✨Fredrik I của Thụy Điển

Fredrik I của Thụy Điển

Fredrik I (; 17 tháng 4 năm 1676 – 25 tháng 3 năm 1751) là vương phu Thụy Điển từ năm 1718 đến 1720, và vua Thụy Điển từ năm 1720 đến khi qua đời (với vương hiệu Fredrik I) cũng là Phong địa Bá tước (Landgraf) của Hessen-Kassel từ năm 1730. Fredrik lên ngôi vua sau cái chết của anh rể là vua Karl XII trong Đại chiến Bắc Âu, và người kế vị Karl cũng như là vợ ông là Ulrika Eleonora có nguyện ý thoái vị khi đang làm Nữ vương sau khi nhường phần lớn quyền lực cho Riksdag Estates. Triều đại không có quyền lực của Fredrik và việc không có người thừa kế hợp pháp của riêng mình đã khiến gia đình ông bị loại khỏi danh sách kế vị sau khi chính phủ nghị viện thống trị bởi các chính trị gia Đảng Hat ủng hộ chủ nghĩa phục thù, đã mạo hiểm tham gia vào một cuộc chiến tranh với Nga, kết thúc trong thất bại, và Nữ hoàng Nga Yelizaveta đã đưa Adolf Friedrich xứ Holstein-Gottorp lên ngôi sau khi nhà vua qua đời.

Đầu đời

Fredrik là con trai của Karl I, Phong địa Bá tước xứ Hessen-Kassel và Maria Amalia xứ Courland. Năm 1692, vị công tử trẻ thực hiện chuyến công du đến Cộng hòa Hà Lan, năm 1695 đến Bán đảo Ý và sau đó ông học tập tại Genève. Sau đó, ông theo đuổi sự nghiệp quân sự, chỉ huy quân đội Hessen với tư cách là Trung tướng trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, đứng về phe Hà Lan. Fredrik bị đánh bại năm 1703 trong Trận Speyerbach, nhưng tham gia vào chiến thắng vĩ đại trong Trận Blenheim vào năm sau đó. Năm 1706, Fredrik một lần nữa bị quân Pháp đánh bại trong Trận Castiglione. Tại Trận Malplaquet năm 1709, ông chỉ huy kỵ binh Hà Lan. Năm 1712, khi Bá tước xứ Tilly vắng mặt, Fredrik nắm quyền chỉ huy quân đội Hà Lan. Cả năm 1716 và 1718, ông đều tham gia chiến dịch của Karl XII của Thụy Điển chống lại Na Uy và được bổ nhiệm làm Tổng thống lĩnh Thụy Điển.

Vương thân Thụy Điển

Fredrik kết hôn với người vợ thứ hai là Vương nữ Ulrika Eleonora của Thụy Điển vào năm 1715. Sau đó, ông được các Estates phong tặng danh hiệu Vương tử Thụy Điển, với danh xưng Royal Highness, và là Vương tế trong thời kỳ trị vì của Ulrika Eleonora với tư cách là Nữ vương từ năm 1718 cho đến khi bà thoái vị vào năm 1720. Ông là Vương tế Thụy Điển duy nhất cho đến nay. Fredrik I có nhiều ảnh hưởng trong thời gian trị vì của Ulrika Eleonora. Một số nhà sử học cho rằng viên đạn giết chết anh rể của ông là Karl XII của Thụy Điển vào năm 1718 thực chất là do phụ tá của Fredrik là André Sicre bắn. Karl là một người cai trị độc đoán và khắt khe; một lý do khiến các Estates Thụy Điển bầu Fredrik là vì ông bị coi là khá yếu đuối, và trên thực tế ông đã trở nên như vậy.

Quốc vương Thụy Điển

Fredrik kế vị Ulrika Eleonora và lên ngôi sau khi bà thoái vị để ủng hộ ông vào năm 1720, được bầu bởi các Estates Thụy Điển.

