✨Sa quốc Nga

Sa quốc Nga

Sa quốc Nga ( hay Nước Nga Sa hoàng, ) hay nó có một tên gọi khác là Sa quốc Muscovy là giai đoạn trung ương tập quyền hóa trong lịch sử Nga, bắt đầu từ sự kiện đại công tước Ivan Khủng Khiếp xưng sa hoàng năm 1547 cho đến khi Pyotr Đại đế chuyển sang xưng hoàng đế năm 1721.

Từ năm 1550 đến năm 1700, diện tích Sa quốc Nga tăng trung bình 35.000 kilômét vuông (14.000 dặm vuông) mỗi năm. Giai đoạn này bao gồm những biến động của quá trình chuyển đổi từ triều đại Rurik sang triều đại Romanov, các cuộc chiến tranh với Liên bang Ba Lan và Lietuva, Đế quốc Thụy Điển, Đế quốc Ottoman, và cuộc chinh phục Siberia của Nga cho đến triều đại của Pyotr Đại đế, người nắm quyền ở 1689 và biến Sa quốc thành một đế chế. Trong Đại chiến phương Bắc, ông đã thực hiện những cải cách đáng kể và tuyên bố thành lập Đế quốc Nga sau chiến thắng trước Thụy Điển năm 1721.

Danh hiệu

Thế kỷ XVIII-XV, đế quốc Byzantium ngày càng suy nhược trước sức công phá mãnh liệt của Thập tự quân và Ottoman, đành phải liên minh với Đại công quốc Moskva theo hình thức hôn nhân hoàng gia, trong đó, hoàng đế La Mã thường gả công chúa cho đại công tước Moskva. Đổi lại, Moskva phái các cánh quân xuống phương Nam gây áp lực ở Hắc Hải và sườn Kavkaz cho Đột Quyết, đồng thời cung cấp tài chính cho những cuộc thảo phạt của hoàng đế La Mã, tuy rằng hiệu quả cũng rất thấp.

Khi biết chắc Byzantium tồn tại chỉ còn từng năm và Đột Quyết sẽ vươn dậy thành mối đe dọa phía Nam Hắc Hải, đại công tước Ivan Khủng Khiếp bèn cải xưng sa hoàng, tuyên bố kế thừa La Mã về tước hiệu và huyết thống. Tôn hiệu quốc quân Nga từ đấy là Đại công tước Moskva và sa hoàng Toàn Nga.

Trong các giai đoạn sau, bất chấp Đại Loạn và Ba Lan cướp mất Kiev, sa quốc Nga không ngừng bành trướng về phương Đông để tránh áp lực Đột Quyết, đồng thời tích cực tiếp thu văn minh Tây Âu vào xã hội và chính trị quốc gia. Lúc này, các lãnh địa bán độc lập hoàn toàn bị phế bỏ, thay vào bằng hệ thống trung ương tập quyền.

Biên niên sử triều Romanov coi năm Pyotr Đại Đế thiên đô về Sankt-Peterburg là sự kiện khép lại sa quốc Nga và mở ra lịch sử Đế quốc Nga. Tuy nhiên, danh hiệu Đại công tước Moskva và sa hoàng Toàn Nga vẫn duy trì trên lãnh thổ Nga đến năm 1917 và bên ngoài Liên Xô giai đoạn 1918 - 1991. Thập niên 1990, Tòa thượng phụ Moskva và toàn nước Nga tái thừa nhận danh hiệu này cho nội bộ thành viên nhà Romanov, nhưng chỉ mang ý nghĩa tôn giáo và văn hiến thay vì chính trị.

Herberstein-Moscovia.jpg|_Moscovia_, Herberstein, 1549 Russia Mercator 1595.jpg|_Russia_, Mercator, 1595 Atlas_Cosmographicae_%28Mercator%29_099.jpg|Nga Moscovia, Mercator, Atlas Cosmographicae, 1596 Blaeu 1645 - Russiæ vulgo Moscovia pars australis.jpg|Nước Nga hay còn gọi là Moscovia, Atlas Maior, 1645 ## Lịch sử nhỏ|Sa hoàng Ivan IV ### Ivan Bạo Chúa trung hưng Sự phát triển quyền lực tuyệt đối của Sa hoàng lên tới đỉnh điểm trong thời kỳ cầm quyền (1547–1584) của Ivan IV ("Ivan Bạo chúa"). Ông tăng cường vị trí quyền lực của mình tới một mức độ chưa từng có trước đó, bằng cách thẳng tay sắp xếp giới quý tộc theo ý thích, trục xuất hay hành quyết nhiều người chỉ vì những tội lỗi nhỏ nhất. Tuy nhiên, Ivan thường được coi là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn, người đã cải cách nước Nga khi đưa ra một bộ luật mới (Sudebnik năm 1550), thiết lập cơ quan đại diện chính quyền phong kiến đầu tiên của Nga (Hội nghị hội đồng tự quản địa phương), cắt giảm ảnh hưởng của giới tăng lữ, và lập ra cơ quan tự quản cấp vùng tại các khu vực nông thôn,

