✨Louise của Hà Lan

Louise của Hà Lan

Louise của Hà Lan (; tên đầy đủ: Wilhelmina Frederika Alexandrine Anna Louise; 5 tháng 8 năm 1828 – 30 tháng 3 năm 1871), hay còn được gọi là Lovisa, là Vương hậu Thụy Điển và Na Uy từ ngày 8 tháng 7 năm 1859 cho đến khi qua đời năm 1871 với tư cách là vợ của Karl XV & IV của Thụy Điển và Na Uy.

Tiểu sử

Vương tôn nữ Louise sinh ngày 5 tháng 8 năm 1828 tại Den Haag, là con gái Vương tử Frederik của Hà Lan, con thứ hai của Willem I của Hà Lan và Wilhelmine của Phổ, và Luise Auguste, con thứ tám của Friedrich Wilhelm III của Phổ và Luise xứ Mecklenburg-Strelitz. Việc học của Louise phần lớn được giao phó cho phó mẫu người Bỉ Victoire Wauthier, và vương tôn nữ được dạy tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Nga và piano.

Năm 1849, Louise được chọn làm vợ phù hợp cho Thái tử Karl, con trai Vua Oscar I của Thụy Điển và Na Uy và Joséphine xứ Leuchtenberg. Cuộc hôn nhân được sắp xếp sau khi các cuộc đàm phán giữa Karl và em họ của vương tôn nữ là Luise của Phổ thất bại. Vua Oscar I muốn đảm bảo mối quan hệ với các vương tộc giữa triều đại Bernadotte mới và các triều đại hoàng gia cũ của châu Âu, và một công chúa Tin lành cũng được coi là một vương hậu cần thiết cho Vương quốc Thụy Điển-Na Uy, cũng theo đạo Tin lành, sau hai vị vương hậu tiền nhiệm theo Công giáo. Louise đáp ứng các tiêu chuẩn này, và một khoản hồi môn lớn được mong đợi từ vương tộc Oranje-Nassau giàu có. Bộ trưởng Nội các L Manderström được cử đến để kiểm tra Louise, và ông đã khéo léo ghi chép trong báo cáo rằng vương tôn nữ có nền giáo dục tuyệt vời và tính cách tốt, nhưng lại trông không hấp dẫn. Vào tháng 8 năm 1849, một cuộc gặp gỡ giữa Louise và Karl được sắp xếp tại Den Haag. Louise đã yêu Karl và cảm thấy bị thu hút ngay lập tức, trong khi ngược lại, Karl lại thất vọng về ngoại hình của vương tôn nữ. Nữ Bá tước Elisabet Piper chỉ định làm hovmästarinna (nữ quan cấp cao) và Ottiliana Sparre cùng với Ulrika Sprengsporten làm hầu nữ của vương hậu. Sau lễ cưới, Vua Oscar I đã đưa Louise tham quan khắp Thụy Điển để giới thiệu con dâu với đất nước.

Mối quan hệ giữa Louise và Karl không mấy hạnh phúc.

Louise được thông cảm và Karl bị coi là đối xử tệ bạc với vợ. Một sự việc diễn ra tại bữa tiệc sinh nhật tại vườn của Louise tại Cung điện Drottningholm năm 1857, khi Thái tử đề nghị nâng ly chúc mừng "tình yêu thầm kín" với sự hiện diện của cả Louise và Josephine Sparre. Điều này đã gây ra một cảnh tượng, và vương tử Oscar đã khiển trách anh trai mình gián tiếp bằng cách yêu cầu vợ là Sophia xứ Nassau nâng ly cùng mình. Cảnh tượng này khiến Louise bật khóc và lên cơn hoảng loạn.

