✨Gustav II Adolf của Thụy Điển

Gustav II Adolf của Thụy Điển

Gustav II Adolf của Thụy Điển (9 tháng 12jul (19 tháng 12greg) năm 1594 – 6 tháng 11jul (16 tháng 11greg) năm 1632), còn được biết với cái tên tiếng La Tinh là Gustavus Adolphus (còn viết là Gustave II Adolphe và đọc theo tiếng Việt là Guxtavơ II Ađônphơ). Trong các tư liệu lịch sử, ông còn được gọi là Gustavus, hay Gustavus Đại đế, và Gustav Adolph Đại đế (, một danh hiệu được Quốc hội Thụy Điển chính thức thông qua vào năm 1634), là người sáng lập Đế quốc Thụy Điển (còn gọi là Stormaktstiden "giai đoạn liệt cường") trong buổi đầu thời đại hoàng kim của Thụy Điển. Ông là vua nước Thụy Điển từ năm 1611 đến khi qua đời năm 1632. Dưới sự lãnh đạo của ông, Thụy Điển là nước có uy thế quân sự trong cuộc chiến tranh Ba mươi năm, góp phần xác định sự cân bằng quyền lực về tôn giáo và chính trị tại châu Âu.

Chiến thắng lừng lẫy nhất của ông là trận đánh Breitenfeld (1631) trước quân Đức. Với bộ máy quân sự xuất sắc, vũ khí tốt, sự đào tạo kỹ lưỡng và lực lượng pháo binh hiệu quả (tất cả đều được hỗ trợ bởi một chính quyền có hiệu lực cao ở hậu phương, luôn đáp ứng nhu cầu của ông), Đại đế Gustav II tự tin đưa ông trở thành một những lãnh đạo tiêu biểu của Âu châu. Tuy nhiên, ông tử trận vào năm 1632. Trong những năm ông lăn lộn trên chiến trường Thủ tướng Axel Oxenstierna (1583 – 1654) điều hành đất nước, thiết lập Tòa án Tối cao mới và trở thành quan Nhiếp chính sau khi ông qua đời.

Dưới triều đại ông, Vương quốc Thụy Điển - vốn chỉ là nước mạnh ở một vùng và tầm thường - vươn lên thành một trong những cường quốc của châu Âu, với một chính phủ xứng đáng làm gương cho các nước thời cận đại. Ông luôn phải đối đầu với những cuộc chiến tranh: Ngày từ năm 1617 (khi 17 tuổi), ông đã thống lĩnh Quân đội Thụy Điển đánh nhau với một vài nước láng giềng, đến khi năm 1632 ông tử trận trong lúc tiến hành tấn công đối phương. Chỉ trong vòng vài năm, Thụy Điển trở thành quốc gia lớn nhất lục địa châu Âu, chỉ sau nước Nga và Tây Ban Nha. Quân Thụy Điển cũng đánh đuổi quân Đan Mạch khỏi miền Bắc Thụy Điển và đây là lần đầu tiên quốc gia này hùng mạnh hơn Đan Mạch., hoặc là một "vị Thống soái vĩ đại đầu tiên". Dưới trướng ông, nước Thụy Điển và phái Kháng Cách có nhiều vị tướng xuất sắc, chẳng hạn như Lennart Torstensson. Nhiều năm sau khi Gustav II Adolf bị giết, Torstensson đã đánh bại các kẻ thù của Thụy Điển, mở rộng biên giới và thế lực của đế quốc này.

Người Ý gọi ông là "Ông vua vàng rực" (il re d'oro) do ông có mái tóc vàng hoe và nước da hồng hào. Một quý tộc người Anh, trong bản báo cáo cho Quốc vương Charles I về vị vua - chiến binh anh dũng, đã gọi ông là một vị "Vua Rồng". Nhưng trong nhiều tài liệu của người Âu châu, ông là "Hùng sư của phương Bắc" - con mãnh thú được Thiên Chúa phái xuống trần gian vì công lý. Ngày nay, người ta kỷ niệm ông tại các quảng trường ở thành phố Stockholm, Gothenburg và Sundsvall. Trường Cao đẳng Gustavus Adolphus, ngôi trường Tin Lành ở thành phố St. Peter, Minnesota (Hoa Kỳ), cũng được đặt theo tên vị Quốc vương Thụy Điển.

