nữ bá tước xứ Gondelsheim và Langenstein vào năm 1818. Louis kế vị cháu trai Karl của mình là Louis I, Đại công tước thứ 3 vào năm 1818.
  • Con trai (29 tháng 7 năm 1764 - 29 tháng 7 năm 1764).
  • Đại công nữ Louise Auguste xứ Baden (8 tháng 1 năm 1767 - 11 tháng 1 năm 1767).

right|thumb|Tượng Karl Frederick trước [[Cung điện Karlsruhe (Schloss)]]

Karl Frederick cưới Louise Caroline, Nữ Nam tước Geyer của Geyersberg làm vợ thứ hai vào ngày 24 tháng 11 năm 1787. Cô là con gái của Trung tá Louis Henry Philipp, Nam tước Geyer của Geyersberg và vợ Maximiliana Christiane, Nữ bá tước xứ Sponeck. Cô sinh ngày 26 tháng 5 năm 1768 và mất vào ngày 23 tháng 7 năm 1820. Đây là một cuộc hôn nhân theo kiểu Quý tiện kết hôn, và những đứa trẻ được sinh ra từ cuộc hôn nhân này không đủ điều kiện để kế thừa ngai vàng và tài sản. Louise trao tước vị Nam tước Hochberg vào thời điểm kết hôn của cô ấy và Nữ bá tước Hochberg vào năm 1796; cả hai tước vị này về sau được truyền lại cho các con của bà.

Họ có những đứa con sau:

  • Đại công tử Leopold xứ Baden (29 tháng 8 năm 1790 - 24 tháng 4 năm 1852); sau đó thành công trong việc kế thừa ngôi vị với tước hiệu Leopold I, Đại công tước Baden. Kết hôn vào ngày 25 tháng 7 năm 1819 tại Karlsruhe với cháu gái cùng cha khác mẹ của mình, Công chúa Sophie của Thụy Điển (21 tháng 5 năm 1801 - 6 tháng 7 năm 1865), con gái lớn của cựu Quốc vương Gustav IV Adolf của Thụy Điển và Frederica của Baden.
  • Đại công tử William của Baden (8 tháng 4 năm 1792 - 11 tháng 10 năm 1859).
  • Đại công tử Frederick Alexander xứ Baden (10 tháng 6 năm 1793 - 18 tháng 6 năm 1793).
  • Đại công nữ Amalie xứ Baden (26 tháng 1 năm 1795 - 14 tháng 9 năm 1869); kết hôn vào ngày 19 tháng 4 năm 1818 Karl Egon II xứ Fürstenberg (28 tháng 10 năm 1796 - 22 tháng 10 năm 1854); con gái của họ, Công chúa Pauline von Fürstenberg, là mẹ của Công chúa Margarethe của Hohenlohe-Öhringen (b. Slawentzitz, 27 tháng 12 năm 1865 - d. Dresden, ngày 13 tháng 6 năm 1940), người vợ thứ hai của Wilhelm, Bá tước Hohenau (bản thân là con trai của Vương tử Albert của Phổ
  • Đại công tử Maximilian xứ Baden (8 tháng 12 năm 1796 - 6 tháng 3 năm 1882).

Đến năm 1817, hậu duệ của Karl Frederick với người vợ đầu tiên của ông đã chết gần hết mà không để lại người kế vị. Để ngăn chặn ngai vàng của Đại công quốc Baden sẽ bị rơi vào tay của người thừa kế tiếp theo là Maximilian I Joseph của Bayern (anh rể của Đại Công tước thứ 3), đương kiêm Đại công tước Karl (cháu nội của vị Đại công tước đầu tiên), đã thay đổi luật kế vị để hợp pháp hoá quyền thừa kế của các hậu duệ của Karl Frederick với người vợ thứ 2, mà trước đo bị xem là không hợp pháp để thừa kế ngai vàng. Vì thế mà các hậu duệ này đã nhận được tước hiệu Đại công tử và Đại công nữ của xứ Baden một cách hợp pháp giống như các anh chị cùng cha khác mẹ của mình.

