✨Chiến tranh Nga-Thanh (1654)

Chiến tranh Nga-Thanh (1654)

Chiến tranh Sa quốc Nga - Đại Thanh năm 1654 là cuộc chiến diễn ra năm 1654,giữa Sa quốc Nga và Đại Thanh với lực lượng Triều Tiên hỗ trợ theo yêu cầu của Đại Thanh.

Tên gọi

Cuộc chiến được Đại Thanh và Triều Tiên gọi là Chinh phạt Sa quốc (, tiếng Triều Tiên 나선정벌/라선정벌).

Cuộc chiến chủ yếu diễn ra trên sông Tùng Hoa (, Sungari) nên Sa quốc Nga gọi là Chiến tranh sông Sungari (Сражение на Сунгари).

Trong các văn bản Đại Thanh chính thức sau này gọi hai cuộc chiến với Sa quốc Nga năm 1654 và 1658 là Chiến tranh cửa sông Tùng Hoa (松花江口之战). Triều Tiên gọi cuộc chiến 1654 là Chinh phạt Sa quốc lần thứ nhất và cuộc chiến 1658 là Chinh phạt Sa quốc lần thứ hai.

Bối cảnh

Trong những năm 1640, Sa hoàng đưa quân xâm chiếm lưu vực sông Hắc Long Giang, thành lập Yaksa cùng các điểm chiếm đóng khác, đồng thời đốt phá, giết chóc và cướp bóc khắp nơi. Lúc này, nhà Thanh vừa nhập quan, quân chủ lực ở phía nam Vạn Lý Trường Thành, phòng thủ Đông Bắc Trung Quốc trống. Năm 1647, tại Ninh Cổ Tháp (nay là Ninh An, tỉnh Hắc Long Giang) chỉ còn hơn 130 quân đồn trú. Năm 1652 (năm Thuận Trị thứ 9), tướng quân nhà Thanh là Haise dẫn đầu 600 binh lính nhà Thanh với sự hỗ trợ 1500 quân tộc Hách Triết, Đại Oát Nhĩ đã giao chiến với 206 quân Cossack Nga trong trận chiến làng Uzala, với vũ khí lạc hậu, thất bại trong chiến thuật dẫn tới sự thất bại thảm hại của phía nhà Thanh. Năm 1653 (Thuận Trị thứ 10), chính quyền nhà Thanh thiết lập chức vụ Ngang Bang Chương Kinh (昂邦章京 Amba Janggin) ở Ninh Cổ Tháp, Sa Nhĩ Hổ Đạt (Šarhūda) được phong là Chương Kinh đầu tiên, đã cử 300 quân đến đồn trú, đồng thời liên lạc với những tộc người Hách Triết, Bỉ Nhã Khách và những tộc người khác bị Cossack Nga quấy nhiễu. Tuy nhiên, nhà Thanh thiếu súng ống, đã yêu cầu sự trợ giúp từ chư hầu Triều Tiên, đặc biệt gọi lính Triều Tiên là "giỏi dùng điểu thương".

Triều Tiên bị ảnh hưởng bởi trật tự Hoa Di (華夷秩序) do đó xem thường các triều đại nhà Thanh. Sau trận chiến Đinh Mão trong năm 1627, Triều Tiên căm ghét triều đại nhà Thanh thậm chí nhiều hơn. Sau cuộc chiến Bính Tý năm 1636, Triều Tiên đã buộc phải trở thành một chư hầu của nhà Thanh. Trong trận Tùng Cẩm (松錦之戰), nhà Thanh đã chiêu mộ binh lính Triều Tiên tham gia. Tuy nhiên, tư tưởng chống nhà Thanh rất mạnh mẽ ở Triều Tiên, và "Thuyết Bắc phạt" đã được phổ biến lan tràn. Vua Triều Tiên Hiếu Tông đã bí mật lên kế hoạch cho "Bắc phạt" và ủng hộ phong trào "Phản Thanh phục Minh" của Trung Quốc. Triều đại nhà Thanh đã biết đến Triều Tiên và do đó đã xảy ra sự kiện sáu sứ thần bị cật vấn. Trong trường hợp này, nhà Thanh cũng có ý định kiểm tra Triều Tiên bằng cách bắt lính Triều Tiên tham gia chiến trận.

