✨Wilhelm I xứ Hessen

Wilhelm I xứ Hessen

Wilhelm I, Tuyển hầu xứ Hessen (tiếng Đức: Wilhelm I., Kurfürst von Hessen; 3 tháng 6 năm 1743 - 27 tháng 2 năm 1821) là Phong địa bá tước cuối cùng của Bá quốc Hessen-Kassel với tước hiệu Wilhelm IX, và là Tuyển hầu đầu tiên của xứ Hessen với tước hiệu Wilhelm I. Ông là con trai lớn nhất còn sống của Phong địa Bá tước Friedrich II xứ Hessen-Kassel và Mary của Đại Anh, con gái của George II của Đại Anh và Caroline xứ Ansbach.

Năm 1803, Đệ nhất Tổng tài Napoleon Bonaparte thực hiện tái tổ chức các lãnh thổ dưới ảnh hưởng của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp sau thắng lợi trước phe Liên minh do Áo đứng đầu. Wilhelm do đó đã được nâng lên địa vị Tuyển hầu xứ Hessen. Tuy nhiên, sau khi lên ngôi, năm 1807, Hoàng đế Napoleon I đã cho sát nhập hầu hết các lãnh địa Hessen (gồm cả Bá quốc Hessen-Kassel) vào Vương quốc Westphalia mới được ông thành lập và giao cho em trai út của mình Jérôme Bonaparte. Gia đình của Wilhelm vì vậy đã phải sống lưu vong tại Vương quốc Đan Mạch cho đến khi Napoleon I thất bại trong Trận Leipzig năm 1813, Wilhelm mới được phục hồi được lãnh địa Hessen-Kassel. Tuy vậy, ông vẫn giữ lại tước vị Tuyển đế hầu cho dù Đế chế La Mã Thần thánh đã giải thể từ năm 1806, và không còn hoàng đế nào để bầu chọn nữa.

Việc Wilhelm bổ nhiệm Mayer Amschel Rothschild làm Hoffaktor trong triều đình Bá quốc Hessen-Kassel đã tạo cơ hội cho Gia tộc Rothschild tích luỹ tài sản, đây được xem là tiền đề để cho gia tộc này trở thành những chủ ngân hàng quyền lực nhất thế giới.

Tướng Áo, Nam tước Julius Jacob von Haynau, vốn được mệnh danh là "Hổ Habsburg" trong quân đội của Đế quốc Áo, là một trong hơn 20 người con ngoài giá thú của Wilhelm I với 3 người tình.

Cuộc sống đầu đời

thumb|left|Huy hiệu của Wilhelm với tư cách là nhiếp chính của Bá quốc Hanau

Wilhelm sinh ngày 03/06/1743 tại Kassel, thủ phủ của Bá quốc Hessen-Kassel, thuộc Đế chế La Mã Thần thánh. Ông là con trai thứ hai, nhưng là con trai lớn nhất còn sống sót của Bá tử Friedrich xứ Hessen-Kassel và Mary của Đại Anh. Ông có 2 người em trai: Karl và Friedrich.

Cuộc hôn nhân của cha mẹ ông không hạnh phúc, người cha Friedrich đã từ bỏ truyền thống Tin Lành của gia tộc để chuyển sang Công giáo vào năm 1749 và năm 1755, Friedrich cũng đã chính thức huỷ bỏ cuộc hôn nhân với vợ mình. Ông nội của Wilhelm là Wilhelm VIII xứ Hessen-Kassel đã cắt vùng Hanau mới dành được để làm lãnh địa thái ấp cho con dâu và các cháu trai của mình. Trên thực tế thì Wilhelm trẻ tuổi đã trở thành lãnh chúa của Bá quốc Hanau dưới quyền nhiếp chính của mẹ mình. Từ năm 1747 họ được những người thân theo đạo Tin Lành ủng hộ và chuyển đến Đan Mạch. Ở đó họ sống với chị gái của Mary là Louisa của Đại Anh, và gia đình của cô ấy; Louise qua đời vào năm 1751.

