Thực dân Courland (tiếng Latvia: Kurzemes kolonijas) là nỗ lực mở rộng chủ nghĩa thực dân ra bên ngoài chính quốc của Công quốc Courland và Semigallia (tiếng Latvia: Kurzemes un Zemgales hercogiste). Từ năm 1637, thực dân từ công quốc này đã xây dựng các thuộc địa ở khu vực cửa sông Gambia (Tây Phi) và đảo Tobago (khu vực Trung Mỹ). Do thiếu nguồn lực, việc mở rộng đã chấm dứt vào năm 1690.
Courland nằm ở vùng Baltic, có dân số chỉ 200.000 người, chủ yếu là người gốc Latvia, Đức và Scandinavia. Công quốc này là một chư hầu của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Dưới thời công tước Jacob (cai trị từ 1642 đến 1682), một người gốc Đức, Courland đã thành lập một trong những hạm đội buôn bán lớn nhất ở châu Âu, với các cảng chính ở Windau (Ventspils ngày nay), và Libau (Liepāja ngày nay). Sau những chuyến du hành tới Tây Âu, Công tước Jacob đã trở thành người đề xướng hăng hái chủ nghĩa trọng thương. Cơ khí và đóng tàu trở nên phát triển mạnh mẽ dưới quyền công tước. Quan hệ thương mại được thành lập không chỉ với các nước lân cận, mà còn với Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha và các nước khác.
Bối cảnh
Vào thế kỷ 17, các nước Anh, Pháp và Hà Lan đã tham gia vào việc thiết lập thuộc địa hải ngoại, nối tiếp theo sau các nước trước đó là Venice, Genoa, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Thương mại từ thuộc địa ở hải ngoại được coi là cách nhanh nhất để đạt được sự giàu có.
Vào năm 1637, tàu Friedrich với 212 người Courland đã đến định cư trên đảo Tobago, họ bị quân Tây Ban Nha xóa sổ. Một cuộc đổ bộ khác tiến hành vào năm 1639 nhưng cũng với số phận tương tự. Năm 1642, 2 tàu khác mang 300 người Courland đến đây. Vào thời điểm này, liên minh Anh-Hà Lan thành lập để chống Tây Ban Nha, người Hà Lan chiếm đảo Tobago và chấp nhận hỗ trợ người Courland để họ có thể trụ lại được trong vòng vây phong tỏa của Tây Ban Nha.
Jacob là một chính trị gia tài năng, một người có đầu óc trọng thương, thiết lập quan hệ ngoại giao không chỉ với các nước láng giềng, mà còn với Anh, Pháp, Hà Lan và Bồ Đào Nha. Sau khi trở thành Công tước năm 1642, Jacob đầu tư phát triển ngành thủ công nghiệp và thương mại ở hải ngoại cho chính mình. Kể từ năm 1638 cho đến 1682, nhà máy đóng tàu Ventspils đã đóng 44 tàu chiến và 79 tàu buôn. Courland xây dựng 15 nhà máy luyện sắt ("dzelzsāmuri") chế biến quặng. Courland đầu tư 10 xưởng đúc súng, 5 xưởng thuốc súng, 10 xưởng làm đồ thủy tinh ("Glazskunis") 10 xưởng dệt, 6 nhà chưng cất rượu... Thương thuyền Courland duy trì thương mại hàng hải không chỉ với các cảng châu Âu mà còn với châu Phi, châu Mỹ và Ấn Độ mà từ đó hàng hóa thuộc địa được đưa đến châu Âu. Cho đến năm 1651, công tước Jacob quyết định tạo lập thuộc địa ở hải ngoại. Kế hoạch đầy tham vọng của Jacob được ghi lại trong một lá thư gửi đến Đức Giáo hoàng Innocent X vào ngày 24 tháng 8 năm 1651, trong đó ông yêu cầu hỗ trợ 3-4 triệu thalers kinh phí cho cuộc thám hiểm tới bán cầu phía Nam, với sự tham gia của 40 tàu với 24.000 người.