Vào cuối tháng 1 năm 1653, Sa hoàng Nga Alexis I quyết định tăng cường xâm lược lưu vực sông Hắc Long Giang và gửi 3,000 quân sang phía đông, sau đó đã bị suy yếu do không đủ lương thực và tranh chấp biên giới phía tây. Stepanov tiếp quản thay Khabarov để cướp bóc lưu vực sông Hắc Long Giang.

nhỏ|phải|Bản đồ Chiến tranh Sa quốc Nga - Đại Thanh năm 1654

Diễn biến

Xuất chinh

Triều Tiên và Nga không có bất kỳ quan hệ nào với nhau. Khi đó, lực lượng viễn chinh của Nga đang bị thiếu lương thực, có nguồn tin phải ăn thịt lẫn nhau. Nhà Thanh đã gọi lực lượng này là "La Sát" (罗刹 Cõi Nga La Tư). Triều Tiên dịch là "La Thiện", "Hạc Xa", "Lỗ Xa", "Lão Xoa", "Lão Khương", "Xa Hán"... Học giả Lý Dị (李瀷 Yi Ik) đã ghi lại: "Vào năm Mậu Tuất vua Hiếu Tông thứ 9 (1658), Đại quốc trưng binh của chúng ta trợ công giặc Xa Hán. Xa Hán còn được gọi là La Thiện".

Vào tháng 2 năm 1654 (Thuận Trị thứ 11 và Hiếu Tông Triều Tiên thứ 5), nhà Thanh cử một sứ giả Hàn Cự Nguyên (韩巨源) đến Triều Tiên, mang theo một thông điệp từ Bộ Lễ của nhà Thanh: "Triều Tiên tuyển 100 lính điểu thương giỏi, đứng đầu là Phủ Hội Ninh nghe Ngang Bang Chương Kinh thống lĩnh, đi chinh phạt La Thiện, và ngày 10 tháng 3 đến Ninh Cổ Tháp". Để xoa dịu mối quan hệ với nhà Thanh, Triều Tiên, theo lời khuyên của Lãnh Nghị chính Jung Tae-hwa (Trịnh Thái Hòa), đã cử Ngu Hầu Bian-yang (Biên Ngập) làm tướng xuất chinh cùng binh mã Hàm Kính đạo (Hamgyeong-do).

Chiến đấu

Chinh phạt lần thứ nhất

Triều Tiên đã cử một lực lượng viễn chinh gồm 100 lính điểu thương, 1 tuần quan, 2 thông từ (phiên dịch), 48 lính cầm cờ và phục dịch, cộng với tướng lĩnh ở biên giới, tổng cộng quân viễn chinh Triều Tiên có 152 lính thảo phạt Sa quốc Nga. Sau khi quân Triều Tiên chỉnh tề ở Huệ Ninh vượt sông Đồ Môn, ngày 26 tháng 3 âm lịch năm 1654 (năm Thuận Trị thứ 11), hội quân tại Ninh Cổ Tháp cùng với quân Sa Nhĩ Hổ Đạt. Vào thời điểm đó, có 300 quân từ Bát Kỳ quân, 300 quân từ Hách Triết quân và 100 quân Triều Tiên.

Vào ngày 21 tháng 4 âm lịch, Sa Nhĩ Hổ Đạt dẫn 700 quân từ Ninh Cổ Tháp, sáu ngày sau họ chạm trán với khoảng 400 lính Cossack Nga do Onufriy Stepanov chỉ huy tại sông Hậu Thông (sông Hỗn Đồng, ngày nay là sông Tùng Hoa). Báo cáo từ Biên Ngập cho Triều Tiên Hiếu Tông rằng:"Khi thần đến Viết Cáp (địa danh, gần cửa sông Tùng Hoa) lần đầu tiên thần gặp thuyền địch, có mười ba chiếc thuyền lớn, có thể khoản 300 thạch (đơn vị tính, bẳng khoảng 21 tấn). Có hai mươi sáu chiếc thuyền nhỏ, trông giống như những chiếc thuyền Oa (tên gọi chỉ Nhật Bản)". Tàu Đại Thanh, Triều Tiên “loại nhỏ chỉ chứa được bốn, năm người, có bốn mươi chiếc; loại lớn chứa được mười bảy người, có hai mươi chiếc”. Biên Ngập đề nghị không nên đánh thủy chiến mà dụ địch vào sâu, lấy địa thế thuận lợi mà diệt địch. Các tướng quân Thanh nhất trí “Chọn nơi cao nhất ven sông để lập đội hình”, quân Triều Tiên “vây lá liễu xếp hàng trên bờ”, “nổ đại bác vào hướng giặc”, "đánh liên tiếp nhiều ngày, quân giặc sẽ bị chết trong đạn pháo".