Louise sinh hai người con là vương tôn nữ Lovisa vào năm 1851 và vương tôn Carl Oscar năm 1852. Do những biến chứng phát sinh khi Carl Oscar chào đời, Louise không thể sinh thêm người con nào nữa. Năm 1854, người con trai 2 tuổi Carl Oscar đã qua đời vì bệnh viêm phổi. Vì luật Salic đang chiếm ưu thế tại Thụy Điển vào thời điểm này (được đưa ra theo hiến pháp năm 1809), con gái của Louise không đủ điều kiện để lên ngôi. Karl rất buồn phiền và thất vọng, vì điều này có nghĩa là con cháu của mình sẽ không phải là quốc vương tiếp theo của Thụy Điển, mà người thừa kế sẽ là vương tử Oscar. Louise đề nghị Karl ly hôn để ông có thể tái hôn và có một người thừa kế nam, nhưng Karl đã từ chối lời đề nghị.

Vương hậu

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Carl_XV(III)_&_Louise_coronation_medal_1860.jpg|nhỏ|150x150px|Huy chương đăng quang của Louise và Karl năm 1860 Louise trở thành Vương hậu của Thụy Điển và Na Uy sau khi vua Oscar I qua đời vào ngày 8 tháng 7 năm 1859. Louise là vương hậu đầu tiên của liên minh Thụy Điển-Na Uy được trao vương miện ở cả hai vương quốc, vì Na Uy đã từ chối trao vương miện cho hai vị vương hậu tiền nhiệm do theo Công giáo. Louise được trao vương miện Vương hậu Thụy Điển tại Stockholm vào ngày 3 tháng 5 năm 1860 và Na Uy tại Trondheim vào ngày 5 tháng 8 năm 1860, và bà rất được tôn vinh tại Na Uy trong thời gian ở tại đây.liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Louise_de_Su%C3%A8de_et_de_Norv%C3%A8ge.jpg|nhỏ|240x240px|Vương hậu Louise của Thụy Điển và Na Uy, những năm 1860Louise không có ảnh hưởng đến tình hình nhà nước, và cũng không biểu lộ tham vọng về điều này. Việc Louise không can thiệp vào chính trị được coi là một hình mẫu tốt, và bà được so sánh một cách thiên vị hơn các vương hậu trước đó, chẳng hạn như người tiền nhiệm Joséphine. Quan điểm này được miêu tả trong một cuốn bách khoa toàn thư đương thời từ năm 1864: "Cuối cùng, hai vương quốc có thể vui mừng vì được ban phước khi lại có một Vương hậu, người không tiến hành quyền lực chính phủ bằng suy nghĩ của riêng mình, mà bình tĩnh quan sát quá trình tự nhiên thông qua Nhà vua và thẩm quyền hợp pháp. Được người dân Thụy Điển yêu mến, bà có đủ cơ hội để thực hiện mong muốn cao cả của mình trong công việc từ thiện". Tuy nhiên, Louise không thiếu quan điểm chính trị, khi bà không đồng ý với cuộc cải cách quốc hội năm 1865 và không có chung quan điểm chống Đức với Karl. Louise quan tâm đến âm nhạc và lịch sử, và bà học piano với nhạc sĩ người Thụy Điển Adolf Fredrik Lindblad. Louise còn dịch tác phẩm từ tiếng Anh và tiếng Hà Lan sang tiếng Thụy Điển, và bán chúng cho mục đích từ thiện. Bà và con gái Lovisa là học trò của Nancy Edberg, người tiên phong trong phong trào bơi lội dành cho phụ nữ. Ban đầu, bơi lội không được coi là hoàn toàn phù hợp với phái nữ, nhưng khi vương hậu và con gái Lovisa ủng hộ bằng cách tham gia các lớp học từ năm 1862, bơi lội nhanh chóng trở nên thời thượng và được phụ nữ chấp nhận. Louise đã thuê nữ nha sĩ đầu tiên của Thụy Điển, Rosalie Fougelberg, làm nha sĩ cá nhân vào năm 1867. Trong số những người bạn thân của Louise có Aurore von Haxthausen, người hầu nữ trong suốt thời gian bà trở thành vương hậu, cũng như Nữ Bá tước Stefanie Hamilton, người phục vụ với tư cách là Mistress of the Robes trong giai đoạn từ năm 1859–60, ngoài ra thư từ giữa Louise và Stefanie Hamilton vẫn được lưu giữ. Louise cũng giữ liên lạc với gia đình và phó mẫu cũ qua thư từ.