Thuộc địa ở châu Phi
thumb|Khu định cư Courland ở châu Phi
Năm 1651, Jacob quyết định lập thuộc địa đầu tiên ở Tây Phi, đã chỉ thị cho Heinrich Fokam dẫn đầu đoàn thám hiểm đến đó. Tháng 9 năm đó, một tàu (tên là "Cá voi") với 20 khẩu pháo khởi hành. Vài tháng sau, nó được theo sau bởi một tàu khác. Ngày 25 tháng 10, "Cá voi" đến cửa sông Gambia và sau khi đàm phán với người cai trị địa phương, họ chiếm một hòn đảo trên sông Kumba người Bồ Đào Nha đã gọi là đảo St. Andrew, họ xây 1 ngôi làng tên Džilifrijas (Jillifree) trên bờ phía bắc của con sông. Một khu định cư tên Bayon được lập ở cửa sông Gambia, hiện là thủ đô của Gambia - Banjul. Trong tất cả những nơi này, hoạt động thương mại được tiến hành, riêng đảo Andrew họ lập pháo đài, quyền hành được giao cho thống đốc Gambia Heinrich Fox. Năm 1654 hoặc 1655, Otto (Otto Stiel) được giao quyền bảo vệ và giám sát thương mại cho tất cả các điểm thuộc địa này.
Từ 1651-1654, ít nhất 12 tàu Courland đến Gambia, có cả thương thuyền của người Anh, Bồ Đào Nha và Hà Lan đến đây. Gambia nhập cảng từ Courland sắt, vải, vodka, muối ăn, sản phẩm kim loại, thủy tinh và hổ phách, hàng được sản xuất không chỉ ở Courland, mà còn ở Ba Lan và các nhà máy của Lithuania. Hàng hóa Tây Phi được xuất khẩu từ Gambia đến gồm: vàng, ngà voi, sáp, da, hạt tiêu, dầu cọ và nô lệ bị bắt bởi các cuộc chiến tranh bộ tộc địa phương
Các thống đốc ở Gambia
1651-1654 /1655: Heinrich FOKS (Heinrich Fock)
1654/1655-1661: Oto (Otto Stiel)
Thuộc địa ở châu Mỹ
thumb|Khu định cư Courland ở châu Mỹ
Đồng thời với việc lập các thuộc địa ở Gambia, công tước Jacob tham gia vào một hợp đồng với công ty Anh Company of Providence đầu tư khai thác thuốc lá trên đảo Tobago (vùng biển Caribbean). Năm 1654, tàu "Das Wappen der Herzogin von Kurland" với 40 khẩu pháo do thuyền trưởng Viluma Molensa (hoặc Willem Mollens) thả neo gần bờ biển phía tây của đảo, họ xây dựng cảng James Fort. Hạm đoàn, 25 sĩ quan, 124 binh sĩ và 80 gia đình Courland đến đảo. Họ xây dựng nhà thờ Lutheran đầu tiên, vào năm 1657 có thêm 120 thực dân Courland đến đảo. Hòn đảo được mệnh danh là "Jaunkurzemi" (Neukurland) cung cấp thuốc lá, mía và cà phê từ các đồn điền. Các cảng cũng được sử dụng để buôn bán với các thuộc địa của người Nam và Trung Mỹ gốc Tây Ban Nha. Từ các thuộc địa này họ chuyển sang châu Âu thuốc lá, hạt tiêu, quế và gừng, đường và gạo.