Quyền kế vị của dòng thứ đã được củng cố khi Baden thông qua hiến pháp vào năm 1818, và được Vương quốc Bayern và các cường quốc công nhận trong Hiệp ước Frankfurt, 1819. Con cháu của Leopold cai trị Đại công quốc Baden cho đến năm 1918. Những người tuyên bố quyền thừa kế ngai vàng của Baden hiện nay là hậu duệ của Leopold.

Leopold, con trai cả của cuộc hôn nhân thứ hai, kế vị làm Đại công tước vào năm 1830.

Tổ tiên

Tước hiệu

  • 1738-1803: Bá tước xứ Baden và Hochberg, Bá tước xứ Sausenberg, Bá tước xứ Spontheim và Eberstein, Lãnh chúa xứ Rötteln, Badenweiler, Lahr và Mahlberg, v.v.
  • 1803–1806: Bá tước xứ Baden và Hochberg, Công tước xứ Zähringen, Tuyển đế hầu của Đế chế La Mã Thần thánh, Bá tước Pflaz của sông Rhein, Bá tước xứ Breisgau, Sausenberg và Ortenau, v.v.
  • Từ 1806: Đại công tước xứ Baden, Công tước Zähringen.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Karl Friedrich xứ Baden** (; 22 tháng 11 năm 1728 - 10 tháng 6 năm 1811), là một nhà cai trị thế tục của Đế chế La Mã Thần thánh, từ năm 1771 đến 1803,
**Karl Ludwig Friedrich xứ Baden** (tiếng Đức: _Karl Ludwig Friedrich_; 8 tháng 6 năm 1786 – 8 tháng 12 năm 1818) là Đại công tước xứ Baden từ ngày 11 tháng 6 năm 1811, sau
**Leopold** (tiếng Đức: _Karl Leopold I. Friedrich von Baden_; 29 tháng 8 năm 1790 - 24 tháng 4 năm 1852) là Đại công tước đời thứ 4 của xứ Baden, ông trị vì từ năm
**Ludwig I** (9 tháng 2 năm 1763 – 30 tháng 3 năm 1830) trở thành Đại công tước Baden vào ngày 8 tháng 12 năm 1818, sau cái chết của người cháu là Đại công
**Amalie xứ Baden** (tiếng Đức: _Amalie von Baden_; tiếng Hà Lan: _Amalia van Baden_; tiếng Anh: _Amalie of Baden_; tên đầy đủ: Amalie Christine Karoline; 26 tháng 1 năm 1795 – 14 tháng 9 năm
**Luise xứ Baden** (tiếng Đức: _Luise von Baden_; tiếng Nga: _Луиза Баденская_; tiếng Anh: _Louise of Baden_; tên đầy đủ: _Luise Marie Auguste_; 24 tháng 1, năm 1779 – 16 tháng 5, năm 1826) còn
**Josephine xứ Baden** (tiếng Đức: _Josephine von Baden_; tiếng Pháp: _Joséphine de Bade_; tiếng Hà Lan: _Josefine van Baden_; tiếng Anh: _Josephine of Baden_; tên đầy đủ: _Josephine Friederike Luise_; 21 tháng 10 năm 1813
**Marie Amelie xứ Baden** (tiếng Đức: _Marie Amelie von Baden_; tiếng Hà Lan: _Maria Amalia van Baden_; tiếng Anh: _Mary Amelia of Baden_; tên đầy đủ: _Marie Amelie Elisabeth Karoline_; 11 tháng 10 năm 1817
**Luise Amelie Stephanie xứ Baden** (tiếng Đức: _Luise Amelie von Baden_; tiếng Pháp: Louise Amélie de Bade; tiếng Hà Lan: _Louise Amalie van Baden_; tiếng Thụy Điển: _Lovisa av Baden_; tiếng Anh: _Louise Amelia of
**Friedrich xứ Hohenzollern-Sigmaringen** hay **Friedrich xứ Hohenzollern** (tiếng Đức: _Friedrich von Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Pháp: _Frédéric de Hohenzollern-Sigmaringen_; tiếng Anh: _Frederick of Hohenzollern-Sigmaringen_; tên đầy đủ: _Friedrich Eugen Johann_; 25 tháng 6 năm 1843 tại Lâu
**Karoline Luise xứ Hessen-Darmstadt** (tiếng Đức: _Karoline