Những thất bại mà Karl XII phải chịu trong Đại chiến Bắc Âu đã chấm dứt vị thế của Thụy Điển là cường quốc hàng đầu châu Âu. Dưới thời Fredrik, điều này phải được chấp nhận. Thụy Điển cũng phải nhượng Estonia, Ingria và Livonia cho Nga theo Hiệp ước Nystad năm 1721.

Fredrik I là một vị vua rất năng động và hoạt bát vào những năm đầu triều đại 31 năm của ông. Nhưng sau khi tầng lớp quý tộc giành lại quyền lực trong các cuộc chiến tranh với Nga, ông không chỉ không có quyền thế mà còn trở nên thờ ơ với các vấn đề của nhà nước. Năm 1723, Fredrik đã cố gắng củng cố quyền lực của hoàng gia, nhưng sau khi thất bại, ông không còn tham gia nhiều vào chính trị. Fredrik thậm chí không ký các văn bản chính thức mà thay vào đó là sử dụng một con dấu có chữ ký của ông. Fredrik dành phần lớn thời gian của mình cho việc săn bắn và các mối tình. Cuộc hôn nhân của Fredrik với Ulrika Eleonora không có con, nhưng ông có một số người con với tình nhân là Hedvig Taube.

Năm 1723, Fredrik đã ban thưởng cho nhà phát minh quân sự Sven Åderman điền trang Halltorps tại đảo Öland vì đã cải thiện tốc độ bắn của súng hỏa mai.

Với tư cách là một vị vua, Fredrik không hoàn toàn được kính trọng. Khi lên ngôi, người ta nói về Fredrik rằng: "Vua Karl chúng ta mới chôn cất, Vua Fredrik chúng ta trao ngôi vị - đột nhiên đồng hồ đã chuyển từ mười hai giờ sang một giờ". Fredrik được nói rằng mặc dù có rất nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển của đất nước diễn ra trong thời gian ông trị vì, nhưng bản thân Fredrik không bao giờ liên quan gì đến chúng. Khi Nhà vua qua đời, Carl Gustaf Tessin đã nói về ông rằng:

Dưới triều đại của Vua Fredrik, khoa học đã phát triển – ngài không bao giờ bận tâm đến việc đọc một cuốn sách. Hoạt động kinh doanh thương mại đã phát triển mạnh mẽ – ngài không bao giờ khuyến khích nó bằng một đồng xu nào. Cung điện Stockholm đã được xây dựng – ngài không bao giờ đủ tò mò để nhìn vào nó.
Fredrik cũng không liên quan gì đến việc thành lập nhà hát nói tiếng Thụy Điển đầu tiên tại Bollhuset trong thời gian trị vì, ngoài ra một trong số ít chính sách quan trọng của ông là cấm đấu tay đôi.

Vào ngày 23 tháng 2 năm 1748, Fredrik I đã thành lập ba huân chương hoàng gia Thụy Điển là Seraphim, Kiếm và Ngôi sao phương Bắc, ba kỵ sĩ đoàn chính của Thụy Điển.

Phong địa Bá tước xứ Hessen-Kassel

Gia đình và con cái

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Frederick_William_von_Hessenstein_&_Carl_Edward_von_Hessenstein_c_1745.jpg|nhỏ|Các con trai ngoài giá thú của Vua Fredrik là Fredrik Vilhelm và Karl Edvard von Hessenstein liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Frederick_I_of_Sweden_grave_2007.jpg|nhỏ|200x200px|Quan tài của Fredrik tại [[Nhà thờ Riddarholmen]] Vào ngày 31 tháng 5 năm 1700, Fredrik kết hôn với người vợ đầu tiên là Luise Dorothea, Vương nữ Phổ (1680–1705), con gái Fredrik I của Phổ (1657–1713) và Elisabeth Henriette xứ Hessen-Kassel (1661–1683). Luise Dorothea qua đời khi sinh con vào tháng 12 năm 1705.