Hôn nhân

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1764, Wilhelm kết hôn với người em họ đời đầu của mình, Vương nữ Wilhelmina Caroline của Đan Mạch và Na Uy (1747–1820), là con gái thứ hai còn sống của Frederik V của Đan Mạch. Họ kết hôn tại Cung điện Christiansborg và cư trú trong hai thập kỷ chủ yếu ở Đan Mạch.

Năm 1785, họ chuyển đến Kassel khi Wilhelm kế vị cha mình. Trong suốt cuộc đời của cha mình, Wilhelm đã tiếp nhận Bá quốc Hanau, phía nam lãnh thổ Hesse gần Frankfurt, với tư cách là người kế vị các thân vương mới tuyệt tự. Người dân Hanau không muốn có một người cai trị theo Công giáo.

Em trai của Wilhelm là Karl vào năm 1766 đã kết hôn với một người em họ đời đầu khác của họ là Vương nữ Louise của Đan Mạch.

Cai trị

thumb|Wilhelm là Công tử kế thừa của Hessen-Kassel, được vẽ bởi [[Carl Gustaf Pilo vào khoảng năm 1770]]

thumb|[[Xu bạc: 1 thaler Bá quốc Hessen-Kassel với mặt trước là chân dung của Wilhelm IX]]

Sau cái chết của cha mình vào ngày 31 tháng 10 năm 1785, Wilhelm tiếp nhận ngai vàng và lấy hiệu là Wilhelm IX, Bá tước xứ Hessen-Kassel. Người ta nói rằng ông đã thừa kế một trong những khối tài sản lớn nhất châu Âu vào thời điểm đó.

Wilhelm tìm kiếm sự giúp đỡ trong việc quản lý điền trang của mình. Ông đã thuê Mayer Amschel Rothschild làm "Hoffaktor" vào năm 1769, để giám sát hoạt động của các điền trang và việc thu thuế. Sự giàu có của các điền trang của Wilhelm đã mang lại cuộc sống tốt đẹp cho gia đình Rothschild và cho họ những mối quan hệ bền chặt; ông đã thành lập triều đại gia tộc Rothschild, và đưa nó trở thành gia tộc hàng đầu trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng ở châu Âu. Mặc dù họ đã quen biết nhau từ năm 1775, Wilhelm IX đã không chính thức chỉ định Rothschild làm người giám sát của mình cho đến năm 1801.

Những tài sản ban đầu của gia tộc Rothschild được tạo ra thông qua sự kết hợp giữa trí thông minh tài chính và sự giàu có của Bá tước Wilhelm. Trong Chiến tranh Napoleon, Wilhelm đã sử dụng Frankfurt của Rothschild để che giấu tài sản của mình khỏi Napoleon. Số tiền này sau đó được chuyển đến cho Nathan Mayer Rothschild ở London, nơi nó giúp hỗ trợ tài chính cho các phong trào của Anh đến Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Các nam tước ngân hàng mới nổi đã thu được lợi nhuận từ dự án này, những người đã sử dụng nó để nhanh chóng phát triển tài sản và uy tín của họ ở châu Âu và Anh. Không lâu sau, sự giàu có của người nhà Rothschild đã vượt xa sự giàu có của ân nhân họ là Wilhelm xứ Hesse-Kassel.

Năm 1803, Bá tước Wilhelm được trao phong cách His RoyalSerene Highness với tước hiệu Tuyển hầu xứ Hessen.Bởi vì Wilhelm không gia nhập Liên bang Rhein và huy động một phần quân đội của mình hỗ trợ Pháp khi bắt đầu Chiến tranh Pháp-Phổ năm 1806, thay vào đó ông đã tuyên bố đất nước của mình trung lập, Hoàng đế Napoléon đã nổi giận chiếm đóng Tuyển hầu xứ Hessen. Ngày 1 tháng 11 năm 1806, quân đội Pháp xâm chiếm Kassel. Lãnh địa của ông đã bị Vương quốc Westphalia sáp nhập, do Jérôme Bonaparte, em trai của Napoleon, cai trị. Các phần phía nam của Hessen, tức là Bá quốc Hanau-Münzenberg, ban đầu nằm dưới sự quản lý của chính phủ quân sự Pháp từ năm 1806 và thuộc về Đại công quốc Frankfurt từ 1810 đến 1813. Wilhelm đã chạy trốn sang Đan Mạch cùng gia đình và sống lưu vong ở đó cho đến khi quân Pháp bị trục xuất khỏi Đức. Sau thất bại của quân đội Napoleon trong Trận Leipzig, Wilhelm đã được phục vị vào năm 1813.

