✨Gustav II Adolf của Thụy Điển
Gustav II Adolf của Thụy Điển (9 tháng 12jul (19 tháng 12greg) năm 1594 – 6 tháng 11jul (16 tháng 11greg) năm 1632), còn được biết với cái tên tiếng La Tinh là Gustavus Adolphus (còn viết là Gustave II Adolphe và đọc theo tiếng Việt là Guxtavơ II Ađônphơ). Trong các tư liệu lịch sử, ông còn được gọi là Gustavus, hay Gustavus Đại đế, và Gustav Adolph Đại đế (, một danh hiệu được Quốc hội Thụy Điển chính thức thông qua vào năm 1634), là người sáng lập Đế quốc Thụy Điển (còn gọi là Stormaktstiden "giai đoạn liệt cường") trong buổi đầu thời đại hoàng kim của Thụy Điển. Ông là vua nước Thụy Điển từ năm 1611 đến khi qua đời năm 1632. Dưới sự lãnh đạo của ông, Thụy Điển là nước có uy thế quân sự trong cuộc chiến tranh Ba mươi năm, góp phần xác định sự cân bằng quyền lực về tôn giáo và chính trị tại châu Âu.
Chiến thắng lừng lẫy nhất của ông là trận đánh Breitenfeld (1631) trước quân Đức. Với bộ máy quân sự xuất sắc, vũ khí tốt, sự đào tạo kỹ lưỡng và lực lượng pháo binh hiệu quả (tất cả đều được hỗ trợ bởi một chính quyền có hiệu lực cao ở hậu phương, luôn đáp ứng nhu cầu của ông), Đại đế Gustav II tự tin đưa ông trở thành một những lãnh đạo tiêu biểu của Âu châu. Tuy nhiên, ông tử trận vào năm 1632. Trong những năm ông lăn lộn trên chiến trường Thủ tướng Axel Oxenstierna (1583 – 1654) điều hành đất nước, thiết lập Tòa án Tối cao mới và trở thành quan Nhiếp chính sau khi ông qua đời.
Dưới triều đại ông, Vương quốc Thụy Điển - vốn chỉ là nước mạnh ở một vùng và tầm thường - vươn lên thành một trong những cường quốc của châu Âu, với một chính phủ xứng đáng làm gương cho các nước thời cận đại. Ông luôn phải đối đầu với những cuộc chiến tranh: Ngày từ năm 1617 (khi 17 tuổi), ông đã thống lĩnh Quân đội Thụy Điển đánh nhau với một vài nước láng giềng, đến khi năm 1632 ông tử trận trong lúc tiến hành tấn công đối phương. Chỉ trong vòng vài năm, Thụy Điển trở thành quốc gia lớn nhất lục địa châu Âu, chỉ sau nước Nga và Tây Ban Nha. Quân Thụy Điển cũng đánh đuổi quân Đan Mạch khỏi miền Bắc Thụy Điển và đây là lần đầu tiên quốc gia này hùng mạnh hơn Đan Mạch., hoặc là một "vị Thống soái vĩ đại đầu tiên". Dưới trướng ông, nước Thụy Điển và phái Kháng Cách có nhiều vị tướng xuất sắc, chẳng hạn như Lennart Torstensson. Nhiều năm sau khi Gustav II Adolf bị giết, Torstensson đã đánh bại các kẻ thù của Thụy Điển, mở rộng biên giới và thế lực của đế quốc này.
Người Ý gọi ông là "Ông vua vàng rực" (il re d'oro) do ông có mái tóc vàng hoe và nước da hồng hào. Một quý tộc người Anh, trong bản báo cáo cho Quốc vương Charles I về vị vua - chiến binh anh dũng, đã gọi ông là một vị "Vua Rồng". Nhưng trong nhiều tài liệu của người Âu châu, ông là "Hùng sư của phương Bắc" - con mãnh thú được Thiên Chúa phái xuống trần gian vì công lý. Ngày nay, người ta kỷ niệm ông tại các quảng trường ở thành phố Stockholm, Gothenburg và Sundsvall. Trường Cao đẳng Gustavus Adolphus, ngôi trường Tin Lành ở thành phố St. Peter, Minnesota (Hoa Kỳ), cũng được đặt theo tên vị Quốc vương Thụy Điển.