Vương hậu Louise thích cuộc sống gia đình yên tĩnh và ẩn danh, và thích tránh các nhiệm vụ nghi lễ và đại diện bất cứ khi nào có thể, đôi khi bằng cách giả vờ bị bệnh. Tuy nhiên, Vua Karl không thích xuất hiện mà không có Louise trong các dịp trang trọng và đôi khi buộc bà phải có mặt. Có lần, Karl đã nói với Louise rằng bà sẽ phải tham dự, nếu không: "Những bà già có thể nghĩ rằng có điều gì đó không ổn với nàng!". Ví dụ, vào năm 1866, Karl đã giao Louise việc khai mạc Triển lãm Công nghiệp Tổng hợp Stockholm thay cho ông .

Vua Karl XV thích tiệc tùng và hóa trang, và cuộc sống trong Cung điện Ulriksdal của nhà vua được so sánh với Cung điện Versailles. Trong một số hội nhóm, nó bị coi là làm xấu hổ danh tiếng của chế độ quân chủ, như mục sư Christoffer Bruun đã nói vào năm 1881: "Người ta vẫn rùng mình khi thấy quyền lực tối cao của nhà thờ lại nằm trong tay vị vua suy đồi này, kẻ đã khiến cả đất nước phải bàn tán về cuộc sống trụy lạc của mình." Louise được trao một vai trò quan trọng trong cuộc sống triều đình của Karl với tư cách là vương hậu, và sau khi Thái hậu Désirée, người chiếm giữ Cánh của Vương hậu trong Cung điện Hoàng gia Stockholm, qua đời vào năm 1860, Karl đã trang trí lại cho Louise và làm một sảnh Gương Venetian sang trọng trong phòng tiếp tân, và điều này được bàn tán rất nhiều (sau đó đã bị người kế nhiệm của Karl dỡ bỏ). Triều đình của Louise trong hầu hết thời gian là vương hậu do Wilhelmina Bonde đứng đầu. Louise phải chịu đựng việc chồng ngoại tình và đã cố gắng hết sức để cạnh tranh với các đối thủ và giải trí cho ông, và mẹ chồng Joséphine đã khuyên Louise nên loại bỏ và cho những người hầu nữ kết hôn khi Karl bị thu hút bởi họ. Karl có mối quan hệ với Hanna Styrell từ năm 1860 đến năm 1869 và với Wilhelmine Schröder từ năm 1869 đến khi ông qua đời, ngoại trừ những mối quan hệ tạm thời hơn. Karl rất yêu quý con gái Lovisa, tuy nhiên, Louise lo lắng rằng việc ông đối xử với con gái lại quá giống một người con trai vào thời điểm vai trò giới tính được coi là cực kỳ quan trọng, cho phép con gái mình tự do hơn những gì được coi là phù hợp với một cô gái vào thời điểm này. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Carl_XV_of_Sweden_&_Louise_of_Sweden_graves_2013.jpg|nhỏ|Mộ của Vua Carl và Vương hậu Louise tại [[Nhà thờ Riddarholm.]] Louise có sức khỏe không được tốt. Ít nhất một lần, trong chuyến du thuyền trên hồ Mälaren, Louise bị một cơn (có thể là cơn động kinh theo mô tả đương thời), được giải thích là phản ứng cuồng loạn trước sự thờ ơ của chồng. Triều đình tập trung để che giấu Louise khỏi tầm nhìn của công chúng, và nhà vua nhanh chóng đưa bà xuống dưới boong tàu. Trong sự việc này, có thông tin rằng: "Lovisa có thể ngất xỉu bất cứ lúc nào và liên quan đến điều này, bà có thể bị những cơn đau thần kinh hoặc chuột rút". Năm 1864, trong chuyến thăm triều đình của Josephine Sparre, người tình cũ của Karl, Fritz von Dardel đã ghi chép: "Ban đầu, Vương hậu được cho là cảm thấy lo lắng về chuyến thăm này; vào một buổi tối, Vương hậu gần lên cơn co giật trong phòng bi-a, nhưng họ đã cố gắng che giấu điều này bằng cách tuyên bố rằng cơn đau là do viên thị thần Liljenkrantz gây ra, người được cho là đã vô tình đẩy vương hậu bằng cây sào bi-a của mình..."