Mặc dù cuộc chiến tranh Livonia kéo dài của ông nhằm giành quyền kiểm soát bờ biển Baltic và quyền tiếp cận con đường thương mại trên biển là một sai lầm tốn kém, Ivan đã sáp nhập được các hãn quốc như Kazan, Astrakhan và Siberi. Những cuộc chinh phục này càng khiến làn sóng di cư của người du mục hiếu chiến từ châu Á vào châu Âu qua Volga và Ural thêm phức tạp.

Thông qua những cuộc chinh phục đó, nước Nga có thêm được một số lượng đáng kể người Tatar Hồi giáo và trở thành một quốc gia đa chủng tộc và đa tôn giáo. Cũng trong khoảng giai đoạn này, gia đình thương gia Stroganov đã thành lập một địa vị vững chắc tại Ural và tuyển mộ nhiều người Cossack Nga tới thực dân hoá Siberia.

Cuối thời kỳ cai trị của mình, Ivan đã chia đất nước làm hai. Ở vùng được gọi là oprichnina, những người theo Ivan tiến hành một loạt các cuộc thanh trừng đẫm máu nhắm vào giới quý tộc phong kiến (mà ông nghi ngờ có âm mưu bội phản sau sự phản bội của hoàng thân Kurbsky), đỉnh điểm là vụ Thảm sát Novgorod (1570). Việc này cộng với những tổn thất quân sự, bệnh dịch, mất mùa đã làm suy yếu nước Nga tới mức người Tatar Krym có thể vào cướp bóc các vùng trung tâm Nga và đốt cháy kinh đô Moskva (1571). Năm 1572, Ivan từ bỏ oprichnina.

Cuối triều đại Ivan IV, quân Ba Lan-Litva và quân Thuỵ Điển đã tiến hành can thiệp thành công vào Nga, tàn phá miền bắc và các vùng tây bắc nước này.

Thời kì Đại Loạn

nhỏ|[[Kuzma Minich Minin|Kuzma Minin kêu gọi dân chúng Nizhny Novgorod tình nguyện gia nhập quân đội chống lại người Ba Lan.]]

Cái chết không người nối dõi của con trai Ivan Bạo chúa là Fyodor I kéo theo một giai đoạn nội chiến và can thiệp nước ngoài được gọi là "Thời kỳ loạn lạc" (1606–13). Các mùa đông lạnh giá (1601-1603) làm mùa màng thất bát dẫn tới nạn đói Nga 1601-1603 và làm gia tăng sự vô tổ chức trong xã hội. Thời kỳ cầm quyền của Boris Godunov chấm dứt trong tình trạng hỗn loạn, nội chiến cộng với sự xâm phạm từ nước ngoài, sự tàn phá nhiều thành phố và sự suy giảm dân số trong các khu vực nông thôn. Đất nước chao đảo vì sự hỗn loạn bên trong và nhiều cuộc can thiệp bên ngoài của Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva. Quân xâm lược tiến vào tới Moskva và đưa, ban đầu là kẻ mạo danh Dmitriy I giả và sau đó là Władysław IV Vasa - một Hoàng thân Ba Lan lên ngôi báu của nước Nga. Nhân dân Moskva phải nổi dậy đấu tranh, nhưng họ bị dập tắt một cách dã man và thành phố bị đốt cháy.

Cuộc khủng hoảng đã tạo nên tinh thần yêu nước chống lại quân xâm lược của toàn dân Moskva và vào mùa thu năm 1612, dưới sự chỉ huy của thương gia Kuzma M. Minin và Công tước Dmitry M. Pozharsky, quân đội tình nguyện đã đẩy lui ngoại bang ra khỏi kinh thành.

