✨Elisabeth của Bohemia

Elisabeth của Bohemia

**Elisabeth của Bohemia** (ngày 26 tháng 12 năm 1618 - 11 tháng 2 năm 1680), còn được gọi là **Elisabeth của Pfalz,** Công chúa Elisabeth của Công quốc Pfalz, hoặc Công chúa-Tu viện trưởng của Tu viện Herford, là con gái đầu của tuyển hầu Frederick V của Pfalz (từng là Quốc vương Bohemia trong một thời gian ngắn) và Elizabeth Stuart. Elisabeth của Bohemia là một triết gia nổi tiếng qua những bức thư trao đổi triết học giữa bà và René Descartes. Bà có ảnh hưởng quan trọng đối với thuyết siêu hình học nhị nguyên của Descartes; đồng thời lý luận của bà đã đặt ra những mối quan tâm về siêu hình học cho các nhà triết học sau này.

Cuộc đời

thế=Elisabeth of Bohemia-Palatinate at age 12 from "A Sister of Prince Rupert" by E. Godfrey. According from the text the original painting this photo is based on was painted by Kaspar Barlens and is located in the Herford Museum.|trái|nhỏ| Elisabeth năm 12 tuổi. Elisabeth Simmern van Pallandt sinh ngày 26 tháng 12 năm 1618 tại Heidelberg. Bà là người thứ ba trong số mười ba người con và là con gái lớn nhất của Frederick V, Tuyển hầu tước Pfalz và Elizabeth Stuart, con gái của James I của Anh và em gái của Charles I.

Người ta không biết nhiều về thời niên thiếu của Elisabeth, ngoại trừ những mối quan hệ gia đình. Sau một thời gian trị vì ngắn ngủi không thành công ở Bohemia, cha mẹ của Elisabeth phải chạy đến lưu vong ở Hà Lan vào năm 1620. Elisabeth ở với bà ngoại Louise Juliana của Nassau tại Heidelberg trước khi chuyển đến Hà Lan vào năm 9 tuổi.

Elisabeth được hưởng một nền giáo dục toàn diện, bao gồm triết học, thiên văn học, toán học, luật học, lịch sử, ngôn ngữ hiện đại và cổ điển.

Năm 1646, anh trai của Elisabeth là Philip Frederick của Pfalz đã giết chết một người đàn ông trong một cuộc đấu tay đôi. Mặc dù tu viện trưởng trước đây (chị họ của Elisabeth) cũng là một người Cải cách, Elisabeth đã vấp phải nhiều sự ngờ vực ban đầu do sự khác biệt về đức tin.

Là Tu viện trưởng, bà chủ trì tu viện và cai quản cộng đồng dân cư xung quanh gồm 7.000 người. Trong thời gian Elisabeth là tu viện trưởng, tu viện đã trở thành nơi ẩn náu cho nhiều người khỏi các cuộc đàn áp tôn giáo. Bà đã chào đón rất nhiều người từ các hệ giáo phái khác nhau, kể cả những người theo giáo phái Labadie.

Elisabeth qua đời vào ngày 12 tháng 2 năm 1680.

Năm 1639, Elisabeth bắt đầu thư từ với Anna Maria van Schurman, một phụ nữ uyên bác được mệnh danh là Minerva của Hà Lan. Trong một lá thư, van Schurman đã hướng dẫn Elisabeth về những chủ đề cần nghiên cứu và tranh luận về sự hữu ích của môn lịch sử.

Elisabeth bắt đầu viết thư với Descartes từ năm 1643 và tiếp tục cho đến khi Descartes qua đời vào đầu năm 1650.