Năm 1870, Vương hậu Louise quay trở về Hà Lan để gặp ​​mẹ trên giường bệnh. Khi trở về Stockholm, Karl XV lâm bệnh và Louise đã chăm sóc cho chồng. Vì kiệt sức, Louise mắc phải căn bệnh viêm phổi trong một chuyến đi bằng xe ngựa. Trên giường bệnh, bà đã có những cuộc trò chuyện dài với gia đình, được mô tả là đầy kịch tính, và con gái Lovisa cho rằng: "Giống như mẹ đã phơi bày toàn bộ cuộc đời mình cho chúng tôi". Louise yêu cầu Karl tha thứ cho mọi điều mà bà có thể đã làm ông thất vọng, và Karl đáp lại bằng cách tự trách mình. Sau đó, cả Karl và Thái hậu Joséphine đều ngất xỉu vì quá xúc động. Louise qua đời vào ngày 30 tháng 3 năm 1871 tại Stockholm.

Con cái

Vương nữ Lovisa (31 tháng 10 năm 1851 – 20 tháng 3 năm 1926), trở thành Vương hậu Đan Mạch.

Vương tử Carl Oscar, Công tước xứ Södermanland (14 tháng 12 năm 1852 – 13 tháng 3 năm 1854), qua đời khi còn nhỏ.