Tiểu sử

Gustav Adolf chào đời tại kinh đô Stockholm, là con trai trưởng của Công tước Karl nhà Vasa và người vợ thứ, Christina xứ Holstein-Gottorp. Trong thời gian đó, anh họ của Gustav Adolf là Sigismund làm vua xứ Thuỵ Điển và Ba Lan. Công tước Karl - một tín đồ Tin Lành sùng đạo - đã lật đổ vị vua Công giáo khỏi ngai vàng Thuỵ Điển vào năm 1599. Cuộc chiến tranh giữa vua Sigismund và Công tước Karl là một phần của xung đột tôn giáo trước khi cuộc chiến tranh Ba mươi năm bùng nổ, sau đó Karl trở thành quan Nhiếp chính, và lên ngôi vua (Karl IX của Thuỵ Điển) vào năm 1604. Thuở bé, Hoàng tử Gustav đã thể hiện mình là một nhân tài xuất sắc, thuộc làu kinh sử. Hoàng gia Thụy Điển đã mang lại cho ông một nền giáo dục tốt đẹp, với những năm tháng rèn luyện kỹ lưỡng. Trong các môn học, Quân sự là bộ môn mà Gustav vô cùng ưa chuộng; ngoài ra, ông cũng không ngại học hỏi các môn Khoa học của chương trình giáo dục Hoàng gia. Ngoài tiếng mẹ đẻ, Gustav có thể nói tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Hà Lan và tiếng Ba Lan. Tuy ít tuổi nhưng ông cùng vua cha xuất binh ra trận, và giúp vua trong những vấn đề liên quan tới nền quân sự và chính trị đất nước.

Dưới triều Karl IX, thực lực của Vương quốc Thuỵ Điển vẫn còn yếu đuối hơn Vương quốc Đan Mạch láng giềng; song, vị tướng 16 tuổi Gustav Adolf tỏ ra vô cùng quả cảm trong cuộc chiến tranh Kalmar. nhỏ|trái|Hùng sư phương Bắc: Vua Gustav II Adolph trong một bước ngoặt trong trận thắng Breitenfeld (1631), chống Quân đội Đức của Bá tước Tilly.

Sau khi vua cha đột ngột qua đời vào tháng 10 năm đó, Gustav Adolf trở thành người thừa kế Vương vị. Theo đề nghị của các quan Nhiếp chính, những người đã nhận thấy tài trí và sự cứng đầu của vị hoàng tử 16 tuổi, ông chính thức lên ngôi vào tháng 12 năm 1611,

Nhưng thời cơ thuận lợi cho vị tân vương: lúc bấy giờ, Vương quốc Thụy Điển thịnh vượng, chủ nghĩa dân tộc Thụy Điển đang trên đà lớn mạnh.

Tướng quân Thụy Điển

Công cuộc cải cách của ông có những vấn đề rất đáng chú ý: chiến thuật mới của Quân đội Thụy Điển. Trước hết, Gustav II Adolf trở thành ông vua đầu tiên không thi hành chế độ binh dịch lính đánh thuê trên lục địa Âu châu; thay vì đó, ông thi hành một chế độ khác - đó là chế độ lính nghĩa vụ. Ông dùng Luật "chọn một người trong số mười người" để thu thập tất cả những người đàn ông ở độ tuổi 15 - 44 trên khắp Vương quốc Thụy Điển. Nhờ công lao cải tổ và dạy dỗ binh sĩ của ông, Thụy Điển sở hữu đến 36.000 quân thường trực. Không những thế, lực lược pháo binh Thụy Điển của Quốc vương trở nên đáng gờm: họ chủ yếu dùng thứ pháo hỏa dã chiến loại nhẹ. Tân vương Gustav II Adolf, được sự phò tá đắc lực của de la Gardie, và ngăn chặn những cuộc tấn công kinh thành Stockholm theo đường bộ từ phía Tây và phía Nam, và theo đường biển từ phía Đông. Đây là chiến thắng đầu tiên trong triều đại ông. Vào năm 1613, cuộc chiến tranh Kalmar kết thúc: Nhờ sự đàm phán của vua Anh là James I, hai bên ký kết Hiệp định Knäred: ông phải cống cho vua Đan Mạch một khoản bồi thường lớn lao; đổi lại, vua Đan Mạch trả lại cho ông các tỉnh của Đế quốc Thụy Điển trên vùng biển Baltic.