Lịch sử Nga ghi: "Vào ngày 6 tháng 6 (theo lịch Nga, tức ngày 16 tháng 6 theo lịch Gregorian), quân ta chạm trán với quân Šarhūda, và quân đội Šarhūda mang theo nhiều loại vũ khí khác nhau—đại bác và súng hỏa mai. Sau khi đọ súng, kỵ binh quân Šarhūda giao chiến với quân ta trên lưng ngựa và trên thuyền với súng hỏa mai. Họ chiến đấu bằng vũ khí lớn - đại bác và súng hỏa mai. Họ bắn vào tàu của quân ta. Họ bắn từ phía sau công sự và bức tường với những chiếc thúng đất". "Nhiều quân đã bị thương và quân ta không thể chiến đấu với quân Šarhūda này nữa vì kho thuốc súng và súng ngắn của quân ta đã cạn kiệt". "Họ chiến đấu theo đội hình khéo léo và có trật tự".

Quân Nga bị thương vong nặng nề, Stepanov quyết định bỏ chạy từ sông Tùng Hoa lên thượng nguồn sông Hắc Long Giang, Quân Triều Tiên không bị thương vong. Các xạ thủ Triều Tiên đã đóng một vai trò lớn trong trận chiến này và đây cũng là cuộc chạm trán đầu tiên giữa Nga và Triều Tiên trong lịch sử được ghi lại.

Vào ngày 16 tháng 5, quân đội Đại Thanh và Triều Tiên rút quân sau khi xây dựng thành đắt, vào ngày 13 tháng 6, rút trở lại Ninh Cổ Tháp. Biên Ngập "toàn quân trở về" Triều Tiên và Triều Tiên Hiếu Tông "Biên Ngập đặc biệt tăng bổng". Biên Ngập chỉ cho Triều Tiên Hiếu Tông người phương Tây vào năm 1655.

Thất bại của Nga khiến họ mất quyền kiểm soát vùng hạ lưu Amur cho đến Nerchinsk, nơi chỉ có 76 người Cossacks đồn trú trong pháo đài.

Chinh phạt lần thứ hai

Năm 1658, quân viễn chinh Triều Tiên đến Ninh Cổ Tháp để chiến đấu với Nga bằng súng ngắn, và Triều Tiên gọi đó là cuộc "Chinh phạt La Thiện lần thứ hai".