Tiểu sử
Gustav Adolf chào đời tại kinh đô Stockholm, là con trai trưởng của Công tước Karl nhà Vasa và người vợ thứ, Christina xứ Holstein-Gottorp. Trong thời gian đó, anh họ của Gustav Adolf là Sigismund làm vua xứ Thuỵ Điển và Ba Lan. Công tước Karl - một tín đồ Tin Lành sùng đạo - đã lật đổ vị vua Công giáo khỏi ngai vàng Thuỵ Điển vào năm 1599. Cuộc chiến tranh giữa vua Sigismund và Công tước Karl là một phần của xung đột tôn giáo trước khi cuộc chiến tranh Ba mươi năm bùng nổ, sau đó Karl trở thành quan Nhiếp chính, và lên ngôi vua (Karl IX của Thuỵ Điển) vào năm 1604. Thuở bé, Hoàng tử Gustav đã thể hiện mình là một nhân tài xuất sắc, thuộc làu kinh sử. Hoàng gia Thụy Điển đã mang lại cho ông một nền giáo dục tốt đẹp, với những năm tháng rèn luyện kỹ lưỡng. Trong các môn học, Quân sự là bộ môn mà Gustav vô cùng ưa chuộng; ngoài ra, ông cũng không ngại học hỏi các môn Khoa học của chương trình giáo dục Hoàng gia. Ngoài tiếng mẹ đẻ, Gustav có thể nói tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Hà Lan và tiếng Ba Lan. Tuy ít tuổi nhưng ông cùng vua cha xuất binh ra trận, và giúp vua trong những vấn đề liên quan tới nền quân sự và chính trị đất nước.
Dưới triều Karl IX, thực lực của Vương quốc Thuỵ Điển vẫn còn yếu đuối hơn Vương quốc Đan Mạch láng giềng; song, vị tướng 16 tuổi Gustav Adolf tỏ ra vô cùng quả cảm trong cuộc chiến tranh Kalmar. nhỏ|trái|Hùng sư phương Bắc: Vua Gustav II Adolph trong một bước ngoặt trong trận thắng Breitenfeld (1631), chống Quân đội Đức của Bá tước Tilly.
Sau khi vua cha đột ngột qua đời vào tháng 10 năm đó, Gustav Adolf trở thành người thừa kế Vương vị. Theo đề nghị của các quan Nhiếp chính, những người đã nhận thấy tài trí và sự cứng đầu của vị hoàng tử 16 tuổi, ông chính thức lên ngôi vào tháng 12 năm 1611,
Nhưng thời cơ thuận lợi cho vị tân vương: lúc bấy giờ, Vương quốc Thụy Điển thịnh vượng, chủ nghĩa dân tộc Thụy Điển đang trên đà lớn mạnh.
Tướng quân Thụy Điển
Công cuộc cải cách của ông có những vấn đề rất đáng chú ý: chiến thuật mới của Quân đội Thụy Điển. Trước hết, Gustav II Adolf trở thành ông vua đầu tiên không thi hành chế độ binh dịch lính đánh thuê trên lục địa Âu châu; thay vì đó, ông thi hành một chế độ khác - đó là chế độ lính nghĩa vụ. Ông dùng Luật "chọn một người trong số mười người" để thu thập tất cả những người đàn ông ở độ tuổi 15 - 44 trên khắp Vương quốc Thụy Điển. Nhờ công lao cải tổ và dạy dỗ binh sĩ của ông, Thụy Điển sở hữu đến 36.000 quân thường trực. Không những thế, lực lược pháo binh Thụy Điển của Quốc vương trở nên đáng gờm: họ chủ yếu dùng thứ pháo hỏa dã chiến loại nhẹ. Tân vương Gustav II Adolf, được sự phò tá đắc lực của de la Gardie, và ngăn chặn những cuộc tấn công kinh thành Stockholm theo đường bộ từ phía Tây và phía Nam, và theo đường biển từ phía Đông. Đây là chiến thắng đầu tiên trong triều đại ông. Vào năm 1613, cuộc chiến tranh Kalmar kết thúc: Nhờ sự đàm phán của vua Anh là James I, hai bên ký kết Hiệp định Knäred: ông phải cống cho vua Đan Mạch một khoản bồi thường lớn lao; đổi lại, vua Đan Mạch trả lại cho ông các tỉnh của Đế quốc Thụy Điển trên vùng biển Baltic.