Thụy Điển đánh Nga và Ba Lan

Vào năm 1617, Gustav II Adolf đem 60000 quân và 120 pháo tấn công Đế quốc Nga - một kình địch của Vương quốc Thụy Điển. Quân Nga thất bại thảm hại tại trận quyết chiến ở Bronnitsy và quân Thụy Điển làm chủ tất cả những lãnh thổ bao bọc vịnh Phần Lan. Ngoài ra, giờ đây nước Nga đã bị mất con đường liên lạc với vùng biển Baltic. Quốc vương Thụy Điển ca khúc khải hoàn, ông vui sướng phát ngôn trước các binh sĩ:

Vào năm 1621, ông động binh tấn công Liên bang Ba Lan-Litva, chiếm lấy Riga tiêu diệt được hơn 30000 quân Balan-Litva. năm 1626, 100000 quân Thụy Điển đánh gần 400000 quân Ba Lan trong chiến dịch Volchov. Lực lượng Kỵ binh Ba Lan - được người đời xem là "Kỵ binh đệ nhất thiên hạ" - hoàn toàn thất bại. Với chiến thắng này, toàn cõi Âu châu phải sửng sốt trước sức mạnh của Đế quốc Thụy Điển. Không lâu sau chiến thắng, vua Gustav II Adolf đã chiếm đóng xứ Livonia chỉ trong 2 tháng. Sau khi chiếm được phần lớn Latvia, ông tiến hành chinh phạt vùng Royal Prussia, đánh bại các đạo quân Ba Lan lẻ tẻ phía trước ông và bắt sống khoảng 12000 tù binh. Vào ngày 17 tháng 1 năm 1626, 50000 quân Thụy Điển đánh tan tác quân 70000 quân Ba Lan được trang bị 200 khẩu đại bác trong khu rừng Wallhof. Bước sang năm sau (1627), ông lại tấn công vùng Danzig. Từ ngày 17 đến ngày 18 tháng 8 năm đó, trong một trận chiến tại Dirshau, ông bị thương nặng ở cổ những đã thắng trận. Đây là một trong những lần ông chiến đấu quả cảm nhưng khinh địch, và chiến thắng Dirshau cũng không phải là lần cuối cùng: ông súy nữa thì bị bắt sống trong trận chiến Stuhm vào ngày 17 tháng 6 năm 1629. Ông từng nói:

Tài quân sự của ông đã gây ấn tượng cho Thủ tướng Pháp là Hồng y Richelieu: năm 1629, Hồng y Richelieu, Thụy Điển và Ba Lan tiến hành đàm phán, ký kết Hiệp định Altmark. Cuối cùng thì vua Sigismund III cũng từ bỏ tham vọng về ngai vàng Thụy Điển, khiến cho nhà vua Thụy Điển có thể an toàn tham gia chiến tranh Ba mươi năm. Và, thất bại thảm hại của vua Christian IV đã kết thúc giai đoạn Vương quốc Đan Mạch can thiệp cuộc nội chiến ở Đức, và Vương quốc Thụy Điển thế chỗ cho Đan Mạch.

Tiêu diệt Bá tước Tilly và tử trận

Sau chiến thắng vang dội tại Breitenfeld, ông và quân sĩ tiến công nước Áo - vốn là nơi đóng đô của triều đại Habsburg - theo đường sông Danube. Ông đã ép Hoàng đế La Mã Thần thánh phải xưng danh chư thần của Đế quốc Thụy Điển.

Sau trận thắng, quân Thụy Điển đặt chân lên xứ Bayern, và dự định tiến thẳng đến thành phố Munchen thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh.