Sau khi trở về Hessen, ông bắt đầu xây dựng một cung điện đồ sộ ở Kassel, Chattenburg. Việc xây dựng đã bị dừng lại sau khi ông qua đời.

Ông là thành viên của Tugendbund, một hội kín bán Tam Điểm được thành lập sau Trận Jena–Auerstedt vào tháng 6 năm 1808 tại Königsberg.

Một số tuyển đế hầu khác của Đế chế La Mã Thần thánh đã được nâng lên hàng quốc vương tại Đại hội Viên (1815), và Wilhelm đã cố gắng đạt đến cấp bậc này bằng cách tự xưng là Vua của Chatti. Tuy nhiên, các cường quốc châu Âu đã từ chối công nhận danh hiệu này tại Đại hội Aix-la-Chapelle (1818) và thay vào đó trao cho ông danh hiệu đại công tước với phong cách "Royal Highness". Cho rằng danh hiệu Tuyển đế hầu có phẩm giá cao hơn danh hiệu Đại công tước, nên Wilhelm đã chọn vẫn là Tuyển đế hầu, mặc dù không còn Hoàng đế La Mã Thần thánh nào để bầu nữa. Hessen-Kassel vẫn là Tuyển hầu cho đến khi bị Vương quốc Phổ sáp nhập vào năm 1866.

Ông cai trị Kassel cho đến khi qua đời vào năm 1821. Người kế vị ông là con trai ông, Wilhelm II xứ Hessen.

Hậu duệ

thumb|Wilhelm I, vợ ông, Wilhelmine Caroline và những người con còn sống của họ: Wilhelm, Marie Friederike và Karoline Amalie

Wilhelm và Wilhelmina Caroline của Đan Mạch có với nhau 4 người con:

  • Bá nữ Marie Friederike (14 tháng 9 năm 1768 – 17 tháng 4 năm 1839), kết hôn với Alexius Friedrich Christian xứ Anhalt-Bernburg vào ngày 29 tháng 11 năm 1794, ly hôn năm 1817.
  • Bá nữ Karoline Amalie (11 tháng 7 năm 1771 – 22 tháng 2 năm 1848), kết hôn với August xứ Sachsen-Gotha-Altenburg vào ngày 24 tháng 4 năm 1802. Không có con.
  • Bá tử Friedrich (8 tháng 8 năm 1772 – 20 tháng 7 năm 1784), mất khi còn nhỏ
  • Bá tử Wilhelm (28 tháng 7 năm 1777 – 20 tháng 11 năm 1847), người kế vị trở thành vị tuyển đế hầu đời thứ 2.

Wilhelm có một số tình nhân và là cha của hơn 20 người con ngoài giá thú được công nhận, cung cấp một số phương tiện tài chính cho mỗi người.

Với người tình chính thức đầu tiên của mình, Charlotte Christine Buissine (1749-?), họ có 4 người con:

  • Wilhelm von Heimrod (16 tháng 7 năm 1775 – 6 tháng 1 năm 1811).
  • Karl von Heimrod (19 tháng 7 năm 1776 – 13 tháng 5 năm 1827), kết hôn với Charlotte von Stockhausen (1781–1855) vào năm 1803; họ có 7 người con.
  • Friedrich von Heimrod (9 tháng 8 - 30 tháng 10 năm 1777), mất khi còn nhỏ.
  • Friedrich von Heimrod (1778 – 3 tháng 9 năm 1813); ông có ít nhất một người con trai.