Vị thế quốc gia Nga đã sống sót qua "Thời kỳ loạn lạc" và sự cai trị yếu kém hoặc thối nát của các Sa hoàng nhờ sức mạnh của các quan lại trung tâm của chính quyền. Các chức năng của chính quyền vẫn hoạt động, dù dưới bất kỳ vị vua nào hay các phe phái nào kiểm soát ngôi báu. Tuy nhiên, "Thời kỳ loạn lạc" do sự khủng hoảng triều đại gây ra đã khiến nước Nga mất nhiều lãnh thổ vào tay Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva trong cuộc chiến tranh Nga-Ba Lan. Không những thế, vua Thụy Điển là Gustav II Adolf đã lợi dụng "Thời kỳ loạn lạc" mà phát binh chinh phạt nước Nga và giành chiến thắng lừng lẫy trong cuộc chiến tranh Ingria:

Sơ kì triều Romanov

phải|Bầu [[Mikhail I của Nga|Mikhail Romanov 16 tuổi lên làm Sa hoàng đầu tiên của nhà Romanov]] Tháng 2 năm 1613, khi sự hỗn loạn đã chấm dứt và người Ba Lan đã bị đẩy lui khỏi Moskva, một đại hội đồng, gồm các đại diện từ năm mươi thành phố và thậm chí cả một số nông dân đã bầu Mikhail Romanov, con trai của đại giáo chủ Filaret, lên ngôi báu. Nhà Romanov cai trị nước Nga tới tận năm 1917.

Nhiệm vụ trước mắt của triều đại mới là tái lập hoà bình. May cho Moskva, những kẻ thù chính của họ là Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva và Thuỵ Điển đang lao vào những cuộc xung đột với nhau, đưa lại cho nước Nga cơ hội tái lập hoà bình với vua Thuỵ Điển năm 1617 và ký một hiệp ước hoà bình với Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva vào năm 1619. Theo Hiệp định Stolbova, Sa hoàng Mikhail I nhường cho vua Gustav II Adolf hai vùng Carelia và Ingria. Từ đó, nước Nga mất lối ra biển Baltic. Việc thu hồi những lãnh thổ đã mất bắt đầu từ giữa thế kỷ 17 khi cuộc nổi dậy Chmielnicki tại Ukraina chống lại quyền cai trị Ba Lan đưa tới Hiệp ước Pereyaslav được ký kết giữa Nga và người Cossack Ukraina.

nhỏ|trái|[[Stenka Timofeyevich Razin đi thuyền trên biển Caspi.]] Theo hiệp ước, Nga đảm bảo quyền bảo hộ cho nhà nước Cossack ở Ukraina tả ngạn, trước kia thuộc quyền kiểm soát của Ba Lan. Việc này đã gây ra một cuộc Chiến tranh Nga-Ba Lan kéo dài dẫn tới Hiệp ước Andrusovo (1667) theo đó Ba Lan chấp nhận mất Ukraina tả ngạn, Kiev và Smolensk.

Thay vì tiếp tục đối mặt với nguy cơ mất tài sản trong các cuộc nội chiến, các đại quý tộc hay boyar đã liên kết với những vị Sa hoàng đầu tiên của nhà Romanov, cho phép họ hoàn tất việc thiết lập chính quyền quan lại trung ương. Như vậy, nhà nước yêu cầu sự hợp tác của cả giới quý tộc cũ và mới, chủ yếu trong quân đội. Đổi lại các Sa hoàng cho phép giới quý tộc hoàn tất quá trình nông nô hoá giới nông dân.

nhỏ|trái|Cuộc cải cách Giáo hội của [[đại giáo chủ Nikon đã gây ra sự li giáo trong Giáo hội Chính giáo Nga và sự xuất hiện Những người theo đức tin cũ.]] Trong thế kỷ trước đó, nhà nước đã dần tước đoạt các quyền di chuyển theo các chúa đất khác nhau của nông dân. Khi nhà nước đã hoàn toàn thừa nhận chế độ nông nô, các nông dân bỏ trốn trở thành những kẻ bị quốc gia truy nã, và quyền của các chúa đất với các nông dân "gắn liền" với đất đai của họ đã hầu như hoàn tất. Cùng nhau, nhà nước và giới quý tộc đặt ra các gánh nặng thuế khoá lên người nông dân, vào giữa thế kỷ 17 đã tăng gấp 100 lần so với thế kỷ trước đó. Ngoài ra, các thương nhân, thợ thủ công thành thị trung lưu, cũng phải chịu các khoản thuế, và giống như nông nô, họ cũng bị cấm chuyển chỗ ở. Tất cả thành phần xã hội đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và phải chịu các khoản thuế đặc biệt.