Nga và Triều Tiên hoàn toàn không có mối quan hệ nào với nhau. Nga thậm chí còn không biết rằng có người Triều Tiên trong quân đội nhà Thanh, và Triều Tiên không biết rõ về "La Thiện", và cho rằng gắn liền với các bộ tộc Kiên Côn, Thất Vi hoặc Mạt Hạt được ghi trong sách cổ của Trung Quốc.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến tranh Sa quốc Nga - Đại Thanh năm 1654** là cuộc chiến diễn ra năm 1654,giữa Sa quốc Nga và Đại Thanh với lực lượng Triều Tiên hỗ trợ theo yêu cầu của Đại
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**Chiến tranh đảo Crete** (, ), còn được gọi là **Chiến tranh Candia** () hay **Chiến tranh Ottoman–Venezia lần thứ năm**, là một cuộc xung đột kéo dài từ năm 1645 đến năm 1669 giữa
**Chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha** là một cuộc xung đột quân sự đã đẩy nước Pháp tham chiến trong Chiến tranh Ba mươi năm. Sau khi các đồng minh Đức của Thụy Điển buộc phải
**Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ** (Tiếng Đức: _Großer Türkenkrieg_), còn được gọi là **Chiến tranh Liên đoàn Thần thánh** (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Kutsal İttifak Savaşları_), là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế
**Aleksey Mikhailovich** ( ; ; 29 tháng 3  [19 tháng 3 theo lịch cũ] năm 1629 – ) là Sa hoàng của Nga trong những thập kỷ sôi động nhất của giữa thế kỷ 17.
**Quan hệ Nga–Ukraina** chuyển thành quan hệ liên quốc gia sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Quan hệ ngoại giao giữa Liên bang Nga và Ukraina độc lập được thiết lập vào
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Người Ukraina tại Nga** (, ) tạo thành nhóm người di cư lớn nhất của người Ukraina. Năm 2010, 1,9 triệu người Ukraina sống ở Nga, chiếm hơn 1,4% tổng dân số Liên bang Nga
**Khởi nghĩa Khmelnytsky**, còn gọi là **Chiến tranh Cossack–Ba Lan**, **Khởi nghĩa Chmielnicki**, **cuộc nổi dậy Khmelnytsky**, là một cuộc nổi loạn của người Cossack diễn ra từ năm 1648 đến năm 1657 trên các
thế=Saint Basil's Cathedral, with multicolored onion-shaped domes against a blue sky|nhỏ|354x354px|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily|Nhà thờ chính tòa Saint Basil (1482–95) là một ví dụ điển hình của kiến trúc Moskva Nga.]] **Kiến trúc
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Quốc gia hetman Cossack** (; , hay _Nhà nước Cossack_), tên chính thức là **Quân đoàn Zaporizhia** (; ), là một nhà nước của người Cossack nằm tại Trung Ukraina. Nhà nước này tồn tại
phải|_[[Những người Zaporozhe (tranh)|Người Zaporozhe viết thư cho sultan Thổ Nhĩ Kỳ_. Tranh của Ilya Repin từ năm 1880 tới năm 1891.]] phải|Một gia đình cossaks người mỹ vào những năm 1950 phải|Một binh đoàn
**Ukraina** (phát âm tiếng Việt: _U-crai-na_; , ) là một quốc gia thuộc khu vực Đông Âu, giáp với Nga về phía Đông, Belarus về phía Bắc, Ba Lan, Slovakia và Hungary về phía Tây,
Việc chuyển giao tỉnh Krym trong nội bộ Liên Xô năm 1954 là một hành động hành chính của Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao nhằm chuyển giao chính quyền của Krym từ Cộng
**Ivan V Alekseyevich** (tiếng Nga: Иван V Алексеевич, 6 tháng 9 [27 tháng 8 theo lịch cũ] năm 1666 – 8 tháng 2 [29 tháng Giêng theo lịch cũ] năm 1696) là Sa hoàng của
**Hiệp ước Bromberg** (tiếng Đức: _Vertrag von Bromberg_, tiếng Latinh: _Pacta Bydgostensia_) còn gọi là **Hiệp ước Bydgoszcz**, được ký kết giữa John II Casimir của Ba Lan và Tuyển đế hầu Frederick William của
thumb|Ukraina hữu ngạn **Ukraina hữu ngạn** (, _Pravoberezhna Ukrayina_; , _Pravoberezhnaya Ukraina_) là tên gọi lịch sử và lãnh thổ của một phần Ukraine nằm ở bờ hữu (tây) của sông Dnepr (Dnipro), tương ứng
**Quảng Ngãi** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Ngãi, thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Quảng Ngãi nằm ở trung bộ Việt Nam; cách
**Thượng phụ Nikon** (tiếng Nga: Никон, tiếng Nga cổ: Нїконъ; tên khai sinh: **Nikita Minin (Minov)** _Ники́та Ми́нин (Минов)_; 7 tháng 5 năm 1605 – 17 tháng 8 năm 1681) là Thượng phụ Moskva và
**Ulaanbaatar** (phiên âm: _U-lan-ba-ta_, , chữ Mông Cổ: , chuyển tự: _Ulaghanbaghator_; phiên âm IPA: , nghĩa là "Anh Hùng Đỏ") là thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Mông Cổ. Với
thumb|Thoả thuận Pereiaslav được mô tả trên tem của Liên Xô năm 1954. [[Người Cossack đứng bên trái với trang phục truyền thống và một bandura. Vasiliy Buturlin đứng bên phải đang tuyên bố.]] thumb|Tem