Tại Lutzen - một phần đất thuộc Lãnh địa Tuyển hầu tước Sachsen - ông và Von Wallenstein đã chạm trán kịch liệt vào ngày 6 tháng 11 năm 1632. Trong không khí mù mịt của những đám sương mù 76000 quân Thụy Điển cự nhau với 172000 quân Công giáo, hai vị Thống soái lừng danh cứ choảng nhau trong một thời gian không hề ngắn ngủi, nhưng không ai đánh thắng được ai. Vua Gustav II Adolf đích thân xung phong đánh giặc, để khích lệ tinh thần của Quân đội Thụy Điển. Theo sau ông là một lực lượng Kỵ binh đánh nhau khốc liệt với Liên đoàn Công giáo. Không may thay, sự nghiệp ngắn ngủi của thiên tài quân sự chấm dứt tại đây: "Hùng sư của phương Bắc" Gustav II Adolf bị bắn chết, hưởng thọ 38 tuổi.

Phổ hệ

Gia phả ba đời của Gustavus Adolphus

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Gustav II Adolf của Thụy Điển** (9 tháng 12jul (19 tháng 12greg) năm 1594 – 6 tháng 11jul (16 tháng 11greg) năm 1632), còn được biết với cái tên tiếng La Tinh là **Gustavus Adolphus**
**Gustav IV Adolf** hoặc _Gustav IV Adolph_ (1 tháng 11 năm 1778 – 7 tháng 2 năm 1837) là Quốc vương Thụy Điển trị vị từ năm 1792 cho đến khi bị lật đổ vào
**Sofia Wilhelmina của Thụy Điển** (_Sofia Wilhelmina Katarina Maria Lovisa Charlotta Anna_; 21 tháng 5 năm 1801 – 6 tháng 7 năm 1865), là một vương nữ Thụy Điển thuộc Vương tộc Holstein-Gottorp, con gái
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
**Karl X Gustav của Thụy Điển** (sinh ngày 8 tháng 11 năm 1622 – 13 tháng 2 năm 1660) là quốc vương Thụy Điển từ năm 1654-1660. Ông là cháu trai của Karl IX. Vợ
**Karl XIII & II** còn gọi là **Carl**, (7 tháng 10 năm 1748 – 5 tháng 2 năm 1818, là Vua của Thụy Điển (_Karl XIII_) từ năm 1809 và Vua Na Uy (_Karl II_)
**Karl XI Vasa**, còn gọi là **Carl XI**, (24 tháng 12 năm 1655 – 5 tháng 4 năm 1697theo Lịch cũ) là vua nước Thụy Điển từ năm 1660 tới khi qua đời, vào thời
**Karl IX**, còn gọi là **Carl**, **Charles** (; 4 tháng 10 năm 1550 – 30 tháng 10 năm 1611), là Quốc vương Thụy Điển từ năm 1604 cho đến khi băng hà. Ông là con
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
thumb|Huy hiệu của Thụy Điển (với lỗi [[Tincture (huy hiệu)|tinctures) trên một bức tường của Tòa thị chính tại Lützen ở Đức]] Thuật ngữ **Đế quốc Thụy Điển** dùng để chỉ tới **Vương quốc Thụy
**Khẩu hiệu hoàng gia của quốc vương Thụy Điển** là một truyền thống của hoàng gia Thụy Điển bắt nguồn từ những năm đầu thế kỷ 16. Tất cả các vị vua trị vì của
**Viktoria của Baden** (; tên đầy đủ: _Sophie Marie Viktoria_; 7 tháng 8 năm 1862 – 4 tháng 4 năm 1930) là Vương hậu Thụy Điển từ ngày 8 tháng 12 năm 1907 cho đến
**Trận Lutzen** (16 tháng 11 năm 1632) là một trong những trận đánh quan trọng nhất và đẫm máu nhất của Chiến tranh Ba Mươi Năm (1618 - 1648). Mặc dù cả hai bên đều
**Maria Eleonora xứ Brandenburg** (11 tháng 11 năm 1599 – 28 tháng 3 năm 1655) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1620 đến năm 1632 với tư cách là vợ của Gustav II Adolf
**Trận Alte Veste** còn được gọi là **Trận Fürth**, **Trận