Với người tình chính thức thứ hai của mình, Rosa Dorothea Ritter (1759–1833), họ có với nhau 8 người con:

  • Wilhelm Karl von Haynau (24 tháng 12 năm 1779 – 21 tháng 1 năm 1856), kết hôn lần đầu với Karoline von Schack (mất năm 1807) vào năm 1803; họ có 2 người con. Kết hôn lần thứ hai với Luise Sophie Buderus von Carlshausen (1787–1813) vào năm 1808; họ có 2 người con. Kết hôn lần thứ ba với Sophie Friederike von Lengerke (1798–1820) vào năm 1818; không có người con nào được biết đến sống đến tuổi trưởng thành. Kết hôn lần thứ tư với Elisabeth Freiin von Trott zu Solz (1793–1844) vào năm 1822; họ có 3 người con gái.
  • Georg Wilhelm von Haynau (27 tháng 2 năm 1781 – tháng 2 năm 1813), kết hôn với Charlotte Sophie von Wildungen (1782–1858) năm 1808; họ có 3 người con.
  • Philipp Ludwig von Haynau (18 tháng 5 năm 1782 – 5 tháng 6 năm 1843), kết hôn với Wilhelmine von Zeppelin (1791–1872) năm 1821; họ có 2 đứa con.
  • Wilhelmine von Haynau (20 tháng 7 năm 1783 – 27 tháng 5 năm 1866), kết hôn với Karl Frhr von Hanstein (1771–1861) năm 1801; họ có 9 người con.
  • Moritz von Haynau (4 tháng 7 năm 1784 – 9 tháng 9 năm 1812), kết hôn với Anna Auguste von Wurmb (1789–1872) năm 1809; họ có 2 cô con gái.
  • Marie Sophie Agnes Philippine Auguste von Haynau (11 tháng 9 năm 1785 – 21 tháng 4 năm 1865), kết hôn với Wilhelm Freiherr von Wintzingerode (1782–1819) năm 1805; họ có một con trai.
  • Julius Jacob von Haynau (14 tháng 10 năm 1786 – 14 tháng 3 năm 1853), kết hôn với Theresia Weber von Treuenfels (1787–1851) năm 1808; họ có 1 cô con gái.
  • Otto xứ Hanau (12 tháng 6 năm 1788 – trước ngày 24 tháng 5 năm 1792), qua đời khi còn nhỏ.

Với người tình chính thức thứ ba và cuối cùng, Karoline von Schlotheim (1766–1847), họ có với nhau 13 người con:

  • Wilhelm Friedrich von Hessenstein (23 tháng 6 năm 1789 – 26 tháng 4 năm 1790), chết khi còn nhỏ.
  • Wilhelm Karl von Hessenstein (19 tháng 5 năm 1790 – 22 tháng 3 năm 1867), kết hôn với Angel ika von Osten-Sacken (1802–1852) năm 1820; họ có 1 cô con gái.
  • Ferdinand von Hessenstein (19 tháng 5 năm 1791 – 15 tháng 12 năm 1794), mất khi còn nhỏ.
  • Karoline Frederike Auguste von Hessenstein (9 tháng 6 năm 1792 – 21 tháng 8 năm 1797), mất khi còn nhỏ.
  • Auguste Wilhelmine von Hessenstein (22 tháng 8 năm 1793 – 1 tháng 6 năm 1795), mất khi còn nhỏ.
  • Ludwig Karl von Hessenstein (11 tháng 8 năm 1794 – 17 tháng 11 năm 1857), Auguste von Pückler (21 tháng 9 năm 1794 - 8 tháng 11 năm 1861).
  • Friederike von Hessenstein (16 tháng 10 năm 1795 – 13 tháng 9 năm 1845), kết hôn với Wilhelm von Steuber (Kassel, 29 tháng 12 năm 1790 - Kassel, 6 tháng 7 năm 1845) vào năm 1824; họ có 3 đứa con.
  • Wilhelm Ludwig Georg von Hessenstein (28 tháng 7 năm 1800 – 16 tháng 1 năm 1836), kết hôn với Luise von dem Bussche-Hünnefeld (27 tháng 3 năm 1804 – 21 tháng 5 năm 1829) năm 1827; họ có 1 con trai. Kết hôn lần thứ hai Karoline Wolff von Gudenburg (11 tháng 2 năm 1812 – 20 tháng 8 năm 1836) năm 1831; họ có 2 con trai.
  • Friedrich Ludwig von Hessenstein (8 tháng 2 năm 1803 – 8 tháng 9 năm 1805), mất khi còn nhỏ.
  • Karoline von Hessenstein (16 tháng 2 năm 1804 – 18 tháng 3 năm 1891), kết hôn với Karl von Stenglin (12 tháng 8 năm 1791 – 15 tháng 3 năm 1871) năm 1822; họ có 6 người con.
  • Đứa con chết lưu (1805)
  • Đứa con chết lưu (1806)
  • Con trai chết lưu (1807 tại Itzehoe)
  • Từ mối quan hệ với Marianne Wulffen, Johann Heinrich Resse đã ra đời (1760, Kassel, Hessen), cha của kỹ sư người Đức gốc Bồ Đào Nha nổi tiếng, Đại tá João Guilherme Resse.