Elisabeth cũng trao đổi thư với một số người Giáo hữu nổi tiếng như Robert Barclay và William Penn. Descartes đến La Hay để gặp một số nhân vật trí thức nổi bật ở Hà Lan, những người có thể ủng hộ quan điểm triết học của ông. La Haye là nơi gặp gỡ thường xuyên của những nhân vật có ảnh hưởng hay quyền lực. Khi Descartes trình bày ý tưởng của mình, Elisabeth chăm chú lắng nghe và rất hứng thú với những suy nghĩ về tâm trí và cơ thể của Descartes. Sau chuyến viếng thăm của Descartes, ông được kể lại rằng Elisabeth rất quan tâm đến công trình của ông. Descartes rất vui và tỏ ý muốn gặp gỡ công chúa. Ông đã đến La Haye trong một dịp khác và có ý định gặp Elisabeth nhưng không thành. thế=Elisabeth of Bohemia-Palatinatefrom A Sister of Prince Rupert by E. Godfrey. According from the text the original painting this photo is based on was painted by Gerard Honthorst and hangs in the National Gallery.|phải|nhỏ|332x332px| Chân dung Elisabeth tại Phòng triển lãm Quốc gia, London, UK. Sau khi Elisabeth biết Descartes muốn gặp mình, bà đã viết cho Descartes một lá thư. Trong bức thư ngày 16 tháng 5 năm 1643 này, Elisabeth viết, "hãy nói cho tôi biết làm thế nào linh hồn của một con người (dù chỉ là một chất suy nghĩ) lại có thể điều khiển năng lượng trong cơ thể và khiến nó hành động tự nguyện". Elisabeth đặt câu hỏi về quan điểm nhị nguyên của Descartes rằng làm thế nào linh hồn và thể xác có thể tương tác với nhau. Elisabeth thắc mắc tại sao một thứ phi vật chất (ý tưởng về tâm trí của Descartes) lại có thể di chuyển một thứ vật chất (cơ thể). Descartes đã trả lời thư của Elisabeth với câu trả lời vòng vo rằng không nên coi sự tương tác này như của giữa hai sự vật vật lý mà nên thiên về sự tồn tại dung hợp giữa hai tính chất của "chất nặng" và cơ thể.

Elisabeth không hài lòng với câu trả lời này nên đã hồi âm lại cho Descartes. Trong bức thư này, ngày 20 tháng 6 năm 1643, Elisabeth viết rằng bà không thể "hiểu được ý tưởng mà qua đó chúng ta phải coi là linh hồn (không có giới hạn và phi vật chất) có thể di chuyển cơ thể, nghĩa là, qua ý tưởng đó mà ông có thể hiểu được chất nặng... Và tôi thừa nhận rằng tôi sẽ dễ dàng tiếp thu khái niệm vật chất và giãn nở đối với tâm trí hơn là tiếp thu khả năng chuyển động cơ thể hay bị cơ thể chuyển động đối với một thứ phi vật chất." Trong một bức thư khác từ Elisabeth đến Descartes ngày 1 tháng 7 năm 1643, Elisabeth đồng ý với Descartes rằng các giác quan của chúng ta là bằng chứng cho thấy linh hồn tác động lên cơ thể và cơ thể tác động lên linh hồn, nhưng sự tương tác này không làm sáng tỏ bất cứ điều gì về cách thức nó xảy ra. Qua sự tương tác thư từ giữa Elisabeth và Descartes, có thể thấy rằng Elisabeth cho rằng Descartes có một ý tưởng về cách linh hồn và cơ thể tương tác và yêu cầu làm rõ về cách thức linh hồn thực hiện điều này.

Đóng góp cho nữ quyền trong lịch sử triết học

Elisabeth của Bohemia là một chủ đề quan trọng của nữ quyền trong lịch sử triết học . Bà được chú ý như một nhà tư tưởng nổi bật có đóng góp quan trọng vào sự phát triển của các nữ học giả ở thế kỷ 17. Các học giả nữ quyền đã nghiên cứu các thư từ và cuộc sống của bà để hiểu những hạn chế đặt ra đối với các nhà tư tưởng nữ thế kỷ 17. Một số học giả trích dẫn Elisabeth như một ví dụ điển hình về cách các quan niệm triết học cũ về phụ nữ đã loại tên họ ra khỏi triết học chính thống. Đối với các học giả nữ quyền, những bức thư của bà và Descartes cho thấy rõ tầm quan trọng của việc tái phát hiện dấu ấn của các nữ triết gia trong triết học kinh điển. Elisabeth đã góp phần mở đường cho sự phát triển của các nhà tư tưởng nữ ở thế kỷ 17. Triều đình lưu vong của bà ở La Haye đóng vai trò như một mạng lưới liên kết các nữ học giả, nơi phụ nữ có thể tự do thảo luận triết học thông qua thư từ. Ngoài Elisabeth, mạng lưới này còn bao gồm các nữ triết gia nổi tiếng như Anna Maria van Schurman, Marie de Gournay và Lady Ranelagh.