Zirndorf** hay **Trận Nuremberg** là một trận chiến quan trọng trong chiến tranh Ba Mươi Năm, diễn ra vào đầu tháng 9 năm 1632 giữa
**Bá quốc Hessen-Kassel** (tiếng Đức: _Landgrafschaft Hessen-Kassel_; tiếng Anh: _Landgraviate of Hesse-Kassel_) được đánh vần là **Hesse-Cassel** trong suốt thời gian tồn tại của nó, là một nhà nước trong Đế chế La Mã Thần
**Friederike xứ Baden** (tên đầy đủ: _Friederike Dorothea Wilhelmine_; 12 tháng 3 năm 1781 – 25 tháng 9 năm 1826) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1797 đến 1809 với tư cách là phối
**Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (tiếng Đức: _Ernst II. von Sachsen-Coburg und Gotha_; tiếng Tây Ban Nha: _Ernesto II of Sajona-Coburgo y Gotha_; tiếng Anh: _Ernest II of Saxe-Coburg and Gotha_; tên đầy đủ:
**Augusta của Đại Anh** (tiếng Anh: _Augusta Frederica of Great Britain_; 31 tháng 7 năm 1737 – 23 tháng 3 năm 1813) là một công chúa Anh, cháu gái của vua George II và là
**Công quốc Sachsen-Weimar** (tiếng Đức: _Herzogtum Sachsen-Weimar_) là một trong những nhà nước của Các công quốc Ernestine do nhánh Ernestine của triều đại Wettin nắm giữ ở bang Thuringia, Đức ngày nay, vì thế
**Louise Alexandra Marie Irene Mountbatten** (khai sinh **Louise xứ Battenberg**; 13 tháng 7, 1889 – 7 tháng 3, 1965) là Vương hậu Thụy Điển từ ngày 29 tháng 10 năm 1950 đến khi mất với
thumb|Cấp hiệu cầu vai _Brigadier general_ [[Lục quân Hoa Kỳ.]] thumb|Cấp hiệu cầu vai _Brigadier_ [[Lục quân Anh.]] **Chuẩn tướng** (tiếng Anh: _Brigadier_) là quân hàm sĩ quan cao cấp trong quân đội của một
**Quân hàm** là hệ thống cấp bậc trong một quân đội. Ở một số quốc gia, hệ thống cấp bậc này còn được áp dụng trong ngành cảnh sát hoặc một số tổ chức dân
_Hip hip hurra!_ Tranh vẽ [[Người Đan Mạch chúc rượu]] **Lời chúc rượu** (tiếng Anh: _toast_) là những lời nói trước khi chạm cốc và uống rượu trong những dịp lễ, hội, trong những cuộc
nhỏ|Kính hiển vi được người Nhật mô tả trong quyển sách "Những câu chuyện về người Hà Lan" (xuất bản năm 1787). **Rangaku** (trong tiếng Nhật có nghĩa là **Hà Lan học**, hay gọi tắt
**Borås**, một thị trấn thuộc Västra Götaland län (hạt) ở phía tây nam Thụy Điển, nằm bên sông Viskan về phía đông của Gothenburg, được thành lập vào năm 1622 dưới triều đại của vua
phải|[[Martin Luther, tác giả bản thánh ca.]] **Chúa vốn Bức thành Kiên cố** (Đức ngữ _Ein' feste Burg ist unser Gott_) là bài thánh ca nổi tiếng nhất của Martin Luther. Luther viết lời và
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Christine xứ Holstein-Gottorp** (13 tháng 4 năm 1573 – 8 tháng 12 năm 1625) là Vương hậu Thụy Điển với tư cách là người vợ thứ hai của Karl IX của Thụy Điển. Bà giữ
**Władysław IV Vasa** (; ; ; hoặc _Ladislaus IV Vasa_; 9 tháng 6 năm 1595 - 20 tháng 5 năm 1648) là một hoàng tử Ba Lan của dòng họ Vasa. Ông trị vì như
Đây là **danh sách vua Phần Lan** cho đến khi nó trở thành một nước cộng hòa năm 1919; do đó các đời vua Thụy Điển với chức quan Nhiếp chính và Tổng trấn của