Thụy Điển đánh Nga và Ba Lan
Vào năm 1617, Gustav II Adolf đem 60000 quân và 120 pháo tấn công Đế quốc Nga - một kình địch của Vương quốc Thụy Điển. Quân Nga thất bại thảm hại tại trận quyết chiến ở Bronnitsy và quân Thụy Điển làm chủ tất cả những lãnh thổ bao bọc vịnh Phần Lan. Ngoài ra, giờ đây nước Nga đã bị mất con đường liên lạc với vùng biển Baltic. Quốc vương Thụy Điển ca khúc khải hoàn, ông vui sướng phát ngôn trước các binh sĩ:
Vào năm 1621, ông động binh tấn công Liên bang Ba Lan-Litva, chiếm lấy Riga tiêu diệt được hơn 30000 quân Balan-Litva. năm 1626, 100000 quân Thụy Điển đánh gần 400000 quân Ba Lan trong chiến dịch Volchov. Lực lượng Kỵ binh Ba Lan - được người đời xem là "Kỵ binh đệ nhất thiên hạ" - hoàn toàn thất bại. Với chiến thắng này, toàn cõi Âu châu phải sửng sốt trước sức mạnh của Đế quốc Thụy Điển. Không lâu sau chiến thắng, vua Gustav II Adolf đã chiếm đóng xứ Livonia chỉ trong 2 tháng. Sau khi chiếm được phần lớn Latvia, ông tiến hành chinh phạt vùng Royal Prussia, đánh bại các đạo quân Ba Lan lẻ tẻ phía trước ông và bắt sống khoảng 12000 tù binh. Vào ngày 17 tháng 1 năm 1626, 50000 quân Thụy Điển đánh tan tác quân 70000 quân Ba Lan được trang bị 200 khẩu đại bác trong khu rừng Wallhof. Bước sang năm sau (1627), ông lại tấn công vùng Danzig. Từ ngày 17 đến ngày 18 tháng 8 năm đó, trong một trận chiến tại Dirshau, ông bị thương nặng ở cổ những đã thắng trận. Đây là một trong những lần ông chiến đấu quả cảm nhưng khinh địch, và chiến thắng Dirshau cũng không phải là lần cuối cùng: ông súy nữa thì bị bắt sống trong trận chiến Stuhm vào ngày 17 tháng 6 năm 1629. Ông từng nói:
Tài quân sự của ông đã gây ấn tượng cho Thủ tướng Pháp là Hồng y Richelieu: năm 1629, Hồng y Richelieu, Thụy Điển và Ba Lan tiến hành đàm phán, ký kết Hiệp định Altmark. Cuối cùng thì vua Sigismund III cũng từ bỏ tham vọng về ngai vàng Thụy Điển, khiến cho nhà vua Thụy Điển có thể an toàn tham gia chiến tranh Ba mươi năm. Và, thất bại thảm hại của vua Christian IV đã kết thúc giai đoạn Vương quốc Đan Mạch can thiệp cuộc nội chiến ở Đức, và Vương quốc Thụy Điển thế chỗ cho Đan Mạch.
Tiêu diệt Bá tước Tilly và tử trận
Sau chiến thắng vang dội tại Breitenfeld, ông và quân sĩ tiến công nước Áo - vốn là nơi đóng đô của triều đại Habsburg - theo đường sông Danube. Ông đã ép Hoàng đế La Mã Thần thánh phải xưng danh chư thần của Đế quốc Thụy Điển.
Sau trận thắng, quân Thụy Điển đặt chân lên xứ Bayern, và dự định tiến thẳng đến thành phố Munchen thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh.
Tại Lutzen - một phần đất thuộc Lãnh địa Tuyển hầu tước Sachsen - ông và Von Wallenstein đã chạm trán kịch liệt vào ngày 6 tháng 11 năm 1632. Trong không khí mù mịt của những đám sương mù 76000 quân Thụy Điển cự nhau với 172000 quân Công giáo, hai vị Thống soái lừng danh cứ choảng nhau trong một thời gian không hề ngắn ngủi, nhưng không ai đánh thắng được ai. Vua Gustav II Adolf đích thân xung phong đánh giặc, để khích lệ tinh thần của Quân đội Thụy Điển. Theo sau ông là một lực lượng Kỵ binh đánh nhau khốc liệt với Liên đoàn Công giáo. Không may thay, sự nghiệp ngắn ngủi của thiên tài quân sự chấm dứt tại đây: "Hùng sư của phương Bắc" Gustav II Adolf bị bắn chết, hưởng thọ 38 tuổi.
Phổ hệ
Gia phả ba đời của Gustavus Adolphus