Luise von Hessen-Darmstadt_; 11 tháng 7 năm 1723 – 8 tháng 4 năm 1783), là người vợ đầu tiên của Karl Friedrich xứ Baden và là con gái
**Sofia Wilhelmina của Thụy Điển** (_Sofia Wilhelmina Katarina Maria Lovisa Charlotta Anna_; 21 tháng 5 năm 1801 – 6 tháng 7 năm 1865), là một vương nữ Thụy Điển thuộc Vương tộc Holstein-Gottorp, con gái
**Nữ bá tước Luise Karoline von Hochberg**, tên khai sinh **Geyer von Geyersberg** (26 tháng 5 năm 1768 tại Karlsruhe – 23 tháng 6 năm 1820, Karlsruhe), từ 1787 được phong Nữ Nam tước xứ
**William Hamilton, Công tước thứ 11 xứ Hamilton và Công tước thứ 8 xứ Brandon** (19 tháng 2 năm 1811 – 8 tháng 7 năm 1863) được gọi là **Bá tước xứ Angus** trước năm
**Ludwig IX, Phong địa Bá tước xứ Hessen-Darmstadt** (tiếng Đức: _Ludwig_; 15 tháng 12 năm 1719 – 6 tháng 4 năm 1790) là Landgraf trị vì Bá quốc Hessen-Darmstadt từ năm 1768 đến 1790. Ludwig
**Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach** (_Maria Luise Augusta Catherina_; 30 tháng 9 năm 1811 – 7 tháng 1 năm 1890), là Vương hậu Phổ và trở thành hoàng hậu đầu tiên của Đế chế Đức sau khi
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
Baden là một trong số những Lãnh địa Đế chế (Tiếng Đức: _Reichsstand)_ và sau là một trong những nhà nước Đức giáp biên giới với Pháp, với phần lãnh thổ nằm dọc theo bờ
nhỏ|Tướng Gustav von Beyer **Gustav Friedrich von Beyer** (26 tháng 2 năm 1812 tại Berlin – 7 tháng 12 năm 1889 tại Leipzig) là một tướng lĩnh quân đội Phổ và Bộ trưởng Bộ Chiến
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Ludwig II** (26 tháng 12 năm 1777 – 16 tháng 6 năm 1848) là Đại công tước đời thứ 2 của xứ Hessen và Rhein, tại vị từ ngày 6 tháng 4 năm 1830 đến
**Marie Maximiliane xứ Hessen và Rhein** **hay Marie xứ Hessen-Darmstadt** (tiếng Đức: _Marie Maximiliane von Hessen und bei Rhein/Marie von Hessen-Darmstdt_; tiếng Hà Lan: _Marie van Hessen-Darmstadt_; tiếng Nga: _Мария Гессенская и Прирейнская_; tiếng Anh:
**Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst I. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto I de Sajonia-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest I of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
phải|nhỏ|Lăng mộ Bá tước von der Goltz tại nghĩa trang [[Luisenfriedhof II ở Charlottenburg]] **Carl Friedrich Ferdinand Graf von der Goltz** (12 tháng 4 năm 1815 tại Stuttgart – 21 tháng 2 năm 1901 tại
**Bá quốc Baden-Durlach** (tiếng Đức: _Markgrafschaft Baden-Durlach_) là một nhà nước thuộc Đế chế La Mã Thần thánh. Baden-Durlach và Bá quốc Baden-Baden trước thế kỷ XVI vốn là một lãnh thổ chung, với tên
**Stéphanie de Beauharnais, Đại công tước phu nhân xứ Baden** (tiếng Pháp: _Stéphanie Louise Adrienne de Beauharnais_; 28 tháng 8 năm 1789 – 29 tháng 1 năm 1860), cũng gọi là **Stephanie Napoléon,** là nghĩa
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