Tổ tiên

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Louise của Hà Lan** (; tên đầy đủ: _Wilhelmina Frederika Alexandrine Anna Louise_; 5 tháng 8 năm 1828 – 30 tháng 3 năm 1871), hay còn được gọi là **Lovisa**, là Vương hậu Thụy Điển
**Nữ vương Juliana** (_Juliana Louise Emma Marie Wilhelmina_; 30 tháng 4 năm 1909 – 20 tháng 3 năm 2004) là Nữ vương Hà Lan từ năm 1948 cho đến khi bà thoái vị năm 1980.
**Sophie của Hà Lan** (Wilhelmine Marie Sophie Louise; 8 tháng 4 năm 1824 – 23 tháng 3 năm 1897) là con gái duy nhất của Willem II của Hà Lan và Anna Pavlovna của Nga.
**Laren** là một thị trấn và đô thị trực thuộc tỉnh của Bắc Hà Lan, Hà Lan. Laren nằm trong khu vực Gooi, là thị trấn lâu đời nhất trong khu vực. Đây là một
**Anna Pavlovna của Nga** ( ; ; 18 tháng 1 năm 1795 (lịch cũ: 7 tháng 1) – 1 tháng 3 năm 1865) là Vương hậu Hà Lan với tư cách là vợ của Willem
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
**Louise của Liên hiệp Anh** (tiếng Anh: _Louise of the United Kingdom_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa del Reino Unido_; tiếng Đức: _Louise des Vereinigtes Königreich_; tiếng Pháp: _Louise du Royaume-Uni_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Lovisa của Thụy Điển, hay Lovisa của Thụy Điển và Na Uy** (**_Lovisa Josefina Eugenia_**; tiếng Thụy Điển: _Lovisa av Sverige_; tiếng Đan Mạch: _Louise af Sverige-Norge_; tiếng Anh: _Louise of Sweden_; 31 tháng 10
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Karpniki** là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Mysłakowice, thuộc hạt Jelenia Góra, Lower Silesian Voivodeship, ở phía tây nam Ba Lan. Nó nằm cách khoảng 5 km về phía đông Mysłakowice, 10 km
**Carlos II của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: Carlos II, 6 tháng 11 năm 1661 - 1 tháng 11 năm 1700), còn được gọi là **Kẻ bị bỏ bùa** (tiếng Tây Ban Nha:
**Léopold I của Bỉ** (16 tháng 12 năm 1790 - 10 tháng 12 năm 1865) là Quốc vương đầu tiên của Vương quốc Bỉ, sau khi Bỉ tuyên bố tách khỏi Hà Lan vào ngày
**Johanna Clara Louise Lehzen** (3 tháng 10 năm 1784 - 9 tháng 9 năm 1870), còn được biết đến là **Nữ Nam tước Louise Lehzen**, là một giáo sư và sau đó trở thành bạn
**Charles II của Anh** (29 tháng 5 năm 1630 – 6 tháng 2 năm 1685) là vua của Anh, Scotland, và Ireland. Ông là vua Scotland từ 1649 đến khi bị lật đổ năm 1651, và
**Willem V** (tiếng Hà Lan: _Willem Batavus_; 8 tháng 3 năm 1748 – 9 tháng 4 năm 1806) là Thân vương xứ Oranje và là _Stadtholder_ cuối cùng của Cộng hòa Hà Lan. Khi người
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Hà Lan: _Wilhelmina van Pruisen_; tiếng Anh: _Wilhelmina of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Sophie Wilhelmine_; 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin – 9 tháng
**Léopold II của Bỉ** (tiếng Pháp: _Léopold Louis Philippe Marie Victor_, tiếng Hà Lan: _Leopold Lodewijk Filips Maria Victor_; 9 tháng 4 năm 1835 – 17 tháng 12 năm 1909) là vị vua thứ hai
**Trận Balikpapan lần thứ nhất** diễn ra vào ngày 23-25 tháng 1 năm 1942, ngoài khơi thị trấn sản xuất dầu lớn và cảng Balikpapan, trên đảo Borneo, thuộc Đông Ấn Hà Lan. Sau khi
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà
**Georg V** (tiếng Đức: _Georg Friedrich Alexander Karl Ernst August_; 27 tháng 05 năm 1819 - 12 tháng 06 năm 1878) là vua cuối cùng của Vương quốc Hannover, ông chính là người con duy
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Vương tôn nữ Ingrid Alexandra** (**Ingrid Alexandra av Norge/Noreg**, sinh ngày 21 tháng 1 năm 2004) là con trưởng của Thái tử Haakon và hiện đang đứng thứ hai trong dòng kế vị ngai vàng
**Elisabeth của Bohemia** (ngày 26 tháng 12 năm 1618 - 11 tháng 2 năm 1680), còn được gọi là **Elisabeth của Pfalz,** Công chúa Elisabeth của Công quốc Pfalz, hoặc Công chúa-Tu viện trưởng
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**Friedrich Wilhelm III** hoặc **Friedrich Công Chính** (sinh ngày 3 tháng 8 năm 1770 - mất ngày 7 tháng 6 năm 1840) là vua của Vương quốc Phổ từ năm 1797-1840. Ông trị vì Phổ