Người vợ thứ hai của Fredrik kết hôn vào năm 1715 là Ulrika Eleonora, Vương nữ Thụy Điển (1688–1741), con gái Karl XI của Thụy Điển (1655–1697) và Ulrikke Eleonore của Đan Mạch (1656–1693). Ulrika bị sảy thai hai lần, một lần vào năm 1715 và một lần nữa vào năm 1718, sau đó không có thêm ghi chép nào về việc bà mang thai.

Fredrik I có ba người con ngoài giá thú với tình nhân Hedvig Taube:

  • Fredrik Vilhelm von Hessenstein (1735–1808).
  • Karl Edvard von Hessenstein (1737–1769).
  • Hedvig Amalia von Hessenstein (1743–1752).

Sau cái chết của Hedvig Taube, tình nhân chính thức của Fredrik là nữ quý tộc Catarina Ebba Horn (1720–1781), người mà ông trao tặng danh hiệu và sự công nhận là Nữ bá tước (từ năm 1745).

Vì vậy, dòng dõi Hessen ở Thụy Điển đã kết thúc với Fredrik và được tiếp nối bởi dòng dõi Holstein-Gottorp. Tại Hessen-Kassel, ông được kế vị bởi em trai là Wilhelm VIII, một vị tướng nổi tiếng.