Danh sách Thống đốc
1642-1643 Edward Marshall (Edward Marshall)
1643-1650 Cornelius Karuna (Cornelius Caroon)
1654-1656 Adrian Lampsijs (Adrien Lampsius)
1656-1659 Hubert de BEVERĪNA (Hubert de Beveren)
*1660-1689 Cornelius Lampsijs (Cornelius Lampsius) hoặc Lampsīns
Mất thuộc địa
Trong Chiến tranh phương Bắc lần thứ hai vào mùa thu năm 1658, quân đội Thụy Điển xâm lược Courland và bắt Công tước Jacob, giam giữ ông vào năm 1660. Trong thời gian này, cả hai thuộc địa đã bị chiếm bởi Công ty Đông Ấn Hà Lan vào năm 1659, một phần của hạm đội thương mại và các khu sản xuất đã bị phá hủy. Thống đốc Gambia Otto Still, đã từ chối chuyển pháo đài của Jacob cho người Hà Lan. Vào đầu năm 1660, hải tặc Thụy Điển chiếm Pháo đài Jekabs, một lần nữa, nó được bán cho người Hà Lan sau khi Courland được giải phóng.
Chiến tranh phương Bắc kết thúc với Hiệp ước Hòa bình Oxide, Công tước Jacob ngay lập tức bắt đầu xây dựng lại công quốc. Ông đàm phán với người Hà Lan để xây dựng lại các thuộc địa. Thống đốc Otto Still quay trở lại cửa sông Gambia. Tuy nhiên, người Hà Lan từ chối giao cho ông. Tuy nhiên, vào ngày 19 tháng 3 năm 1661, các thuộc địa Gambia, sau vài ngày vây hãm, đã bị quân Anh dưới sự lãnh đạo của Robert Holmes chiếm. Theo kết quả của các cuộc đàm phán ngoại giao, vào ngày 17 tháng 11 năm 1664, Công tước Jacob đã ký một thỏa thuận với vua Charles II của Anh về sự trở lại của Courland Gambia. Sau cái chết của Jacob năm 1682, cha ông, Friedrich Kazimier, trở thành nhà độc tài, thành quả của Jacob đã sụp đổ trong triều đại của cha ông. Ông ta sống một cuộc sống xa xỉ, do thiếu tiền, ông đã bán Tobago cho Anh năm 1690.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thực dân Courland** (_tiếng Latvia_: **Kurzemes kolonijas**) là nỗ lực mở rộng chủ nghĩa thực dân ra bên ngoài chính quốc của Công quốc Courland và Semigallia (_tiếng Latvia_: Kurzemes un Zemgales hercogiste). Từ năm
nhỏ|phải| [[Hernando Cortés kẻ chinh phục, người mở đường cho thực dân châu Âu chiếm châu Mỹ]] Người châu Âu đã bắt đầu thực dân hóa châu Mỹ kể từ năm 1492. Tuy nhiên, di
**Đế quốc thuộc địa** là một tập hợp các quốc gia hoặc một phần lãnh thổ các quốc gia (gọi là thuộc địa) bị xâm chiếm, sở hữu và khai thác bởi một nước đế
thumb|[[David Hurley và Patsy Reddy, lần lượt là toàn quyền của Úc và New Zealand, với vợ hoặc chồng của họ, năm 2021]] **Tổng đốc** hay **Toàn quyền** (chữ Hán: 總督; tiếng Anh: _Governor-general_; tiếng
**Gambia** (phiên âm tiếng Việt: **Găm-bi-a**), quốc hiệu là **Cộng hòa Gambia** (tiếng Anh: _Republic of The Gambia_) là một quốc gia tại Tây Phi, được vây quanh bởi Sénégal với một đường bờ biển
**Chiến dịch Ý** là chiến dịch tấn công dài và oanh liệt nhất do khối Đồng Minh phương Tây thực hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch kéo dài từ ngày 10
**Trinidad** (tiếng Tây Ban Nha: **Trinity**) là hòn đảo chính đông dân và lớn nhất của đảo quốc Trinidad và Tobago. Đây là hòn đảo cực nam của Caribe và nằm cách từ bờ biển