Dẫn nguồn

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Elisabeth của Bohemia** (ngày 26 tháng 12 năm 1618 - 11 tháng 2 năm 1680), còn được gọi là **Elisabeth của Pfalz,** Công chúa Elisabeth của Công quốc Pfalz, hoặc Công chúa-Tu viện trưởng
**Elisabeth của Bohemia** (; 1358–1373), đôi được gọi là **Elisabeth của Luxemburg** (), là con gái của Karl IV của Thánh chế La Mã và Anna xứ Schweidinitz. Cô được đặt theo tên bà nội,
**Margarete của Bohemia** (29 tháng 9 năm 1373 - 4 tháng 6 năm 1410) là con gái của Hoàng đế La Mã Thần thánh Karl IV và người vợ thứ tư của ông là Elisabeth
**Maria Elisabeth của Áo** (Maria Elisabeth Josepha Johanna Antonia; sinh ngày 13 tháng 8 năm 1743 - mất 22 tháng 9 năm 1808) là con thứ sáu và con gái thứ ba còn sống đến
**Johann I của Bohemia** (, , ; 10 tháng 8 năm 1296 – 26 tháng 8 năm 1346), còn gọi là **Johann xứ Luxemburg** (, , , , ), hay **Johann Mù** (, , ),
**Anna của Bohemia và Hungary** (23 tháng 7 năm 1503 – 27 tháng 1 năm 1547), đôi khi được biết đến với tên gọi **Anna Jagellonica**, là Vương hậu nước Đức, Bohemia và Hungary là
nhỏ|HÌnh thu nhỏ trong một sách thánh vịnh của Jutta von Luxemburg năm 1348/49 của Jean Le Noir, hiện trưng bày tại [[Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan|Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York.]] **Jutta
**Elisabeth của Áo** (31 tháng 5 năm 1922 – 6 tháng 1 năm 1993) là thành viên của Vương tộc Habsburg-Lothringen. Elisabeth là con gái út của Karl I của Áo và Zita của Borbone-Parma.
phải|nhỏ|Tượng Karl IV ở [[Praha, Cộng hòa Séc]] **Karl IV** (; ; ; 14 tháng 5 năm 1316 - 29 tháng 11 năm 1378) của Praha, tên lúc sinh ra là **Wenzel** (Václav), là vua
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**Elisabeth Christine xứ Braunschweig-Wolfenbüttel** (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1691 – mất ngày 21 tháng 12 năm 1750) là Công nữ của Công quốc Braunschweig-Wolfenbüttel, Hoàng hậu của Đế quốc La Mã, Vương hậu
**Maria Elisabeth của Áo** (Tên đầy đủ (tiếng Đức): _Maria Elisabeth Amalia Antonia Josefa Gabriele Johanna Agedit_; 5 tháng 2 năm 1737 - 7 tháng 6 năm 1740), là con cả và con gái của
**Karl VI của Thánh chế La Mã** (; 1 tháng 10 năm 1685 – 20 tháng 10 năm 1740) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 1711 đến 1740. Ông đã kế thừa ngai
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Elizabeth Stuart** (19 tháng 8 năm 159613 tháng 2 năm 1662) là Tuyển hầu phu nhân của Công quốc Pfalz (hay _Palatinate_ trong tiếng Anh) và là Vương hậu của Bohemia trong một thời gian
**Rudolf của Áo** (_Rudolf Franz Karl Josef_; 21 tháng 8 năm 1858 – 30 tháng 1 năm 1889) là người con thứ ba và là con trai duy nhất của Hoàng đế Franz Joseph I
**Richard II** (6 tháng 1, 1367 – c. 14 tháng 2, 1400), còn được gọi là **Richard xứ Bordeaux**, là Vua của Anh từ 1377 đến khi bị lật đổ ngày 30 tháng 9 năm
**Johanna của Áo** (tiếng Đức: _Johanna von Österreich_, tiếng Ý: _Giovanna d'Austria_, tiếng Anh: _Joanna of Austria_; 24 tháng 1 năm 1547 – 11 tháng 4 năm 1578) là một Nữ Đại Vương công Áo.
**Maria Karolina của Áo** (; tên đầy đủ: _Maria Karolina Luise Josepha Johanna Antonia_; 13 tháng 8 năm 1752 – 8 tháng 9 năm 1814) là Vương hậu của Napoli và Sicilia với tư cách
**Maria Amalia của Áo** (Maria Amalia Josepha Johanna Antonia; 26 tháng 2 năm 1746 - 18 tháng 6 năm 1804) là Nữ công tước của Parma, Piacenza và Guastalla sau khi kết hôn. Maria Amalia
**Elisabeth xứ Pomerania** (khoảng 1347 - 15 tháng 4 năm 1393) là người vợ thứ tư và cuối cùng của Karl IV, Hoàng đế La Mã thần thánh và vua của Bohemia. Cha mẹ bà
nhỏ|Lajos I khi vừa mới chào đời, theo cuốn _[[Illuminated Chronicle_.]] **Quốc vương Lajos I của Hungary** (; 5/3/1326 – 10/9/1382), còn gọi là **Lajos Vĩ đại**, **Lajos Đại đế** (; ; ) hay **Lajos