**Thanh Thánh Tổ** (chữ Hán: 清聖祖; 4 tháng 5 năm 165420 tháng 12 năm 1722), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Thanh và cũng
thumb|Huy hiệu của Thụy Điển (với lỗi [[Tincture (huy hiệu)|tinctures) trên một bức tường của Tòa thị chính tại Lützen ở Đức]] Thuật ngữ **Đế quốc Thụy Điển** dùng để chỉ tới **Vương quốc Thụy
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Ruthenia Đỏ**, hay ** Rus' Đỏ, Hồng Nga, Nga Đỏ** (; __; ; ), là một thuật ngữ được sử dụng từ thời Trung cổ để chỉ các thân vương quốc phía tây nam của
Ukraine thời tiền sử, là một phần của thảo nguyên Pontic, đã đóng một vai trò quan trọng trong các liên hệ văn hóa Á-Âu, bao gồm sự lan rộng của Thời đại đồ đồng
**Tỉnh Czernihów** hay **Chernihiv** (, ) là một đơn vị hành chính và chính quyền địa phương của Vương quốc Ba Lan (một phần của Thịnh vượng chung Ba Lan-Litva) từ năm 1635 cho đến
thumb|_[[Jan Henryk Dąbrowski tiến vào Rome_, của January Suchodolski. Sơn dầu trên vải, 1850.]] **January Suchodolski** (sinh ngày 19 tháng 9 năm 1797 – mất ngày 20 tháng 3 năm 1875) là một họa sĩ
**Oslo** ( hay , phiên âm: Ốt-xlô) là một khu tự quản, thủ đô và cũng là thành phố đông dân nhất Na Uy. Oslo trở thành khu tự quản (_formannskapsdistrikt_) vào ngày 1 tháng
phải|**Aarhus** [left center] is south of [[Randers, Denmark|Randers, northeast of Kolding và Esbjerg, on Denmark's Jutland peninsula.]] trái|Mặt trước nhà hát Aarhus **Aarhus** (ở Đan Mạch thường viết là **Århus**) là thành phố lớn thứ
**Thanh Thế Tổ** (chữ Hán: 清世祖; 15 tháng 3 năm 1638 – 5 tháng 2 năm 1661), họ Ái Tân Giác La, húy **Phúc Lâm**, là hoàng đế thứ hai của nhà Thanh và là hoàng
**Bohdan Zynovii Mykhailovych Khmelnytskyi** (tiếng Ruthenia: Ѕѣнові Богданъ Хмелнiцкiи; ; 6 tháng 8 năm 1657) là một quý tộc Ruthenia và chỉ huy quân sự của người Cossack Ukraina với tư cách Hetman của Quân
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Thực dân Courland** (_tiếng Latvia_: **Kurzemes kolonijas**) là nỗ lực mở rộng chủ nghĩa thực dân ra bên ngoài chính quốc của Công quốc Courland và Semigallia (_tiếng Latvia_: Kurzemes un Zemgales hercogiste). Từ năm
**Blaise Pascal** (; 19 tháng 6 năm 1623 – 19 tháng 8 năm 1662) là nhà toán học, vật lý, nhà phát minh, tác gia, và triết gia Công giáo người Pháp. Là cậu bé
**Gustav II Adolf của Thụy Điển** (9 tháng 12jul (19 tháng 12greg) năm 1594 – 6 tháng 11jul (16 tháng 11greg) năm 1632), còn được biết với cái tên tiếng La Tinh là **Gustavus Adolphus**
**Jan II Kazimierz Waza** (tiếng Đức: Johann II. Kasimir Wasa; tiếng Litva: Jonas Kazimieras Vaza; ngày 22 tháng 3 năm 1609 - 16 tháng 12 năm 1672) là Vua Ba Lan và Công tước của
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
nhỏ|Quyền bầu cử của phụ nữ nhỏ|Poster của Phong trào Phụ nữ Đức, 1914. phải|nhỏ|Phụ nữ ở Anh biểu tình đòi quyền bầu cử năm 1911. nhỏ|Phụ nữ Mỹ đấu tranh cho quyền bầu cử
Nhật Bản là quốc gia có số lượng Phật tử chiếm 34,9% dân số, có khoảng 377,000 tăng sĩ (2014). Có ngôi chùa gỗ cổ nhất thế giới Hōryūji (Pháp Long Tự). nhỏ|Chùa [[Yakushiji ở
**Cầu quân sự** là các loại cầu để lực lượng vũ trang và các phương tiện chiến đấu cơ động vượt qua sông, suối cũng như các vật cản khác trong hành quân và tác
Lịch sử quân sự Triều Tiên kéo dài hàng nghìn năm, bắt đầu từ Cổ Triều Tiên và tiếp tục cho đến ngày nay với Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên. Các nhà quân sự
**Stanisław "Rewera" Potocki** (, 1589 – 1667) là một nhà quý tộc, lãnh chúa và đồng thời là một lãnh đạo quân sự người Ba Lan. Cùng với Stefan Czarniecki, ông đã góp công trong
Đây là danh sách các hòn đảo được phân chia bởi một hoặc nhiều biên giới quốc tế. ## Đảo biển ## Đảo hồ * _De facto_ giữa Nga (Crimea) (tranh chấp) với Ukraine **
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
nhỏ|5000 [[Rúp Nga phát hành năm 2006]] nhỏ|100,000 [[Rúp Belarus phát hành năm 2000]] nhỏ|346x346px|100 [[Rúp Nga được phát hành năm 2013, được in để kỷ niệm Thế vận hội Olympic tại Sochi-2014]] **Rúp** hoặc
**Muhi ud-din Muhammad Aurangzeb Bahadur Alamgir I**, được biết phổ biến hơn với tên gọi **Aurangzeb** ( (tước hiệu đầy đủ: _Al-Sultan al-Azam wal Khaqan al-Mukarram Abul Muzaffar Muhi ud-din Muhammad Aurangzeb Bahadur Alamgir I,
**Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha**, có biệt danh là **Ernst Ngoan đạo** (25 tháng 12 năm 1601 – 26 tháng 3 năm 1675) là công tước của Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg thuộc Các công quốc