Dưới những hoàn cảnh như vậy, sự xuất hiện của những nông dân bất tuân pháp luật là không thể tránh khỏi; thậm chí các công dân Moskva cũng đã nổi dậy chống lại triều đình Romanov trong cuộc nổi loạn Muối (1648), cuộc nổi loạn Đồng (1662) và cuộc nổi dậy Moskva (1682) vượt xa cuộc nổi dậy nông dân lớn nhất thế kỷ 17 ở châu Âu nổ ra năm 1667. Khi những người định cư tự do ở phía nam nước Nga, người Cossack, nổi dậy chống lại sự tập quyền trung ương ngày càng tăng của nhà nước, các nông nô bỏ trốn khỏi các lãnh chúa và gia nhập những người nổi dậy. Thủ lĩnh người Cossack là Stenka Timofeyevich Razin dẫn những người theo mình ngược sông Volga, xúi giục các cuộc nổi dậy nông dân và thay thế các chính quyền địa phương bằng bộ máy Cossack. Cuối cùng quân đội Sa hoàng đã tiêu diệt các lực lượng của ông năm 1670; một năm sau Stenka bị bắt và bị chém đầu. Tuy thế, chưa tới nửa thế kỷ sau, tình trạng căng thẳng do những cuộc viễn chinh quân sự mang lại đã tạo ra một nổi loạn tại Astrakhan, cuối cùng cũng bị dập tắt.

Quốc kỳ

Không có cờ duy nhất trong Sa hoàng. Thay vào đó, có nhiều cờ: *Tiêu chuẩn được sử dụng bởi Sa hoàng:

  • Biểu tượng Hải quân của Hải quân hoàng gia Nga: Cánh đồng trắng với một vệt muối màu xanh, được thông qua vào năm 1712. và Biểu tượng dân sự Nga (từ 1705) Flag of Russian Navy (Krepost) 1699-1700.svg|Lệnh hải quân của Hải quân Đế quốc Nga (1699–1700), Naval Ensign of Russia.svg|Lệnh hải quân Hải quân Đế quốc Nga (từ 1712)
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sa quốc Nga** ( hay **Nước Nga Sa hoàng**, ) hay nó có một tên gọi khác là **Sa quốc Muscovy** là giai đoạn trung ương tập quyền hóa trong lịch sử Nga, bắt đầu
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
**Cuộc chinh Siberia** (tiếng Nga: Покорение Сибири) diễn ra trong gần 2 thế kỷ, bắt đầu từ năm 1580 đến năm 1778, khi Hãn quốc Sibir trở thành một cơ cấu chính trị lỏng lẻo
phải|nhỏ|[[Pyotr I của Nga|Pyotr Đại đế chính thức đổi tên thành Sa hoàng Nga Đế quốc Nga vào năm 1721, và trở thành hoàng đế đầu tiên của nó.]] **Chính sách đối ngoại Đế quốc
phải|nhỏ|300x300px|[[Cung điện Marie trên Quảng trường Thánh Isaac là trụ sở của Hội đồng Nhà nước trong thế kỷ 20.]] **Hội đồng Nhà nước** () là tình trạng cơ quan tư vấn tối cao cho
**Chế độ chuyên chế Sa hoàng** () đề cập đến một hình thức của chế độ quân chủ chuyên chế (sau đó chế độ quân chủ tuyệt đối), áp dụng vào Đại công quốc Moskva,
**Tỉnh Bessarabia** là một tỉnh (_guberniya_) của Đế quốc Nga, trung tâm hành chính nằm tại Kishinev (nay là Chișinău của Moldova). Tỉnh có diện tích và có 1.935.412 cư dân. Tỉnh Bessarabia giáp với
right|thumb|Nhà thờ lớn dành cho [[Catarina thành Alexandria|Thánh Catarina tại Kherson là trụ sở tỉnh khi đó.]] **Tỉnh Kherson**, cho đến năm 1803 gọi là **tỉnh Nikolaev**, là một tỉnh (guberniya) của Đế quốc Nga,
right Trong Quân đội Đế quốc Nga, **quân khu** (, _voyenny okrug_) là tập hợp lãnh thổ của các đơn vị quân đội, tổ chức cấu thành, học viện, và các đơn vị quân sự
**Pyotr I** (), có sách viết theo tiếng Anh là **Peter I** hay tiếng Pháp là **Pierre I** (sinh ngày: 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất ngày: 8 tháng 2 năm 1725
Đây là danh sách tất cả các vị vua trị vì trong lịch sử nước Nga, bao gồm các danh hiệu Đại vương công Novgorod, Đại vương công Kiev, Đại vương công Vladimir, Đại vương
**Chiến tranh Sa quốc Nga - Đại Thanh năm 1654** là cuộc chiến diễn ra năm 1654,giữa Sa quốc Nga và Đại Thanh với lực lượng Triều Tiên hỗ trợ theo yêu cầu của Đại
phải|Mở rộng lãnh thổ nước Nga (1300–1945) **Những thay đổi về lãnh thổ Nga** đã xảy ra bằng các phương thức chinh phục quân sự và bởi các liên minh chính trị và tư tưởng
nhỏ|phải|[[Chuyến thăm Nga của Tập Cận Bình 2023. Sau khi bị sa lầy và vắt kiệt vào cuộc chiến Ukraina, Nga đang ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc đầy toan tính]] **Quan hệ Nga
**Hãn quốc Krym**, tự gọi là **Ngôi vương Krym và Desht-i Kipchak**, và trong thuật chép sử và địa lý châu Âu gọi là **Tiểu Tartary**, là một nhà nước Tatar Krym tồn tại từ
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**Nikolas I** (6 tháng 7 [lịch cũ 25 tháng 6] 1796 – 2 tháng 3 [lịch cũ 18 tháng 2] 1855) là Hoàng đế Nga, Vua của Vương quốc Lập hiến Ba Lan và Đại
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
**Aleksey Mikhailovich** ( ; ; 29 tháng 3  [19 tháng 3 theo lịch cũ] năm 1629 – ) là Sa hoàng của Nga trong những thập kỷ sôi động nhất của giữa thế kỷ 17.
**Ivan V Alekseyevich** (tiếng Nga: Иван V Алексеевич, 6 tháng 9 [27 tháng 8 theo lịch cũ] năm 1666 – 8 tháng 2 [29 tháng Giêng theo lịch cũ] năm 1696) là Sa hoàng của
nhỏ|360x360px|[[Nikolai II của Nga|Nikolai II, Sa hoàng cuối cùng của nước Nga]] **Sa hoàng** (tiếng Anh: _Tsar_; hay ; Tiếng Slav Giáo hội cổ: ц︢рь), còn gọi là **Nga hoàng**, là tước vị chính thức
nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily trên Quảng trường Đỏ, ở Moskva|thế=]] **Văn hóa Nga** có truyền thống lâu đời về nhiều mặt của nghệ thuật, đặc biệt khi nói đến văn học, múa dân
**Boris Fyodorovich Godunov** (; Tiếng Nga: Бори́с Фёдорович Годуно́в, ); (khoảng 1551 – 23 tháng 4 năm 1605) (lịch O.S. 13 tháng 4 năm 1605) là vua của nước Nga
Trong lịch sử Nga, giai đoạn từ 1796 đến 1855 (bao gồm các triều đại của Pavel I, Aleksandr I và Nikolai) đã chứng kiến các cuộc chiến tranh của Napoléon, cải cách chính phủ,