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
**Ludwig IV** còn gọi là **Ludwig der Bayer** (5 tháng 4 1282 ở München - 11 tháng 10, 1347 tại Puch gần Fürstenfeldbruck), xuất thân từ nhà Wittelsbach, là Vua La Mã Đức từ năm
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Maria Teresa của Napoli và Sicilia** (; ; tên đầy đủ: _Maria Teresa Carolina Giuseppina_; 6 tháng 6 1772 – 13 tháng 4 năm 1807) là Hoàng hậu La Mã Thần thánh cuối cùng và
**Marie Valerie của Áo** (tiếng Đức: _Marie Valerie von Österreich_; 22 tháng 4 năm 1868 – 6 tháng 9 năm 1924) là con út của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. Nữ
**Gisela của Áo** (tiếng Đức: _Gisela von Österreich_; 12 tháng 7 năm 1856 – 27 tháng 7 năm 1932) là con gái của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern và là Vương
**Amedeo của Bỉ** (**Amedeo Maria Joseph Carl Pierre Philippe Paola Marcus d'Aviano**, sinh ngày 21 tháng 2 năm 1986) là con trưởng của Vương nữ Astrid của Bỉ, Đại vương công phu nhân của Áo-Este
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
**Nữ Đại vương công Maria Anna của Áo** (Maria Anna Josepha Antonia; 6 tháng 10 năm 1738 - 19 tháng 11 năm 1789) là con thứ hai của Francis I và Maria Theresia. Vì là
**Maria Karolina Ernestina của Áo** (_Maria Karolina Ernestina Antonia Johanna Josefa_; 12 tháng 1 năm 1740 – 25 tháng 1 năm 1741) là người con thứ ba của Maria Theresia I của Áo, Hoàng hậu
**Maria Karolina của Áo** (sinh và mất ngày 17 tháng 9 năm 1748) là người con thứ mười và là con gái thứ bảy của Hoàng hậu Maria Theresia của Áo và Hoàng đế Franz
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
**Anna của Áo** (, ; 2 tháng 11 năm 1549 – 26 tháng 10 năm 1580), là Nữ Đại vương công Áo, sau thành Vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Karoline Auguste của Bayern** (tiếng Đức: _Karoline Auguste von Bayern_; 8 tháng 2 năm 1792 – 9 tháng 2 năm 1873) là Hoàng hậu Áo từ năm 1816, khi kết hôn với Hoàng đế Franz
**Charlotte của Áo** (tiếng Đức: _Charlotte von Österreich_; 1 tháng 3 năm 1921 – 23 tháng 7 năm 1989) là con gái của Karl I của Áo và Zita của Borbone-Parma. Charlotte còn được biết
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**August Wilhelm** là một hoàng thân nước Phổ. Ông sinh vào ngày 9 tháng 8 năm 1722 tại kinh thành Berlin, là con của Friedrich Wilhelm I của Phổ và Sophia Dorothea của Đại Anh,
**August Ferdinand của Phổ** (; 23 tháng 5 năm 1730 – 2 tháng 5 năm 1813) là Vương tử và tướng quân Phổ, cũng như là _Herrenmeister_ (Đại Hiệp sĩ) của Huân chương Thánh Johannis.
**Innsbruck** (, /ˈɪnʃprʊk/) là thủ phủ của bang Tirol miền tây nước Áo và là thành phố lớn thứ năm ở Áo. Thành phố này nằm ở vùng sông Inn giao với thung lũng Wipptal
**Năm 1292** là một năm trong lịch Julius. ## Sự kiện *Quân Mông Cổ đô bộ lên Java, chiếm kinh đô, nhưng đã không thể giữ ## Sinh * 20 tháng 1 - Elisabeth của
**Lịch sử Luxembourg** bao gồm lịch sử Luxembourg và khu vực địa lý của Luxembourg Mặc dù lịch sử ghi chép, Luxembourg có thể bắt nguồn từ thời La Mã (753 TCN – 476), nhưng
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
Cờ của hoàng tộc Habsburg Huy hiệu của hoàng tộc Habsburg thumb|Lâu đài Habsburg nguyên thủy, nơi phát tích gia tộc Habsburg, nay thuộc Thụy Sĩ **Nhà Habsburg** (tiếng Đức: _Haus Habsburg_ [ˈhaːpsbʊʁk]; tiếng Tây
**Anna xứ Schweidinitz** ( (còn được viết là **Anne** hoặc **Anna xứ Świdnica**, , , ) (1339, Świdnica – 1362, Praha)) là một Hoàng hậu của Đế chế La Mã Thần thánh với tư cách
**Elizabeth** hoặc **Elisabeth** là cách chuyển âm một tên gọi của nữ giới từ chữ Ἐλισάβετ, _Elisabet_ trong tiếng Hy Lạp. Tên này có nguồn gốc từ chữ **Elisheva** của người Do Thái có nghĩa