thumb|Bản đồ [[Đế chế La Mã Thần thánh năm 1789]] thumb|[[Bang liên Đức sau năm 1815, kết quả của hòa giải Đức trong Chiến tranh Napoléon]] **Hòa giải Đức** (; ) là quá trình tái
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
thumb|[[Carlo Ferdinando của Hai Sicilie|Carlo Ferdinando của Hai Siclie, Thân vương xứ Capua (trên cùng), cùng với người vợ quý tiện kết hôn của mình Anh-Ailen Penelope Smyth (trái), và con gái của họ, Vittoria
**Sophie Dorothee xứ Württemberg** (tiếng Đức: _Sophie Dorothee von Württemberg_, tiếng Nga: _София Доротея Вюртембергская_; tiếng Anh: _Sophia Dorothea of_ _Württemberg_; tên đầy đủ: _Sophie Marie Dorothee Auguste Luise_; 25 tháng 10 năm 1759 –
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Cung điện Ludwigsburg** (cách nội thành Stuttgart khoảng 12 km về phía bắc) được xây dựng theo phong cách kiến trúc Baroque trong thời gian từ 1704 đến 1733 dưới thời của Công tước Eberhard Ludwig
**Ludovika Wilhelmine của Bayern** (tiếng Đức: _Ludovika Wilhelmine von Bayern_; tiếng Anh: _Louise/Ludovica Wilhelmina of Bavaria_; tên đầy đủ: Ludovika Wilhelmine von Wittelsbach; 30 tháng 8 năm 1808 – 25 tháng 1 năm 1892) là
**Victor Carl Gustav von Hennigs** (18 tháng 4 năm 1848 tại Stremlow – 10 tháng 3 năm 1930 tại Berlin-Lichterfelde) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng kỵ
**Feodora xứ Leiningen** (tiếng Đức: _Feodora zu Leiningen_; tiếng Anh: _Feodora of Leiningen_; Anna Feodora Auguste Charlotte Wilhelmine; 7 tháng 12 năm 1807 – 23 tháng 9 năm 1872) là con gái của Emich Carl
**Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn
Tháp nước Mannheim, biểu tượng của thành phố **Mannheim**, với dân số vào khoảng 320.000 người, là thành phố lớn thứ hai của bang Baden-Württemberg sau Stuttgart, nằm ở phía Tây nước Cộng hòa Liên
**Margarethe của Phổ** (tiếng Đức: _Margarethe von Preußen_; tên đầy đủ: _Margarethe Beatrice Feodora_; 22 tháng 4 năm 1872 – 22 tháng 1 năm 1954) là con út của Hoàng đế Friedrich III của Đức
**Heidelberg** là một thành phố lớn nằm cạnh sông Neckar ở tây-nam của nước Đức trong bang Baden-Württemberg. Thành phố nổi tiếng thế giới vì có phế tích Lâu đài Heidelberg và khu phố cổ
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Gustav IV Adolf** hoặc _Gustav IV Adolph_ (1 tháng 11 năm 1778 – 7 tháng 2 năm 1837) là Quốc vương Thụy Điển trị vị từ năm 1792 cho đến khi bị lật đổ vào
**Adolf Fredrik** hay **Adolph Frederick** (; 14 tháng 5 năm 171012 tháng 2 năm 1771) là Quốc vương Thụy Điển từ năm 1751 đến khi qua đời. Ông là con trai của Christian August xứ
thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy ít hơn (được sử dụng cho đến năm 1915 thời Áo-Hung) thumb|right|Biểu trưng hoàng gia của Đế quốc Áo với quốc huy vừa phải
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Eugène de Savoie-Carignan** (18 tháng 10 năm 1663 – 21 tháng 4 năm 1736), hay **François Eugène de Savoie**, thường được biết đến với biệt danh **Hoàng thân Eugène** (, , ), là một lãnh
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua