✨Willem V xứ Oranje

Willem V xứ Oranje

Willem V (tiếng Hà Lan: Willem Batavus; 8 tháng 3 năm 1748 – 9 tháng 4 năm 1806) là Thân vương xứ Oranje và là Stadtholder cuối cùng của Cộng hòa Hà Lan. Khi người Pháp xâm lược Holland vào năm 1795, Willem V bị buộc phải lưu vong và ông đã không bao giờ có cơ hội quay lại vùng đất này thêm một lần nào nữa cho đến khi qua đời. Ngoài ra, ông còn là người cai trị Thân vương quốc Orange-Nassau cho đến khi qua đời vào năm 1806.

Con trai ông, Thân vương tử Willem đã thừa kế tước vị thân vương xứ Orange-Nassau sau khi ông qua đời và đến năm 1815, trở thành vua đầu tiên của Vương quốc Hà Lan, con cháu của ông vẫn cai trị Hà Lan đến tận ngày nay.

Cuộc sống đầu đời

Willem Batavus sinh ra ở The Hague vào ngày 8 tháng 3 năm 1748, là con trai duy nhất của Willem IV, người mà một năm trước đó đã được phục hồi làm stadtholder của các Tỉnh Thống nhất. Năm 1751, cha của ông qua đời khi ông chỉ mới 3 tuổi, và hội đồng nhiếp chính được thành lập để hỗ trợ vị thân vương nhỏ tuổi cai trị. Các nhiếp chính của ông gồm có:

  • Anne, Vương nữ Vương thất và Vương phi xứ Oranje, mẹ của ông, từ năm 1751 đến khi bà qua đời năm 1759;
  • Marie Louise xứ Hessen-Kassel, bà nội của ông, từ năm 1759 đến khi bà qua đời năm 1765;
  • Công tước Louis Ernest xứ Brunswick-Lüneburg, từ năm 1759 đến năm 1766, và giữ chức vụ cố vấn cơ mật, theo Đạo luật Acte van Consulentschap, cho đến tháng 10 năm 1784;
  • Thân vương nữ Carolina, chị gái của ông (lúc đó đã trưởng thành ở tuổi 22, trong khi ông vẫn còn là trẻ vị thành niên ở tuổi 17), từ năm 1765 đến khi Willem đủ tuổi trị vì vào năm 1766.

Willem được phong làm Hiệp sĩ thứ 568 của Dòng Garter vào năm 1752.

Stadtholder

Willem V đảm nhận vị trí stadtholder và Đại tướng của Quân đội Nhà nước Hà Lan vào năm 1766. Tuy nhiên, ông cho phép Công tước xứ Brunswick duy trì ảnh hưởng lớn đối với chính phủ thông qua Acte van Consulentschap (Đạo luật tham vấn). Vào ngày 4 tháng 10 năm 1767 tại Berlin, Thân vương Willem kết hôn với Vương nữ Wilhelmina của Phổ, con gái của Vua August Wilhelm của Phổ, cháu gái của Friedrich Đại đế và là em họ của George III của Anh. (Bản thân ông là anh họ đời đầu của George III).

Ngay sau khi đến Anh, Thân vương xứ Oranje đã viết một số bức thư (được gọi là Thư Kew) từ nơi ở mới của ông ở Kew cho các thống đốc của các thuộc địa của Hà Lan, hướng dẫn họ bàn giao thuộc địa của họ cho người Anh miễn là Pháp tiếp tục chiếm "mẫu quốc". Chỉ một số ít tuân theo, trong khi những người từ chối làm như vậy trở nên bối rối và mất tinh thần. Hầu như tất cả các thuộc địa của Hà Lan cuối cùng đã bị người Anh chiếm giữ, cuối cùng người Anh đã trả lại phần lớn, nhưng không phải tất cả (Nam Phi và Ceylon), đầu tiên là thông qua Hiệp ước Amiens và sau đó là thông qua Công ước Luân Đôn được ký năm 1814. Nhưng đó là thành công duy nhất của ông, vì quân đội và dân thường mắc bệnh dịch tả vào thời điểm đó không muốn tái lập chế độ cũ. Theo Simon Schama, giọng điệu kiêu ngạo trong tuyên bố của ông, yêu cầu khôi phục lại chế độ thống trị, có thể không hữu ích, theo Simon Schama.

Sau Hiệp ước Amiens năm 1802, trong đó Vương quốc Anh công nhận Cộng hòa Batavia, một Công ước Pháp-Phổ bổ sung ngày 23 tháng 5 năm 1802 tuyên bố rằng Nhà Orange sẽ được nhượng lại vĩnh viễn các lãnh thổ của Dortmund, Tu viện Weingarten, Fulda và Tu viện vương quyền Corvey, xem như là bồi thường cho những quyền lợi đã mất ở Hà Lan, nơi này trở thành Thân vương quốc Nassau-Orange-Fulda. Theo quan điểm của Napoléon, việc nhượng lại này có điều kiện là phải chấm dứt chế độ stadtholder và các chức vụ cha truyền con nối khác của Thân vương xứ Oranje. Tuy nhiên, Willem V không quan tâm đến các thị trấn, vùng lãnh thổ và tu viện bị tịch thu từ những người cai trị khác, bao gồm cả những lựa chọn thay thế như Würzburg và Bamberg, nhưng ông ấy muốn những khoản tiền của ông, gồm có: nợ lương và các khoản trợ cấp tài chính khác kể từ năm 1795, hoặc một khoản tiền gộp là 4 triệu guilder. Bộ trưởng ngoại giao của Cộng hòa Batavia là Maarten van der Goes, sẵn sàng bí mật thuyết phục Staatsbewind của Cộng hòa Batavia cấp khoản bồi thường bổ sung này, nhưng Napoléon đã dừng việc đó lại khi biết được vụ việc.

Người nắm giữ chức vụ stadtholder cuối cùng của Hà Lan, Willem V, chết lưu vong tại cung điện của con gái ông ở Brunswick, nay thuộc Đức. Thi thể của ông được chuyển đến hầm mộ của Hoàng gia Hà Lan ở Nieuwe Kerk vào ngày 29 tháng 4 năm 1958.

Năm 1813, con trai ông, Thân vương Willem VI trở về Hà Lan và tự xưng là vua với vương hiệu Willem I của Hà Lan, do đó trở thành vị vua Hà Lan đầu tiên thuộc Nhà Orange.

Hậu duệ

thumb|Willem V và [[Wilhelmine của Phổ, Thân vương phi xứ Oranje|Wilhelmina với các con của họ Louise, Willem và Frederick]]

Willem V và Vương nữ Wilhelmina của Phổ có với nhau 5 người con:

  • Một người con trai chết ngay sau sinh (23–24 tháng 3 năm 1769).
  • Thân vương nữ Frederika Luise Wilhelmina xứ Orange-Nassau (The Hague, 28 tháng 11 năm 1770 – The Hague, 15 tháng 10 năm 1819), kết hôn tại The Hague vào ngày 14 tháng 10 năm 1790 với Karl xứ Brunswick-Wolfenbüttel (London, 8 tháng 2 năm 1766 – Antoinettenruh, 20 tháng 9 năm 1806 ), con trai của Wilhelm Ferdinand, Công tước xứ Brunswick và Vương nữ Augusta của Đại Anh, không có hậu duệ.
  • Một người con trai chết ngay sau sinh (sinh và mất ngày 6 tháng 8 năm 1771).
  • Willem Frederik, Thân vương tử kế vị xứ Orange-Nassau (The Hague, 25 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 12 năm 1843), người trở thành vị vua đầu tiên của Hà Lan với tước hiệu William I.
  • Thân vương tử Frederik xứ Orange-Nassau (The Hague, 15 tháng 2 năm 1774 – Padua, 6 tháng 1 năm 1799), chưa kết hôn và không có hậu duệ.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Willem V** (tiếng Hà Lan: _Willem Batavus_; 8 tháng 3 năm 1748 – 9 tháng 4 năm 1806) là Thân vương xứ Oranje và là _Stadtholder_ cuối cùng của Cộng hòa Hà Lan. Khi người
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Hà Lan: _Wilhelmina van Pruisen_; tiếng Anh: _Wilhelmina of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Sophie Wilhelmine_; 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin – 9 tháng
nhỏ|Chân dung Anna của Hannover – tranh của Bernardus Accama (năm 1736) **Anne của Đại Anh** (tiếng Anh: _Anne of Great Britain_; tiếng Đức: _Anna von Großbritannien_; ; 2 tháng 11 năm 1709 - 12
**Willem I** (tiếng Hà Lan: _Willem Frederik_; 24 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 12 năm 1843) là vua của Hà Lan, kiêm Đại công tước của Luxembourg từ năm 1815 cho đến khi
**Marie Luise xứ Hessen-Kassel** (7 tháng 2 năm 1688 – 9 tháng 4 năm 1765) là một nhiếp chính Hà Lan, trở thành Thân vương phi xứ Oranje sau khi kết hôn với John William
**Nhà Orange-Nassau** (tiếng Hà Lan: _Huis van Oranje-Nassau_, ), là vương tộc đang trị vì Vương quốc Hà Lan hiện nay. Nó vốn là một chi nhánh của Nhà Nassau, gia tộc sở hữu một
Đại tướng **John Churchill, Công tước thứ 1 xứ Marlborough, Thân vương thứ 1 xứ Mindelheim, Bá tước thứ 1 xứ Nellenburg, Thân vương của Đế quốc La Mã Thần thánh**, KG PC (26 tháng
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Anh: _Wihelmine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Luise Wilhelmine_; 18 tháng 11 năm 1774 – 12 tháng 10 năm 1837) là Vương hậu đầu tiên
Bá tước **Henry III xứ Nassau-Dillenburg-Dietz** (tiếng Đức: _Heinrich III_; tiếng Anh: _Henry III_; tiếng Hà Lan: _Hendrik III_; 12 tháng 1 năm 1483, Siegen – 14 tháng 9 năm 1538, Breda), Lãnh chúa, Nam
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Chế độ quân chủ của Hà Lan** là chế độ quân chủ lập hiến của Hà Lan. Vì vậy, vai trò và vị trí của quốc vương được quy định và giới hạn bởi
**Hà Lan** ( ) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire,
**Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), tên đầy đủ cùng tước hiệu khi sinh là **Franz Albrecht August Karl Emanuel von Sachsen-Coburg-Saalfeld, Công tước xứ
**Johan Friso Bernhard Christiaan David, Vương tử Oranje-Nassau, Bá tước xứ Oranje-Nassau, Thiếu chủ nhà Amsberg** (; 5 tháng 9 năm 1968 – 12 tháng 8 năm 2013) là một thành viên Vương thất Hà
**Nữ vương Juliana** (_Juliana Louise Emma Marie Wilhelmina_; 30 tháng 4 năm 1909 – 20 tháng 3 năm 2004) là Nữ vương Hà Lan từ năm 1948 cho đến khi bà thoái vị năm 1980.
**Lịch sử Bỉ** có từ trước khi thành lập nước Bỉ hiện đại năm 1830. Lịch sử Bỉ đan xen với lịch sử các nước láng giềng là Hà Lan, Đức, Pháp và Luxembourg. Trong
**Anne của Đại Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Anne, Queen of Great Britain_; 6 tháng 2, năm 1665 – 1 tháng 8, năm 1714), là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland,
**Đế quốc Hà Lan** () bao gồm các vùng lãnh thổ ở nước ngoài thuộc tầm kiểm soát của Hà Lan từ thế kỷ 17 đến những năm 1950. Người Hà Lan đã theo sau
**Louise của Liên hiệp Anh** (tiếng Anh: _Louise of the United Kingdom_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa del Reino Unido_; tiếng Đức: _Louise des Vereinigtes Königreich_; tiếng Pháp: _Louise du Royaume-Uni_; tiếng Bồ Đào Nha:
**Đế quốc Anh** () bao gồm các vùng tự trị, thuộc địa được bảo hộ, ủy thác và những lãnh thổ khác do Khối liên hiệp Anh và các quốc gia tiền thân của nó