**Marie Louise Élisabeth, Mademoiselle d'Orléans** (20 tháng 8 năm 1695 – 21 tháng 7 năm 1719), hay còn được gọi là **Louise Élisabeth, Công tước phu nhân xứ Berry** là Công tước phu nhân xứ
**Henrietta Anne của Anh** (tiếng Pháp: _Henriette-Anne Stuart d'Angleterre_; 16 tháng 6 năm 1644 - 30 tháng 6 năm 1670), biệt danh **Minette**, là một Vương nữ Anh, con gái của Charles I của Anh
**Louise Élisabeth của Pháp** (Marie Louise-Élisabeth; ; ; ; 14 tháng 8 năm 1727 – 6 tháng 12 năm 1759) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_ (_Con gái nước Pháp_). Louise Élisabeth
**Alexandra của Đan Mạch** (Tên đầy đủ: Alexandra Caroline Marie Louise Charlotte Julia; 1 tháng 12 năm 1844 – 20 tháng 11 năm 1925) là Vương hậu Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc
**Maria Carolina của Hai Sicilie, Công tước phu nhân xứ Berry** (Maria Carolina Ferdinanda Luisa; 5 tháng 11 năm 1798 – 16 tháng 4 năm 1870 tại Brunnsee, Steiermark) là vương nữ của Vương quốc
**Louis Philippe I của Pháp** (Ngày 6 tháng 10 năm 1773 – 26 tháng 8 năm 1850) là vua của Pháp từ năm ngày 6 tháng 11 năm 1830 đến ngày 24 tháng 2 năm
**John William Friso** (tiếng Hà Lan: _Johan Willem Friso_; 14 tháng 8 năm 1687 – 14 tháng 7 năm 1711) trở thành Thân vương xứ Orange (trên danh nghĩa) vào năm 1702. Ông là _Stadtholder_
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Felipe IV của Tây Ban Nha** (, ; 8 tháng 4 năm 1605 – 17 tháng 9 năm 1665) là Vua Tây Ban Nha từ năm 1621 đến năm 1665, vương chủ của người Hà
**François I** (tiếng Pháp: François Ier; tiếng Pháp Trung cổ: Francoys; 12 tháng 9 năm 1494 – 31 tháng 3 năm 1547) là Quốc vương Pháp từ năm 1515 cho đến khi qua đời vào
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
nhỏ|upright=1.35|Con người giẫm [[nho để ép nước rồi đem ủ men thành rượu cất trong lọ bảo quản. Hình lấy tại lăng mộ Nakht, Vương triều thứ 18, Thebes, Ai Cập cổ đại]] **Tương tác
**María Teresa của Tây Ban Nha**, **Maria Theresia của Áo** hay **María Teresa của Áo và Borbón** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Austria y Borbón_; tiếng Pháp: _Marie-Thérèse d'Autriche_; tiếng Bồ Đào Nha:
**USS _Burrows _(DE-105)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Cannon_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của
**William IV của Liên hiệp Anh** (William Henry; 21 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 6 năm 1837) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ 26 tháng 6 năm 1830 cho
**Laurent của Bỉ** (tiếng Pháp: **Laurent Benoît Baudouin Marie de Belgique**, tiếng Hà Lan: **Laurens Benedikt Boudewijn Maria van België**, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1963) là con trai thứ 2 và là người
nhỏ|Quyền bầu cử của phụ nữ nhỏ|Poster của Phong trào Phụ nữ Đức, 1914. phải|nhỏ|Phụ nữ ở Anh biểu tình đòi quyền bầu cử năm 1911. nhỏ|Phụ nữ Mỹ đấu tranh cho quyền bầu cử
**Sophie của Pfalz** (thường được gọi là **Sophie của Hannover**; 14 tháng 10 1630 – 8 tháng 6 năm 1714) là Tuyển hầu phu nhân xứ Hannover từ năm 1692 đến 1698. Bà trở thành
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Kristen Schaal** (sinh 1978) là một diễn viên điện ảnh, diễn viên lồng tiếng và diễn viên tấu hài, được biết đến nhiều nhất với vai Louise Belcher trong sô diễn _Bob's Burgers_. Schaal sinh
**Carl XVI Gustaf** (tên thánh: **Carl Gustaf Folke Hubertus**, sinh ngày 30 tháng 4 năm 1946) là vua Thụy Điển từ ngày 15 tháng 9 năm 1973, khi ông của ông là Gustaf VI Adolf
thumb|Victoria của Anh Xuất thân thực sự của Victoria của Anh đã trở thành chủ đề của các cuộc nghiên cứu. Những nghi ngờ về việc này chủ yếu xoay quanh các vấn đề bệnh