Tổ tiên

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Wilhelm I, Tuyển hầu xứ Hessen** (tiếng Đức: _Wilhelm I., Kurfürst von Hessen_; 3 tháng 6 năm 1743 - 27 tháng 2 năm 1821) là Phong địa bá tước cuối cùng của Bá quốc Hessen-Kassel
**Philipp I xứ Hessen** (13 tháng 11 năm 1504 - 31 tháng 3 năm 1567), biệt danh là _der Großmütige_ ("người vĩ đại"), là Phong địa bá tước thứ 16 và cũng là người cai
**Ludwig II** (26 tháng 12 năm 1777 – 16 tháng 6 năm 1848) là Đại công tước đời thứ 2 của xứ Hessen và Rhein, tại vị từ ngày 6 tháng 4 năm 1830 đến
**Ludwig IX, Phong địa Bá tước xứ Hessen-Darmstadt** (tiếng Đức: _Ludwig_; 15 tháng 12 năm 1719 – 6 tháng 4 năm 1790) là Landgraf trị vì Bá quốc Hessen-Darmstadt từ năm 1768 đến 1790. Ludwig
**Karl I xứ Braunschweig-Wolfenbüttel** (1 tháng 08 năm 1713, Braunschweig - 26 tháng 03 năm 1780, Braunschweig), đôi khi viết là **Carl I**, là Công tước xứ Braunschweig và Lüneburg (_Herzöge zu Braunschweig und Lüneburg_)
**Leopold** (tiếng Đức: _Karl Leopold I. Friedrich von Baden_; 29 tháng 8 năm 1790 - 24 tháng 4 năm 1852) là Đại công tước đời thứ 4 của xứ Baden, ông trị vì từ năm
**Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời
**Elisabeth Sophia xứ Sachsen-Altenburg** (tiếng Đức: _Elisabeth Sophia von Sachsen-Altenburg_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Sofía de Sajonia-Altemburgo_; tiếng Đan Mạch: _Elisabeth Sophie af Sachsen-Altenburg_; tiếng Ba Lan: _Elżbieta Zofia z Saksonii-Altenburga_; tiếng Anh: _Elizabeth
**Bá quốc Hessen-Kassel** (tiếng Đức: _Landgrafschaft Hessen-Kassel_; tiếng Anh: _Landgraviate of Hesse-Kassel_) được đánh vần là **Hesse-Cassel** trong suốt thời gian tồn tại của nó, là một nhà nước trong Đế chế La Mã Thần
**Irene của Hessen và Rhein** (Irene Luise Marie Anne; 11 tháng 7 năm 1866 – 11 tháng 11 năm 1953), sau là **Vương tức Heinrich của Phổ**, là người con thứ ba của Alice của
**Friedrich của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Friedrich von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Frederick of Hesse and by Rhine_; tên đầy đủ: _Friedrich Wilhelm August Victor Leopold Ludwig_; 7 tháng 10 năm 1870
**Maximilian I Joseph** (; 27 tháng 5 năm 1756 tại Schwetzingen, gần Mannheim – 13 tháng 10 năm 1825 tại München) là Công tước xứ Zweibrücken từ năm 1795, trở thành Tuyển hầu xứ Bayern
**Fredrik I** (; 17 tháng 4 năm 1676 – 25 tháng 3 năm 1751) là vương phu Thụy Điển từ năm 1718 đến 1720, và vua Thụy Điển từ năm 1720 đến khi qua đời
**Friedrich Wilhelm III** hoặc **Friedrich Công Chính** (sinh ngày 3 tháng 8 năm 1770 - mất ngày 7 tháng 6 năm 1840) là vua của Vương quốc Phổ từ năm 1797-1840. Ông trị vì Phổ
**Ernst August** (sinh ngày 05 tháng 06 năm 1771 – mất ngày 18 tháng 11 năm 1851), là vua của Vương quốc Hannover từ này 02/06/1837 cho đến khi ông qua đời vào năm 1851.
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Willem V** (tiếng Hà Lan: _Willem Batavus_; 8 tháng 3 năm 1748 – 9 tháng 4 năm 1806) là Thân vương xứ Oranje và là _Stadtholder_ cuối cùng của Cộng hòa Hà Lan. Khi người