**Mikhail Fyodorovich** (, tiếng Slav Đông cổ: _Міхаи́лъ Ѳео́доровичь_; 22 tháng 7 [12 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1596 – 23 tháng 7 [13 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1645), còn được gọi
**Hoàng đế của Toàn Nga** hoặc **Sa hoàng Nga** (tiếng Nga: (cải cách năm 1918) Императоръ Всероссійскій, Императрица Всероссійская, (chính tả hiện đại) Император Всероссийский, Императрица всероссийская, _Imperator Vserossiyskiy_, _Imperatritsa Vserossiyskaya_) là hoàng đế chuyên
**Quốc kỳ Nga** (tiếng Nga: _Государственный флаг Российской Федерации_, **Quốc kỳ Liên bang Nga**) hiện nay là một lá cờ gồm ba dải màu nằm ngang có chiều rộng bằng nhau, màu trắng ở trên
**Anna Petrovna của Nga** (; 27 tháng 1 năm 1708 – 4 tháng 3 năm 1728) là con gái cả của Hoàng đế Pyotr I của Nga và vợ là Hoàng hậu Yekaterina I. Mặc
**Thân vương quốc Mátxcơva,** (****), hoặc **Muscovy** là một công quốc Rus' cuối thời trung cổ lấy Moskva làm trung tâm, và là quốc gia tiền thân của Sa quốc Nga ở thời cận đại.
thumb|Huy hiệu của Thụy Điển (với lỗi [[Tincture (huy hiệu)|tinctures) trên một bức tường của Tòa thị chính tại Lützen ở Đức]] Thuật ngữ **Đế quốc Thụy Điển** dùng để chỉ tới **Vương quốc Thụy
**Đại vương công Konstantin Nikolayevich của Nga** (21 tháng 9 năm 1827 – 25 tháng 1 năm 1892) là người con thứ 5 và là con trai thứ của Sa hoàng Nikolai I của Nga
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
Đến đầu năm 1917 tại nước Nga đã xuất hiện các nguyên nhân khách quan và chủ quan cho các cuộc cách mạng nổ ra. Các nguyên nhân này đã xuất hiện từ lâu nhưng
**Hiệp ước Polyanovka** (tiếng Ba Lan: _Polanów_, còn được gọi là Hòa ước Polyanovka/Polanów) là một hòa ước được ký vào ngày 14 tháng 6 năm 1634 giữa Liên bang Ba Lan và Lietuva và
**Vasili IV Shuisky** hay Basil IV (, _Vasiliy Ivanovich Shuisky_, sinh 1552Mất ngày 12 tháng 9 năm 1612) là Sa Hoàng Nga trong khoảng thời gian từ năm 1606 đến năm 1610. Ông lên ngôi
nhỏ|300x300px| Biên giới Ba Lan-Nga **Biên giới Ba Lan-Nga** ngày nay là một bộ phận gần như là một đường thẳng giữa Cộng hòa Ba Lan (thành viên Liên minh châu Âu) và Nga (thành
**Chính phủ lâm thời Nga** () là một chính phủ lâm thời của Nga được thành lập ngay sau khi Sa hoàng Nikolai II của Đế quốc Nga thoái vị vào ngày 2 tháng 3
thumb|Phòng tuyến Izyum trên địa bàn [[Ukraina và Krym.]] **Phòng tuyến Izyum** (, , tiếng Tatar: _Ізюмська сакма_) là giới hạn theo thỏa hiệp giữa Sa quốc Nga và Hãn quốc Krym, sau đó là
Hiện nay, **Quốc huy của nước Cộng hòa Phần Lan** là hình ảnh một con sư tử màu vàng trên nền chiếc khiên màu đỏ. Con sư tử đầu đội vương miện và giẫm lên
Đây là _danh sách các **đế quốc**_, được liệt kê theo thời gian. ## Đế quốc thời Cổ đại phải|thumb|[[Nhà Achaemenid|Đế quốc Achaemenid (Ba Tư) là đế quốc rộng lớn nhất thế giới vào thời
**Pavel I của Nga**, còn được chép là **Paul I** (; _Pavel Petrovich_) ( – ) là Hoàng đế Nga từ năm 1796 đến năm 1801. Trong triều đại mình, Pavel đã bãi bỏ nhiều
**Nikolai II của Nga** cũng viết là **Nicholas II** ( , phiên âm tiếng Việt là **Nicôlai II Rômanốp** hay **Ni-cô-lai II**) (19 tháng 5 năm 1868 – 17 tháng 7 năm 1918) là vị
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Tiền đề của Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga** - một tập hợp phức tạp các biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa trong và ngoài nước có mối
**Đại công quốc Phần Lan**, tên chính thức và cũng được gọi là **Đại Thân vương quốc Phần Lan**, là tiền thân của Phần Lan hiện đại. Nó tồn tại từ năm 1809 đến năm
"**Quốc ca Liên bang Nga**" () là tên bài quốc ca chính thức của Nga. Bài quốc ca này dùng chính giai điệu của bài "Quốc ca Liên bang Xô viết", sáng tác bởi Alexander
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga** (, _natsionalnaya sbornaya Rossii po futbolu_) là đội tuyển bóng đá cấp quốc gia của Nga do RFU quản lý và thuộc Liên đoàn bóng đá châu Âu
**Aleksey Nikolayevich của Nga** () ( – 17 tháng 7 năm 1918) là thái tử (_tsesarevich_) cuối cùng của Đế quốc Nga. Ông là con út và là người con trai duy nhất của Hoàng
**Sa Đéc** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Vùng đất Sa Đéc xưa có tên Khmer là Phsar Dek, có hai cách hiểu thứ nhất người ta cho rằng Phsar