**Vương tộc Vasa** hoặc **Wasa** (, , ) là một Vương tộc thuộc thời kỳ cận đại được thành lập vào năm 1523 tại Thụy Điển. Các thành viên của gia tộc là người cai
**Christian III** (12 tháng 8 năm 1503 - 1 tháng 1 năm 1559) là vua của Đan Mạch từ năm 1534 cho đến khi ông qua đời và là vua Na Uy từ năm 1537
**Raoul Wallenberg** (4.8.1912 – 17.7.1947) là doanh nhân, nhà ngoại giao và người theo chủ nghĩa nhân đạo người Thụy Điển. Ông rất nổi tiếng về những nỗ lực thành công để cứu hàng ngàn
**Chiến hạm Vasa** là một chiến hạm có thật trong lịch sử và trường hợp của chiến hạm này được ghi nhận như một case study điển hình của mọi thời đại về việc quản
**Mihai I của România** (tiếng România: _Mihai I al României_ ; 25 tháng 10 năm 1921 – 5 tháng 12 năm 2017) là vị vua cuối cùng của Vương quốc România, trị vì từ ngày
**Vương nữ Benedikte của Đan Mạch, Vương phi xứ Sayn-Wittgenstein-Berleburg**, RE, SKmd, D.Ht. (**Benedikte Astrid Ingeborg Ingrid**, sinh ngày 29 tháng 04 năm 1944), là con thứ của Vua Frederik IX của Đan Mạch và
**Karl Friedrich xứ Baden** (; 22 tháng 11 năm 1728 - 10 tháng 6 năm 1811), là một nhà cai trị thế tục của Đế chế La Mã Thần thánh, từ năm 1771 đến 1803,
nhỏ|Mönchgut (màu đỏ) nhỏ|200x200px| Bưu thiếp lịch sử từ Bãi biển Gôrren, khoảng năm 1890-1900 nhỏ|200x200px| Phong cảnh Mönchgut nhìn từ Granitz Hunting Lodge trên đỉnh một ngọn đồi **Mönchgut** (_Monk's Estates_ trong tiếng Đức)
**Maximilian xứ Baden** (tên đầy đủ: Maximilian Alexander Friedrich Wilhelm) là Thủ tướng cuối cùng của Đế quốc Đức và Vương quốc Phổ. Ông là con của Đại Công tử Wilhelm xứ Baden và Công
**Elizabeth Stuart** (19 tháng 8 năm 159613 tháng 2 năm 1662) là Tuyển hầu phu nhân của Công quốc Pfalz (hay _Palatinate_ trong tiếng Anh) và là Vương hậu của Bohemia trong một thời gian
, khuê danh là , còn gọi là Thân vương phi Chichibu là thành viên của Hoàng gia Nhật Bản. Thân Vương phi là vợ của Dật Phụ cung Thân vương Yasuhito, con trai thứ
**Albert I của Sachsen** (tên đầy đủ: _Friedrich August Albrecht Anton Ferdinand Joseph Karl Maria Baptist Nepomuk Wilhelm Xaver Georg Fidelis_) (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1828 tại Dresden – mất ngày 19 tháng
Từ thời kỳ cổ đại, **Đức** (lúc đó được người La Mã gọi là vùng đất Germania) đã có các bộ lạc người German (tổ tiên trực tiếp của người Đức) chính thức cư ngụ
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
**Wilhelm, Thái tử Đức và Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelm, Kronprinz von Deutschland und Preußen_; tiếng Anh: _Wilhelm, Crown Prince of Germany and Prussia_) (6 tháng 5 năm 1882 - 20 tháng 7 năm 1951) là
**Đại công quốc Phần Lan**, tên chính thức và cũng được gọi là **Đại Thân vương quốc Phần Lan**, là tiền thân của Phần Lan hiện đại. Nó tồn tại từ năm 1809 đến năm
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
**Sa quốc Nga** ( hay **Nước Nga Sa hoàng**, ) hay nó có một tên gọi khác là **Sa quốc Muscovy** là giai đoạn trung ương tập quyền hóa trong lịch sử Nga, bắt đầu