**Mary xứ Teck **(26 tháng 5 năm 1867 – 24 tháng 3 năm 1953) là Vương hậu Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và là Hoàng hậu Ấn
**Karl Friedrich xứ Baden** (; 22 tháng 11 năm 1728 - 10 tháng 6 năm 1811), là một nhà cai trị thế tục của Đế chế La Mã Thần thánh, từ năm 1771 đến 1803,
**Julius Jakob Freiherr von Haynau** (14 tháng 10 năm 1786 - 14 tháng 3 năm 1853) là một vị tướng người Áo đã trấn áp các phong trào nổi dậy ở Bán đảo Ý và
**Leopold của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Albany** (_Leopold George Duncan Albert_; 7 tháng 4 năm 1853 - 28 tháng 3 năm 1884) là con thứ tám và là con trai út của Victoria
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Heinrich** Ludwig Wilhelm Adalbert Waldemar Alexander **của Hessen và Rhein** (28 tháng 11 năm 1838 tại Bessungen – 16 tháng 9 năm 1900 tại München) là một Đại Công tôn của Hessen và Rhein, đồng
**Mary của Đại Anh** hay **Mary của Đại Anh, Ireland và Hannover** (tiếng Anh: _Mary of Great Britain, Ireland and Hanover_; tiếng Đức: _Maria von Großbritannien, Irland und Hannover_; tiếng Pháp: _Marie de Grande-Bretagne_; tiếng
**Luise xứ Baden** (tiếng Đức: _Luise von Baden_; tiếng Nga: _Луиза Баденская_; tiếng Anh: _Louise of Baden_; tên đầy đủ: _Luise Marie Auguste_; 24 tháng 1, năm 1779 – 16 tháng 5, năm 1826) còn
**Ida xứ Sachsen-Meiningen** (_Ida Caroline von Sachsen-Meiningen_; 25 tháng 6 năm 1794 – 4 tháng 4 năm 1852), là Công nữ Sachsen-Meiningen. Chị gái của Ida, tức Adelheid xứ Sachsen-Meiningen, là Vương hậu của Vương
**Maria Anna xứ Neuburg** (; ; 28 tháng 10 năm 1667 – 16 tháng 7 năm 1740) là công nữ Đức và là thành viên của Vương tộc Wittelsbach. Năm 1689, Maria Anna trở thành
**Therese xứ Sachsen-Hildburghausen hay Therese xứ Sachsen-Altenburg** (8 tháng 7 năm 1792 – 26 tháng 10 năm 1854) là Vương hậu Bayern thông qua hôn nhân với Ludwig I của Bayern. ## Thân thế trái|nhỏ|Therese
**Alix của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Alix von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Alix of Hesse and by Rhine_; 6 tháng 6 năm 1872 – 17 tháng 7 năm 1918), còn được gọi
**Auguste của Phổ** (Christine Friederike Auguste; 1 tháng 5 năm 1780 – 19 tháng 2 năm 1841) là chủ của một salon, họa sĩ và thông qua hôn nhân với Wilhelm II xứ Hessen là
**Otto Eduard Leopold von Bismarck-Schönhausen** (1 tháng 4 năm 1815 – 30 tháng 7 năm 1898) là một chính trị gia người Đức, ông là người lãnh đạo nước Đức và châu Âu từ năm
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Victor Carl Gustav von Hennigs** (18 tháng 4 năm 1848 tại Stremlow – 10 tháng 3 năm 1930 tại Berlin-Lichterfelde) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng kỵ