**Kurzeme** (; ; ; Tiếng Đức và ; / ; ; ; ; ; ; ) là một trong những vùng văn hóa lịch sử Latvia. Các vùng Zemgale và Sēlija đôi khi được coi
**Anna Ioannovna** (tiếng Nga: Анна Иоанновна; 7 tháng 2 [lịch cũ 28 tháng 1] năm 1693 – 28 tháng 10 [lịch cũ 17 tháng 10] năm 1740), cũng được Nga hóa là **Anna Ivanovna** và
**Aizpute** là một thị trấn ở Latvia với quyền thị trấn từ năm 1378. ## Lịch sử Lãnh thổ của Aizpute hiện đại đã có dân Curon cổ cư trú từ thế kỷ 9. Nhà
right|thumb|Trang thứ ba và trang cuối cùng của văn bản [[đầu hàng vô điều kiện được ký tại Berlin ngày 9 tháng 5 năm 1945]] **Văn kiện Đầu hàng của Đức Quốc xã** (; ;
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**_Giselle_** (tên gốc **_Giselle, ou Les Wilis_** (_Giselle, or The Wilis_)) là một vở ba lê gồm hai màn. Do Jules-Henri Vernoy de Saint-Georges và Théophile Gautier viết kịch bản. Lấy ý tưởng từ bài
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
**Trận Kircholm** (27 tháng 9 năm 1605, hoặc 17 tháng 9 theo lịch các nước Tin Lành) là một trong những trận đánh lớn của chiến tranh Ba Lan-Thụy Điển giai đoạn 1600-1611. Cục diện
**Sư đoàn Panzer số 4** () là một sư đoàn bọc thép trong Quân đội Đức, Wehrmacht, trong Thế chiến II, được thành lập năm 1938. Sư đoàn Panzer số 4 tham gia vào cuộc
**Vladimir Ilyich Lenin** (tên khai sinh: **Vladimir Ilyich Ulyanov**; – 21 tháng 1 năm 1924) là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Nga. Ông là người sáng lập
**Latvia**, quốc hiệu là **Cộng hòa Latvia**, là một quốc gia tại khu vực Baltic ở Bắc Âu. Latvia giáp với Estonia về phía bắc, giáp với Litva về phía nam, giáp với Nga và
**Đại Phái bộ Sứ thần** (tiếng Nga: Великое посольство) là cách sử gia gọi một phái bộ sứ thần đông đảo của nước Nga (gồm hơn 250 người) mà vào năm 1697 Pyotr Đại đế
**Yekaterina II Đại đế** (tiếng Nga: Екатерина II Великая; sinh ngày 2 tháng 5 năm 1729 – mất ngày 6 hoặc 17 tháng 11 năm 1796), đôi khi được viết là **Ekaterina II**, hay **Yekaterina
**Trinidad và Tobago** (), tên chính thức là **Cộng hoà Trinidad và Tobago** () là một quốc gia nằm ở phía nam Biển Caribe, 11 km (7 dặm) ngoài khơi bờ biển Venezuela. Nước này
**Chiến dịch Šiauliai** hay **Chiến dịch Shyaulyay** diễn ra từ ngày 5 tháng 7 đến ngày 29 tháng 8 năm 1944 là một trong các hoạt động quân sự lớn của Hồng quân Liên Xô
**Dòng Huynh đệ Nhà Teuton Thánh Mẫu tại Jerusalem** (tên chính thức tiếng Latinh: _Ordo domus Sanctæ Mariæ Theutonicorum Hierosolymitanorum_; tiếng Đức: _Orden der Brüder vom Deutschen Haus St. Mariens in Jerusalem_), thường gọi tắt
**Chiến dịch Bagration** () là mật danh của **chiến dịch Byelorussia** - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6,
**Karl X Gustav của Thụy Điển** (sinh ngày 8 tháng 11 năm 1622 – 13 tháng 2 năm 1660) là quốc vương Thụy Điển từ năm 1654-1660. Ông là cháu trai của Karl IX. Vợ
**Ivan V Alekseyevich** (tiếng Nga: Иван V Алексеевич, 6 tháng 9 [27 tháng 8 theo lịch cũ] năm 1666 – 8 tháng 2 [29 