Tổ tiên

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Fredrik I** (; 17 tháng 4 năm 1676 – 25 tháng 3 năm 1751) là vương phu Thụy Điển từ năm 1718 đến 1720, và vua Thụy Điển từ năm 1720 đến khi qua đời
**Oscar II của Thụy Điển** (ngày 21 tháng 1 năm 1829 - 8 tháng 12 năm 1907), tên lúc rửa tội là **Oscar Fredrik**, là vua của Thụy Điển từ năm 1872 cho đến khi
**Ulrika Eleonora** (tiếng Anh: _Ulrika Eleonora the Younger;_ ; 23 tháng 1 năm 1688 – 24 tháng 11 năm 1741) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1718 đến khi thoái vị vào năm
**Karl XIV Johan**, tên khai sinh: **Jean-Baptiste Bernadotte**, về sau là **Jean-Baptiste Jules Bernadotte** (26 tháng 1 năm 1763 – 8 tháng 3 năm 1844), con trai thứ hai của luật sư Henri nhà Bernadotte,
**Karl XII của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Karl XII av Sverige_; 17 tháng 6 năm 1682 – 30 tháng 11 năm 1718), còn được biết đến dưới tên gọi **Carl XII** (hay **Charles XII**
thumb|Gia huy của Vương tộc Holstein-Gottorp **Nhà Holstein-Gottorp**, là một nhánh của triều đại Oldenburg, cai trị Thụy Điển từ năm 1751 đến 1818 và Na Uy từ 1814 đến 1818, trải qua 4 đời
**Louise của Hà Lan** (; tên đầy đủ: _Wilhelmina Frederika Alexandrine Anna Louise_; 5 tháng 8 năm 1828 – 30 tháng 3 năm 1871), hay còn được gọi là **Lovisa**, là Vương hậu Thụy Điển
**Hiệp hội Nhân chủng học và Địa lý Thụy Điển** (**SSAG**; ) là một cộng đồng khoa học được thành lập vào tháng 12 năm 1877. Cộng đồng nayg được xây dựng sau khi sắp
**Luise Ulrike của Phổ** (; 24 tháng 7 năm 1720 – 16 tháng 7 năm 1782) là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1751 đến năm 1771 với tư cách là phối ngẫu của Adolf
**Pyotr I** (), có sách viết theo tiếng Anh là **Peter I** hay tiếng Pháp là **Pierre I** (sinh ngày: 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất ngày: 8 tháng 2 năm 1725
**Bá quốc Hessen-Kassel** (tiếng Đức: _Landgrafschaft Hessen-Kassel_; tiếng Anh: _Landgraviate of Hesse-Kassel_) được đánh vần là **Hesse-Cassel** trong suốt thời gian tồn tại của nó, là một nhà nước trong Đế chế La Mã Thần
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
**Luise Dorothea Sophie của Phổ** (29 tháng 9 năm 1680 – 23 tháng 12 năm 1705) là con gái của Friedrich I của Phổ, Quốc vương tại Phổ đầu tiên và Phong địa Bá tước
**Nicolas của Thụy Điển, Công tước xứ Ångermanland** (**Nicolas Paul Gustaf Bernadotte**, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2015) là người con thứ 2 và là con trai duy nhất của Vương nữ Madeleine, Nữ
**Anna Amalie của Phổ** (; 9 tháng 11 năm 1723 – 30 tháng 3 năm 1787) là một nhà soạn nhạc và giám tuyển âm nhạc người Đức thời kỳ cận đại, và là Nữ
Đây là **danh sách vua Phần Lan** cho đến khi nó trở thành một nước cộng hòa năm 1919; do đó các đời vua Thụy Điển với chức quan Nhiếp chính và Tổng trấn của
**Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Danmark_) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các
**_The Girl with the Dragon Tattoo_** (tạm dịch: _Cô gái có hình xăm rồng_) là một bộ phim neo-noir thể loại giật gân-tâm lý năm 2011 do David Fincher đạo diễn và Steven Zaillian chắp
**Zara Maria Larsson** (; sinh ngày 15 tháng 12 năm 1997) là một ca sĩ người Thụy Điển. Cô được khán giả trong nước biết đến nhiều sau khi giành chiến thắng tại chương trình
**Đại công quốc Phần Lan**, tên chính thức và cũng được gọi là **Đại Thân vương quốc Phần Lan**, là tiền thân của Phần Lan hiện đại. Nó tồn tại từ năm 1809 đến năm
**Na Uy** (Bokmål: _Norge_; Nynorsk: _Noreg_), tên chính thức là **Vương quốc Na Uy**, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây
nhỏ|Zemlya Frantsa-Iosifa, Ảnh vệ tinh của NASA, tháng 8 năm 2011. **Zemlya Frantsa-Iosifa**, (, _Zemlya Frantsa-Iosifa_) hay **Đất Franz Josef** theo tiếng Anh: Franz Josef Land là một quần đảo nằm tại cực bắc của
Ngày **29 tháng 2** là ngày thứ 60 trong một năm nhuận của lịch Gregory. Còn 306 ngày trong năm. Theo định nghĩa, năm nào có ngày này là một năm nhuận (tiếng Anh: _leap
**_Damage Done_** là album phòng thu thứ sáu của ban nhạc Melodic Death Metal Thụy Điển Dark Tranquillity. Trong album này, ban nhạc trở lại với nhiều phong cách cổ điển hơn trong khi vẫn
**_Hồ thiên nga_** ( ), là vở ballet số 20 của nhà soạn nhạc Pyotr Ilyich Tchaikovsky, sáng tác khoảng năm 1875–1876. Mặc dù ban đầu, vở ballet gặp thất bại, nhưng hiện nay nó
Ngày **8 tháng 10** là ngày thứ 281 (282 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 84 ngày trong năm. ## Sự kiện * 314 – Hoàng đế La Mã Licinius bị đánh bại bởi
Ngày **4 tháng 8** là ngày thứ 216 (217 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 149 ngày trong năm. ## Sự kiện *1914 – Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức xâm lược
**Dark Tranquillity** là một ban nhạc melodic death metal đến từ Gothenburg, Thụy Điển. Họ là một trong những ban nhạc trụ lại lâu nhất theo phong cách Gothenburg metal nguyên bản và là một
nhỏ|_Skadi đi săn trên núi_ (1901) bởi H. L. M. Trong thần thoại Bắc Âu, Skaði (đôi khi viết thành **Skadi**, Skade, hay Skathi), là một người khổng lồ và nữ thần thuộc về tài
**_Hanoi's War: An International History of the War for Peace in Vietnam_** là chuyên khảo sử học của học giả người Mỹ gốc Việt Nguyễn Thị Liên Hằng được xây dựng dựa trên nguồn văn