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
**Georgios I** hay **Georg I** (, _Geōrgios A', Vasileús tōn Ellēnōn_; 24 tháng 12 năm 1845 – 18 tháng 3 năm 1913) là một vị vua của người Hy Lạp, trị vì từ năm 1863
**Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein** (Auguste Viktoria Friederike Luise Feodora Jenny; 22 tháng 10 năm 1858 – 11 tháng 4 năm 1921) là Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ cuối cùng thông qua cuộc hôn
**Sophie Dorothea của Phổ** (; 25 tháng 1 năm 1719 – 13 tháng 11 năm 1765) là người con thứ chín và là con gái thứ năm của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophie
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Pauline của Württemberg** (tên đầy đủ: _Pauline Olga Helene Emma_; 19 tháng 12 năm 18777 tháng 5 năm 1965) là người con duy nhất của Wilhelm II của Württemberg và Marie xứ Waldeck và Pyrmont
**Alice xứ Battenberg** (_Victoria Alice Elizabeth Julia Marie_; 25 tháng 2 năm 1885 - 5 tháng 12 năm 1969), được biết đến là mẹ của Vương tế Philip - chồng của Nữ vương Elizabeth II
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
nhỏ|Ngôi nhà gốc ở hẻm [[Frankfurter Judengasse]] nhỏ|Một căn nhà của gia tộc Rothschild, [[Lãnh địa tại Waddesdon, Buckinghamshire, được hiến tặng từ thiện bởi gia đình năm 1957]] nhỏ|Một ngôi nhà trước đây thuộc
**Chiến tranh Áo – Phổ** (hay còn gọi là **Chiến tranh bảy tuần**, **Nội chiến Đức** hoặc **Chiến tranh Phổ – Đức**; ) là cuộc chiến tranh diễn ra vào năm 1866 giữa 2 cường
**Georg V** (tiếng Đức: _Georg Friedrich Alexander Karl Ernst August_; 27 tháng 05 năm 1819 - 12 tháng 06 năm 1878) là vua cuối cùng của Vương quốc Hannover, ông chính là người con duy
**Ludwig Georg Leopold Franz von Spangenberg** (24 tháng 5 năm 1826 tại Fulda – 19 tháng 1 năm 1896 tại Frankfurt am Main) là một Thượng tướng Bộ binh Phổ. Nguyên là một sĩ quan
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Anh: _Wihelmine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Luise Wilhelmine_; 18 tháng 11 năm 1774 – 12 tháng 10 năm 1837) là Vương hậu đầu tiên
**Marie Luise của Phổ**, thường gọi là Luise của Phổ (tiếng Đức: _Marie Luise Anna von Preußen_; 1 tháng 3 năm 1829, Berlin – 10 tháng 5 năm 1901, Frankfurt am Main) là Vương tôn
**Margarethe của Phổ** (tiếng Đức: _Margarethe von Preußen_; tên đầy đủ: _Margarethe Beatrice Feodora_; 22 tháng 4 năm 1872 – 22 tháng 1 năm 1954) là con út của Hoàng đế Friedrich III của Đức
**Viktoria của Phổ** (Friederike Amalia Wilhelmine Viktoria; 12 tháng 4 năm 1866 – 13 tháng 11 năm 1929) là con gái thứ hai của Hoàng đế Friedrich III của Đức và Victoria Adelaide của Liên
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