tháng Giêng theo lịch cũ] năm 1696) là Sa hoàng của
**Marie Thérèse Charlotte của Pháp** (tiếng Pháp: _Marie-Thérèse Charlotte de France_; tiếng Đức: _Marie Thérèse Charlotte von Frankreich_; 19 tháng 12 năm 1778 – 19 tháng 10 năm 1851) là trưởng nữ của Louis XVI
**Zygmunt II Augustus** (, ; 1 tháng 8 1520 - 7 tháng 7 năm 1572) là một vị Vua Ba Lan và Đại vương công Lietuva. Ông là người con trai kế vị độc nhất
**_U-37_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
nhỏ|Ivan VI của Nga với [[Julia von Mengden]] **Ivan VI Antonovich của Nga** (Ioann Antonovich; ; – ) là hoàng đế danh nghĩa của Nga năm 1740-41. Ông lên ngôi khi chỉ mới hai tháng
Đây là danh sách các hòn đảo được phân chia bởi một hoặc nhiều biên giới quốc tế. ## Đảo biển ## Đảo hồ * _De facto_ giữa Nga (Crimea) (tranh chấp) với Ukraine **
**Ivan Vasilyevich Panfilov** (; - 18 tháng 11 năm 1941) là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô và là Anh hùng Liên Xô, được biết đến với vai trò chỉ huy Sư đoàn Súng
**Pavel Alekseyevich Belov** (; 18 tháng 2 năm 1897 - 3 tháng 12 năm 1963) là một Thượng tướng Quân đội Liên Xô và Anh hùng Liên Xô. Ông được xem là một trong những
**Afanasy Pavlantyevich Beloborodov** (tiếng Nga: **Афанасий Павлантьевич Белобородов**; 31 tháng 1 năm 1903 - 1 tháng 9 năm 1990) là một Đại tướng, anh hùng quân đội Liên Xô. ## Thời kỳ đầu Beloborodov sinh
nhỏ|phải|Một phòng tắm hơi làm bằng gỗ ở Phần Lan. **Phòng tắm hơi** () là một căn phòng nhỏ hoặc nhà thiết kế như là một nơi để phục vụ cho con người tắm bằng
**Ruhnu** là một hải đảo của Estonia án ngữ cửa vịnh Riga. ## Lịch sử Các hiện vật khảo cổ học sơi khai về hoạt động của con người ở Ruhnu, được cho là có
**Jan II Kazimierz Waza** (tiếng Đức: Johann II. Kasimir Wasa; tiếng Litva: Jonas Kazimieras Vaza; ngày 22 tháng 3 năm 1609 - 16 tháng 12 năm 1672) là Vua Ba Lan và Công tước của
**Chiếm đóng các nước Baltic** chỉ hành động chiếm đóng quân sự tại các nước Baltic—Estonia, Latvia và Litva— bởi Liên Xô sau thỏa thuận Hiệp ước Xô-Đức ký vào ngày 14 tháng 6 năm
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Fredrik I** (; 17 tháng 4 năm 1676 – 25 tháng 3 năm 1751) là vương phu Thụy Điển từ năm 1718 đến 1720, và vua Thụy Điển từ năm 1720 đến khi qua đời
**Mikhail Ilyich Kazakov** (; - 25 tháng 12 năm 1979) là một Đại tướng của Quân đội Liên Xô và là Anh hùng Liên Xô. Xuất thân từ một người lính bình thường trong giai
**Chiến dịch tấn công Bug** là một trong 3 chiến dịch quân sự do khối Liên minh Trung tâm tổ chức nhằm vào quân đội Nga vào cuối năm 1915 trên Mặt trận phía Đông
phải|nhỏ|472x472px|Tối hậu thông điệp của [[Liên Xô trong trận chiến bao vây Courland.]] **Tối hậu thông điệp** (chữ La-tinh: ultimatum), hoặc gọi **tối hậu thư**, là văn thư ngoại giao ắt phải tiếp nhận yêu
**John William Friso** (tiếng Hà Lan: _Johan Willem Friso_; 14 tháng 8 năm 1687 – 14 tháng 7 năm 1711) trở thành Thân vương xứ Orange (trên danh nghĩa) vào năm 1702. Ông là _Stadtholder_