✨Vương tộc Oranje-Nassau

Vương tộc Oranje-Nassau

Nhà Orange-Nassau (tiếng Hà Lan: Huis van Oranje-Nassau, ), là vương tộc đang trị vì Vương quốc Hà Lan hiện nay. Nó vốn là một chi nhánh của Nhà Nassau, gia tộc sở hữu một số Bá quốc thuộc Đế chế La Mã Thần thánh thời Trung cổ, và gia tộc này cũng từng có người được bầu làm Vua La Mã Đức. Người giúp Nhà Orange-Nassau nổi bật ở châu Âu chính là Willem van Oranje, người này đã lãnh đạo các tỉnh Hà Lan trong Cuộc nổi dậy Hà Lan chống lại sự cai trị của Tây Ban Nha, sau Chiến tranh Tám mươi năm (1568-1648), các tỉnh Hà Lan giành độc lập và khai sinh ra nền Cộng hòa hiện đại đầu tiên trên thế giới.

Người Nhà Orange-Nassau đóng góp nhiều trong những cuộc chiến giành độc lập của Hà Lan, nên họ đã được trao chức stadtholder do giới quý tộc bầu lên. Nhà nước Cộng hòa Hà Lan được thành lập vào năm 1588 theo cơ chế liên bang, và phát triển thịnh trị trong 200 năm. Mỗi tỉnh trong nền cộng hoà đều có tính tự trị rất cao, được lãnh đạo bởi một quan chức được gọi là Stadtholder. Vị trí này giành cho bất kỳ ai, nhưng hầu hết ở các tỉnh đều bổ nhiệm người của Nhà Orange-Nassau. Chức vụ này dần trở thành cha truyền con nối, truyền từ đời này sang đời khác cho các hậu duệ của Willem I xứ Oranje. Đến năm 1815, sau một thời gian dài tồn tại dưới thể chế cộng hòa, Hà Lan khôi phục nền quân chủ và lập Thân vương xứ Oranje của Nhà Orange-Nassau làm vua, vương tộc này vẫn trị vì Hà Lan cho đến nay.

Vương tộc Orange-Nassau được thành lập là kết quả của cuộc hôn nhân giữa Hendrik III xứ Nassau-Breda từ Đức và Claudia của Châlon-Orange từ Bourgogne của Vương quốc Pháp vào năm 1515. Năm 1530, con trai của họ là René được thừa kế Thân vương quốc Orange từ anh trai của mẹ mình, Philibert xứ Châlon. Rene là người Nhà Nassau đầu tiên trở thành Thân vương xứ Oranje, ông đã dùng tên của 2 gia tộc để ghép lại với nhau và tạo ra "Orange-Nassau", đây là dấu mốc cho sự khởi đầu của Nhà Orange-Nassau. Tuy nhiên, cậu của ông, trong di chúc của mình, đã quy định rằng Rene nên tiếp tục sử dụng tên Châlon-Orane. Vì thế mà lịch sử gọi ông là René xứ Châlon. Sau cái chết của René vào năm 1544, người em họ của ông là Wilhelm xứ Nassau-Dillenburg được thừa kế tất cả các vùng đất của ông. Willem I xứ Oranje hay còn được gọi là Willem Trầm lặng đã trở thành người sáng lập ra Nhà Orange-Nassau.

Nhà Nassau

thumb|1544: Huy hiệu của Nhà "Orange-Nassau" với sự kết hợp giữa biểu tượng của Nhà Nassau và Nhà Orange

thumb|[[Willem I xứ Oranje, Thân vương xứ Oranje, thủ lĩnh của Cuộc nổi dậy Hà Lan, và là stadtholder của Holland, Zeeland, và Utrecht.]]

Lâu đài Nassau được xây dựng vào khoảng năm 1100 bởi Dudo, Bá tước Laurenburg, người sáng lập ra Nhà Nassau. Năm 1120, các con trai và người kế vị của Dudo là Bá tước Rupert I và Arnold I, tự lập lãnh địa tại Lâu đài Nassau, lấy tước hiệu là "Bá tước Nassau". Năm 1255, tài sản của Nassau được chia cho Walram II và Otto I, các con trai của Bá tước Henry II. Các hậu duệ của Walram được gọi là Dòng Walram, và họ trở thành Công tước xứ Nassau và vào năm 1890 họ sở hữu thêm tước vị Đại công tước xứ Luxembourg. Dòng này cũng bao gồm Adolph xứ Nassau, người được bầu làm Vua của La Mã Đức vào năm 1292. Hậu duệ của Otto được gọi là Dòng Ottonian, và họ được thừa kế các phần lãnh thổ của Bá quốc Nassau, cũng như các tài sản ở Vương quốc Pháp và Hà Lan.

Nhà Orange-Nassau bắt nguồn từ dòng Ottonian của Nhà Nassau. Người đầu tiên của dòng này sở hữu tài sản ở Hà Lan chính là Johann I, Bá tước xứ Nassau-Siegen,, ông đã kết hôn với Margareta xứ Marck. Người sáng lập thực sự của gia tộc Nassau Hà Lan chính là con trai thứ 3 của Johann, Engelbert I. Ông trở thành cố vấn cho Công tước Brabant và Công tước xứ Burgundy, đầu tiên là cho Anthony xứ Brabant, và sau đó là con trai Johann IV xứ Brabant. Sau đó ông cũng phục vụ cho Philip III xứ Burgundy. Năm 1403, ông kết hôn với nữ quý tộc Hà Lan Johanna van Polanen và do đó được thừa kế các vùng đất ở Hà Lan, trong đó lãnh thổ của Nam tước Breda là quan trọng nhất.

Quyền lực của một quý tộc thường dựa trên các quyền sở hữu của họ đối với những lãnh địa rộng lớn và những tài sản sinh lợi cao. Nhà Orange-Nassau sở hữu một trong những bất động sản giàu có nhất thế giới thời bấy giờ (xem thêm bên dưới: Đất phong và tước hiệu). Sự giàu có và quyền lực của gia tộc này ngày càng tăng trong suốt thế kỷ XV và XVI, khi họ trở thành uỷ viên hội đồng, Tướng quốc và stadtholder của Nhà Habsburg ở Vùng đất thấp. Engelbert II xứ Nassau đã phục vụ dưới triều đại của Karl Dũng cảm xứ Bourgogne và Hoàng đế Maximilian I của Thánh chế La Mã người đã kết hôn với Marie I xứ Bourgogne, con gái của Karl. Năm 1496, ông được bổ nhiệm làm stadtholder xứ Flander và đến năm 1498, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch của Grand Conseil. Năm 1501, Maximilian phong ông làm Lieutenant-General của Mười bảy tỉnh Hà Lan. Từ thời điểm đó trở đi (cho đến khi ông qua đời vào năm 1504), Engelbert là đại diện chính thức của Đế chế Habsburg trong khu vực. Hendrik III xứ Nassau-Breda được Hoàng đế Karl xứ Ghent bổ nhiệm làm stadtholder xứ Holland và Zeeland vào đầu thế kỷ XVI.

Hendrik được thừa kế bởi người con trai tên là René vào năm 1538, chính người này đã thừa kế tước vị Thân vương xứ Orange của Thân vương quốc Orange từ người cậu của mình là Philibert xứ Chalon. René chết trên chiến trường vào năm 1544 mà không có con cái thừa kế. Tài sản của ông, bao gồm lãnh thổ của thân vương quốc Orange và tước vị, được trao lại cho người e họ của ông là Willem I xứ Oranje (Willem Trầm lặng). Kể từ đó, các thành viên trong gia tộc tự gọi mình là "Orange-Nassau".

Cuộc nổi dậy của người Hà Lan

thumb|"The Nassau Cavalcade", các thành viên của Nhà Orange-Nassau trong cuộc diễu hành vào năm 1621 từ một bản khắc của Willem Delff. Từ trái sang phải ở hàng đầu tiên: [[Maurice của Nassau, Thân vương xứ Orange|Thân vương Maurice, Thân vương Philip Willem và Thân vương Frederick Henry.]]

Mặc dù Hoàng đế Karl V là người chống lại cuộc Cải cách Tin lành, nhưng ông đã cai trị các vùng lãnh thổ của Hà Lan một cách khôn ngoan và quan tâm đến các phong tục địa phương. Ông không bức hại các đối tượng theo đạo Tin lành trong lãnh địa của mình trên quy mô lớn. Con trai ông là Quốc vương Felipe II của Tây Ban Nha thừa hưởng ác cảm của ông đối với những người theo đạo Tin lành nhưng không hề khôn ngoan trong việc tiếc chế cảm xúc. Dưới thời trị vì của Philip, một cuộc đàn áp thực sự đối với những người theo đạo Tin lành đã được bắt đầu và các loại thuế đã được tăng lên mức thái quá. Sự bất mãn nảy sinh và Willem của Oranje (với tuổi thơ mơ hồ theo đạo Luther của mình) đã đứng lên bảo vệ những cư dân Tin lành (chủ yếu là người theo Thần học Calvin) ở Hà Lan. Mọi thứ trở nên tồi tệ sau khi Chiến tranh Tám mươi năm bắt đầu vào năm 1568, nhưng cuộc chiến đã trở nên thuận lợi cho ông khi các phiến quân Tin lành tấn công từ Biển Bắc chiếm được Brielle, một thị trấn ven biển ở Nam Holland ngày nay vào năm 1572. Nhiều thành phố ở Holland bắt đầu ủng hộ Willem. Trong những năm 1570, ông đã nhiều lần phải bảo vệ các vùng lãnh thổ cốt lõi của mình ở Holland, nhưng trong những năm 1580, các thành phố nội địa ở Holland đã được đảm bảo an toàn. Willem xứ Oranje được coi là một mối đe dọa đối với sự thống trị của Tây Ban Nha trong khu vực và bị ám sát vào năm 1584 bởi một kẻ giết thuê do Philip gửi đến.

Willem được kế vị bởi con trai thứ hai của ông là Maurice, Thân vương xứ Orange, một người theo đạo Tin lành, ông nhanh chống chứng tỏ mình là một chỉ huy quân sự xuất sắc. Tài năng lãnh đạo của ông cộng thêm cái chết của Philip II vào năm 1598, đã cho Maurice những cơ hội tuyệt vời để chinh phục những phần lãnh thổ rộng lớn của Hà Lan ngày nay. Năm 1585, Maurice được bầu làm stadtholder của các tỉnh Holland và Zealand, làm người kế vị của cha mình và là người đối trọng với đại diện của Elizabeth, Đệ nhất Bá tước xứ Leicester. Năm 1587, ông được bổ nhiệm làm đại tướng (tổng chỉ huy quân sự) của quân đội Cộng hòa Hà Lan. Vào những năm đầu của thế kỷ XVII, đã nổ ra những cuộc tranh cãi giữa các stadtholder theo chủ nghĩa tập trung quyền lực với một nhóm các thương gia quyền lực do Johan van Oldebarnevelt lãnh đạo — vì Maurice muốn có nhiều quyền lực hơn trong nước Cộng hòa. Maurice giành chiến thắng trong cuộc tranh giành quyền lực này bằng cách tiến hành ám sát Oldebarnevelt.

Lưu vong và hồi sinh

Frederick Henry qua đời năm 1647 và con trai ông lên kế vị và trở thành Thân vương xứ Orange. Khi Hòa ước Münster sắp được ký kết, qua đó thì Chiến tranh Tám mươi năm cũng sẽ kết thúc, Willem cố gắng duy trì quyền lực mà ông có được trong thời chiến với tư cách là chỉ huy quân sự. Những quyền lực này đương nhiên sẽ bị giảm bớt trong thời bình vì sự cắt giảm quân đội. Điều này vấp phải sự phản đối lớn từ các quan nhiếp chính. Khi Andries Bicker và Cornelis de Graeff, các Đại quan nhiếp của thành phố Amsterdam từ chối một số thị trưởng do Willem chỉ định, ông đã cho quân đội bao vây Amsterdam. Cuộc bao vây đã kích động sự phẫn nộ của các quan nhiếp chính. Willem qua đời vì bệnh đậu mùa vào ngày 6 tháng 11 năm 1650, chỉ để lại một người con kế vị là William III (sinh ngày 14 tháng 11 năm 1650) lúc đó chỉ mới được hơn 1 tuần tuổi. Vì Willem II, Willem III còn quá nhỏ nên các nhiếp chính đã sử dụng cơ hội này để bỏ trống chức vụ stadtholder. Điều này đã mở đầu cho một kỷ nguyên trong lịch sử Hà Lan được gọi là Thời kỳ không có Stadtholder đầu tiên. Mẹ của Thân vương Willem III đã xung đột với mẹ chồng là Amalia trong việc chọn một nền giáo dục phù hợp cho ông. Vì mẹ của Willem là công chúa của Anh nên bà muốn ông tiếp thu nền giáo dục Anh, trong khi đó bà ngoại Amalia thì muốn cháu mình tiếp thu nền giáo dục Pháp, nơi khai sinh ra Nhà Orange. Các Estate của Holland, dưới thời Jan de Witt và Cornelis de Graeff đã can thiệp vào việc giáo dục của Willem và biến ông thành một "child of state" để được giáo dục bởi nhà nước Cộng hòa Hà Lan, điều này sẽ đảm bảo giữ Willem khỏi ngai vàng. Willem thực sự trở nên rất ngoan ngoãn trước những mong muốn của các nhiếp chính và các Estate. Willem V mất năm 1806.

Chế độ quân chủ (từ năm 1815)

Vương quốc Liên hiệp Hà Lan

thumb|Thâm vương [[Willem II của Hà Lan|Willem xứ Oranje bị thương trong Waterloo, năm 1815]] Một cuộc nổi dậy đã diễn ra ở Hà Lan, quân đội Vương quốc Phổ và Cossack đã đánh đuổi quân đội của Đệ Nhất Đế chế Pháp khỏi Hà Lan vào năm 1813, với sự hậu thuẫn của những người thuộc phe Patriottentijd. Một chính phủ lâm thời được thành lập, hầu hết thành viên nội các đều là những người đã lật đổ Willem V vào 18 năm trước. Tuy nhiên, ngay lúc này, họ đã nhận ra rằng bất kỳ chính phủ mới nào được thành lập cũng phải do hậu duệ của Willem V đứng đầu thì mới vững. Tất cả đều đồng ý khôi phục quyền lực của Nhà Orange-Nassau tại Hà Lan trước khi bị đồng minh áp đặt. Hai nhà nước vẫn tách biệt mặc dù có chung một quân chủ. Willem do đó đã hoàn thành nhiệm vụ kéo dài 3 thế kỷ của Nhà Orange là thống nhất các lãnh thổ thuộc Vùng đất thấp.

Là vua của Vương quốc Liên hiệp Hà Lan, Willem đã cố gắng thiết lập một nền văn hóa chung. Điều này đã kích động sự phản kháng ở các vùng phía Nam của Hà Lan, nơi đã tách biệt về văn hóa với miền Bắc từ năm 1581. Ông được xem là một nhà cai trị theo Chủ nghĩa chuyên chế khai sáng.

Thân vương xứ Orange nắm giữ quyền sở hữu đối với vùng đất Nassau (Dillenburg, Dietz, Beilstein, Hadamar, Siegen) ở miền Trung nước Đức. Mặt khác, Vua của Vương quốc Phổ là Friedrich Wilhelm III - anh rể và cũng là em họ đầu tiên của Willem I, từ năm 1813 để thiết lập quyền cai trị của mình ở Luxembourg, mà ông coi như là thừa kế của mình từ Anne, Nữ công tước Luxembourg người đã chết trước đó hơn 3 thế kỷ. Tại Đại hội Viên, hai người đã đồng ý thực hiện giao dịch - Friedrich Wilhelm nhận đất của Nhà Nassau trong khi Willem I nhận Luxembourg. Cả hai đều hài lòng với thoả thuận này, vì các lãnh thổ họ nhận được nằm rất gần với trung tâm quyền lực của họ.

Năm 1830, hầu hết các lãnh thổ phía Nam của Hà Lan, bao gồm Hà Lan Áo và Giáo phận vương quyền Liege trước đây đã tuyên bố li khai khỏi Vương quốc Liên hiệp Hà Lan, mà sau này được biết đến với tên gọi Vương quốc Bỉ. Willem I của Hà Lan đã lãnh đạo quân đội và thực hiện một cuộc chiến thảm khốc nhầm ngăn chặn sự ly khai này. Tuy nhiên, đến năm 1839, ông phải thực hiện một hoà ước để kết thúc chiến tranh. Khi vương quốc của mình bị mất đi 1/2 lãnh thổ, ông đã tuyên bố thoái vị để ủng hộ người con trai cả lên ngôi vua, đó là Willem II của Hà Lan. Mặc dù Willem II có chung khuynh hướng bảo thủ với cha mình, nhưng vào năm 1848, ông đã chấp nhận một bản hiến pháp sửa đổi hạn chế đáng kể quyền lực của chính mình và chuyển giao quyền hành pháp thực sự cho Tướng quốc (States General). Ông đã thực hiện bước này để ngăn chặn các cuộc Cách mạng 1848 lan sang đất nước của mình.

Willem III và mối đe dọa tuyệt tự

Willem II qua đời năm 1849, và ngai vàng Hà Lan được kế vị bởi con trai của ông là Willem III. Là một người theo Chủ nghĩa bảo thủ, thậm chí phản động, Willem III đã phản đối gay gắt hiến pháp mới năm 1848. Ông liên tục cố gắng thành lập các chính phủ ủng hộ sự chuyên chế của mình, mặc dù rất khó để một chính phủ tại vị mà trái với ý muốn của Nghị viện. Năm 1868, ông cố gắng bán Luxembourg cho Đệ Nhị Đế chế Pháp, đây là nguồn gốc của cuộc tran cải giữa Phổ và Pháp.

Willem III có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc với Sophie của Württemberg, và những người thừa kế của ông đều chết trẻ. Điều này làm tăng khả năng tuyệt tự người kế thừa Vương tộc Orange-Nassau. Sau cái chết của Vương hậu Sophie năm 1877, Willem tái hôn với Emma xứ Waldeck và Pyrmont vào năm 1879. Một năm sau, Vương hậu Emma đã hạ sinh ra Vương nữ Wilhelmina và cô gái này đã trở thành người thừa kế - Nữ vương tương lai của Hà Lan.

Một chế độ quân chủ hiện đại

Giá trị tài sản ròng

Các Stadtholder của Nhà Orange-Nassau

Các Stadtholder của Nhà Orange

Thân vương của Hà Lan (1813 - 1815)

Vua của Hà Lan (1815-Nay)

Gia đình hoàng gia

Cây phả hệ

Huy hiệu

Đất phong và tước hiệu

Tiêu chuẩn

Nơi ở của Nhà Orange

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhà Orange-Nassau** (tiếng Hà Lan: _Huis van Oranje-Nassau_, ), là vương tộc đang trị vì Vương quốc Hà Lan hiện nay. Nó vốn là một chi nhánh của Nhà Nassau, gia tộc sở hữu một
thumb|Huy hiệu của Thân vương xứ Orange (1815–1884) right|thumb|Huy hiệu của Bá quốc Orenge, thuộc Nhà Orange thời kỳ đầu.right|thumb|Huy hiệu của đô thị [[Orange, Vaucluse|Orange ở Vaucluse. Được các Thân vương xứ Orange ban
**Maurits Willem Pieter Hendrik van Vollenhoven, Vương tôn Oranje-Nassau** (; sinh ngày 17 tháng 4 năm 1968 tại Utrecht) là con trai trưởng của Margriet của Hà Lan và Pieter van Vollenhoven. Cha mẹ đỡ
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Hà Lan: _Wilhelmina van Pruisen_; tiếng Anh: _Wilhelmina of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Sophie Wilhelmine_; 7 tháng 8 năm 1751 tại Berlin – 9 tháng
**Wilhelm I xứ Oranje** (24 tháng 4 1533 - 10 tháng 7 1584), thường được gọi là **Willem de Zwijger** (tạm dịch ra tiếng Việt là _Willem Trầm lặng_), hay đơn giản là **Willem van
**Floris Frederik Martijn của Oranje-Nassau** (; sinh ngày 10 tháng 4 năm 1975 tại Nijmegen) là con trai út của Margriet của Hà Lan và Giáo sư Pieter van Vollenhoven. Cha mẹ đỡ đầu của
**Bernhard Lucas Emmanuel của Oranje-Nassau** (; sinh ngày 25 tháng 12 năm 1969 tại Nijmegen) là con trai thứ hai của Margriet của Hà Lan và Pieter van Vollenhoven. Cha mẹ đỡ đầu của ông
**Pieter-Christiaan Michiel của Oranje-Nassau** (; sinh ngày 22 tháng 3 năm 1972 tại Nijmegen) là con trai thứ ba của Margriet và Pieter van Vollenhoven. Cha mẹ đỡ đầu của ông gồm ông nội Pieter
**Claus-Casimir Bernhard Marius Max, Bá tước xứ Oranje-Nassau, Thiếu chủ nhà Amsberg** (; sinh ngày 21 tháng 03 năm 2004 tại Bệnh viện Bronovo ở The Hague) là người con thứ hai và là con
**Leonore Marie Irene Enrica, Nữ bá tước xứ Oranje-Nassau, Nữ thiếu chủ nhà Amsberg** (; sinh ngày 03 tháng 06 năm 2006 tại bệnh viện Bronovo ở The Hague) là con gái thứ hai và
**Wilhelmine của Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelmine von Preußen_; tiếng Anh: _Wihelmine of Prussia_; tên đầy đủ: _Friederike Luise Wilhelmine_; 18 tháng 11 năm 1774 – 12 tháng 10 năm 1837) là Vương hậu đầu tiên
**Eloise Sophie Beatrix Laurence, Nữ Bá tước xứ Oranje-Nassau, Jonkvrouwe Amsberg** (; sinh ngày 8 tháng 06 năm 2002 tại Bệnh viện Bronovo ở Den Haag) là con trưởng của Constantijn của Hà Lan và
**Nhà Nassau** (tiếng Đức: _Haus Nassau_; tiếng Anh: _House of Nassau_) là một vương tộc nổi tiếng ở châu Âu. Nó được đặt theo tên của lãnh địa gắn liền với lâu đài Nassau, nằm
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
nhỏ|Chân dung Anna của Hannover – tranh của Bernardus Accama (năm 1736) **Anne của Đại Anh** (tiếng Anh: _Anne of Great Britain_; tiếng Đức: _Anna von Großbritannien_; ; 2 tháng 11 năm 1709 - 12
**Willem V** (tiếng Hà Lan: _Willem Batavus_; 8 tháng 3 năm 1748 – 9 tháng 4 năm 1806) là Thân vương xứ Oranje và là _Stadtholder_ cuối cùng của Cộng hòa Hà Lan. Khi người
**Louise của Hà Lan** (; tên đầy đủ: _Wilhelmina Frederika Alexandrine Anna Louise_; 5 tháng 8 năm 1828 – 30 tháng 3 năm 1871), hay còn được gọi là **Lovisa**, là Vương hậu Thụy Điển
**Thân vương quốc Nassau-Orange-Fulda** (tiếng Đức: _Fürstentum Nassau-Oranien-Fulda_), đôi khi còn được gọi là **Thân vương quốc Fulda và Corvey**, nó là một thân vương quốc thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, tồn tại
**Willem IV** (tiếng Hà Lan: _Willem Karel Hendrik Friso_; 1 tháng 9 năm 1711 – 22 tháng 10 năm 1751) là Thân vương xứ Oranje từ khi mới sinh ra và là _stadtholder_ cha truyền
**Vương hậu Máxima, Vương phi Hà Lan, Thân vương phi xứ Oranje-Nassau, Phu nhân Amsberg** (; sinh 1971) là đương kim Vương hậu Hà Lan, vợ của Quốc vương Hà Lan Willem-Alexander của Hà Lan.
**Willem I** (tiếng Hà Lan: _Willem Frederik_; 24 tháng 8 năm 1772 – 12 tháng 12 năm 1843) là vua của Hà Lan, kiêm Đại công tước của Luxembourg từ năm 1815 cho đến khi
**John William Friso** (tiếng Hà Lan: _Johan Willem Friso_; 14 tháng 8 năm 1687 – 14 tháng 7 năm 1711) trở thành Thân vương xứ Orange (trên danh nghĩa) vào năm 1702. Ông là _Stadtholder_
**Margriet Francisca của Hà Lan, Vương nữ Oranje-Nassau, Nữ Thân vương xứ Lippe-Biesterfeld** (; sinh ngày 19 tháng 1 năm 1943) là con gái thứ ba của Nữ vương Juliana và Vương tế Bernhard. Với
**Johan Friso Bernhard Christiaan David, Vương tử Oranje-Nassau, Bá tước xứ Oranje-Nassau, Thiếu chủ nhà Amsberg** (; 5 tháng 9 năm 1968 – 12 tháng 8 năm 2013) là một thành viên Vương thất Hà
**Willem III** (tiếng Hà Lan: _Willem Alexander Paul Frederik Lodewijk_, tiếng Anh: _William Alexander Paul Frederick Louis_; 19 tháng 2 năm 1817 - 23 tháng 11 năm 1890) là Vua của Hà Lan và Đại
**Willem-Alexander của Hà Lan** (; Willem-Alexander Claus George Ferdinand; sinh ngày 27 tháng 4 năm 1967). Là vua của Hà Lan từ năm 2013. Ông là con trai trưởng của Beatrix của Hà Lan và
**Alexia Juliana Marcela Laurentien, Vương nữ Hà Lan, Nữ Thân vương xứ Oranje-Nassau** (; sinh ngày 26 tháng 06 năm 2005) là con gái thứ hai của Willem-Alexander, Quốc vương Hà Lan và Vương hậu
**Công quốc Nassau** (tiếng Đức: _Herzogtum Nassau_; tiếng Anh: _Duchy of Nassau_) là một nhà nước quân chủ độc lập, tồn tại từ năm 1806 đến năm 1866, tọa lạc tại khu vực ngày nay
**Constantijn Christof Frederik Aschwin, Vương tử Hà Lan, Vương tử Oranje-Nassau, Thiếu chủ nhà Amsberg** (; sinh 11 tháng 10 năm 1969 tại Utrecht) là con trai thứ ba và là người con nhỏ nhất
**Ariane Wilhelmina Máxima Ines của Hà Lan, Vương nữ Oranje-Nassau** (; sinh ngày 10 tháng 04 năm 2007) là con gái thứ ba và người con nhỏ nhất của Vua Willem-Alexander và Máxima, Vương hậu
**Wilhelmina** (; _Wilhelmina Helena Pauline Maria_; 31 tháng 8 năm 1880 – 28 tháng 11 năm 1962) là Nữ vương của Hà Lan từ năm 1890 cho đến khi thoái vị vào năm 1948. Bà
**Vương nữ Catharina-Amalia** (**Catharina-Amalia Beatrix Carmen Victoria**; sinh ngày 7 tháng 12 năm 2003) là con trưởng của vua Willem-Alexander và Vương hậu Máxima của Hà Lan. Cô hiện đang đứng đầu trong dòng kế
**Maria Christina, Vương nữ Hà Lan, Vương nữ của Oranje-Nassau, Nữ Thân vương xứ Lippe-Biesterfeld** (; sinh ngày 18 tháng 2 năm 1947 - 16 tháng 8 năm 2019) là con gái út của Nữ
**Nữ vương Juliana** (_Juliana Louise Emma Marie Wilhelmina_; 30 tháng 4 năm 1909 – 20 tháng 3 năm 2004) là Nữ vương Hà Lan từ năm 1948 cho đến khi bà thoái vị năm 1980.
Bá tước **Henry III xứ Nassau-Dillenburg-Dietz** (tiếng Đức: _Heinrich III_; tiếng Anh: _Henry III_; tiếng Hà Lan: _Hendrik III_; 12 tháng 1 năm 1483, Siegen – 14 tháng 9 năm 1538, Breda), Lãnh chúa, Nam
**Willem II của Hà Lan** (Willem Frederik George Lodewijk van Oranje-Nassau) (6 tháng 12 năm 1792 - 17 tháng 3 năm 1849) là vua của Hà Lan, Đại công tước của Luxembourg, và Công tước
**Beatrix của Hà Lan** (**Beatrix Wilhelmina Armgard**, sinh ngày 31 tháng 1 năm 1938) là Nữ vương của Vương quốc Hà Lan bao gồm Hà Lan, Curaçao, Sint Maarten và Aruba. Bà là con trưởng
**Mabel Martine Wisse Smit** (sinh ngày 11 tháng 08 năm 1968, Pijnacker, Hà Lan) là một nhà kinh tế và nhà khoa học chính trị người Hà Lan. Bà cũng là góa phụ của Vương
thumb|Huy hiệu Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg **Hohenlohe-Langenburg** () là một Bá quốc và sau được nâng lên Thân vương quốc trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Lãnh thổ của nó nằm ở phía Đông
**René xứ Chalon** (05 tháng 02 năm 1519 - 15 tháng 07 năm 1544), còn được gọi là **Renatus xứ Chalon**, ông là Thân vương xứ Orange và stadtholder của các xứ Holland, Zeeland, Utrecht
**Sophie của Württemberg** (tên đầy đủ: _Sophie Friederike Mathilde_; 17 tháng 6 năm 1818 – 3 tháng 6 năm 1877) là Vương hậu Hà Lan với tư cách là vợ đầu tiên của Willem III
**Marie-Hélène Angela (Marilène) van den Broek** (sinh ngày 4 tháng 2 năm 1970) là vợ của Vương tôn Maurits van Vollenhoven, và từng là thành viên của Triều đình Hoàng gia Hà Lan cho đến
**Marie Elisabeth của Phổ** (tên đầy đủ: _Marie Elisabeth Luise Friederike_; 14 tháng 9 năm 1855, Marmorpalais, Potsdam – 20 tháng 6 năm 1888, Dresden), là Vương tằng tôn nữ Phổ, con gái của Friedrich
**Mary II của Anh** (30 tháng 4 năm 1662 – 28 tháng 12 năm 1694) là đồng quân vương của Vương quốc Anh, Scotland, và Ireland cùng với chồng và cũng là anh họ, Willem
**Marie Luise xứ Hessen-Kassel** (7 tháng 2 năm 1688 – 9 tháng 4 năm 1765) là một nhiếp chính Hà Lan, trở thành Thân vương phi xứ Oranje sau khi kết hôn với John William
**Anna Pavlovna của Nga** ( ; ; 18 tháng 1 năm 1795 (lịch cũ: 7 tháng 1) – 1 tháng 3 năm 1865) là Vương hậu Hà Lan với tư cách là vợ của Willem
**Philibert de Chalon** (18 tháng 3 năm 1502 - 3 tháng 8 năm 1530) là Thân vương xứ Orange cuối cùng đến từ Nhà Chalon-Arlay. Ông phục vụ Hoàng đế Karl V của Thánh chế
**Anita Theodora van Eijk** (sinh ngày 27 tháng 10 năm 1969) là vợ của Vương tử Pieter-Christiaan van Vollenhoven – con trai thứ ba của Margriet của Hà Lan và Giáo sư Pieter van Vollenhoven
**Vương phu Bernhard của Hà Lan** (29 tháng 6 năm 1911 - 1 tháng 12 năm 2004), tên thật là **Bernhard Leopold Frederik Everhard Julius Coert Karel Godfried Pieter Lippe-Biesterfeld**, chồng của Nữ vương Hà
**Klaus xứ Amsberg, sau là Claus xứ Armsberg** (tiếng Đức: Klaus von Amsberg; tiếng Hà Lan: Claus van Amsberg; tên đầy đủ: _Claus George Willem Otto Frederik Geert van Amsberg_; 06 tháng 9 năm 1926