✨Vương tộc Habsburg

Vương tộc Habsburg

Cờ của hoàng tộc Habsburg Huy hiệu của hoàng tộc Habsburg thumb|Lâu đài Habsburg nguyên thủy, nơi phát tích gia tộc Habsburg, nay thuộc Thụy Sĩ

Nhà Habsburg (tiếng Đức: Haus Habsburg [ˈhaːpsbʊʁk]; tiếng Tây Ban Nha: Casa de Habsburgo [aβzˈβuɾɣo]; tiếng Hungary: Habsburg család; tiếng Anh: House of Habsburg), còn được gọi là Nhà Áo hay Vương tộc Áo (tiếng Đức: Haus Österreich; tiếng Tây Ban Nha: Casa de Austria), là một triều đại của người Đức từng là một trong những gia tộc vương thất nổi bật nhất của châu Âu trong thiên niên kỷ 2.

Vương tộc này được đặt theo tên của Lâu đài Habsburg, một pháo đài xây dựng bởi Radbot xứ Klettgau vào những năm 1020 ở Thụy Sĩ ngày nay. Cháu trai của ông là Otto II là người đầu tiên lấy tên pháo đài làm họ của mình và thêm từ Habsburg đằng sau tước vị, đây cũng là dấu mốc cho sự ra đời của Bá tước xứ Habsburg, nguồn gốc khởi đầu của các quân chủ Đế chế Habsburg trong suốt gần 1000 năm tiếp theo. Năm 1273, hậu duệ đời thứ 7 của Bá tước Radbot là Rudolph nhà Habsburg được bầu làm Vua của người La Mã Đức. Lợi dụng vương triều Babenberg tuyệt tự dòng nam kế vị và chiến thắng của ông trước Ottokar II của Bohemia trong trận chiến trên Marchfeld năm 1278, Rudolf I đã cho chuyển cơ sở quyền lực của gia tộc Habsburg đến Viên (thủ đô của Áo ngày nay), nơi các quân chủ Habsburg cai trị cho đến năm 1918.

Đế miện của Thánh chế La Mã liên tục thuộc về nhà Habsburg từ năm 1440 cho đến khi gia tộc này tuyệt tự dòng nam kế vị vào năm 1740, và sau cái chết của Franz I của Thánh chế La Mã, từ năm 1765 cho đến khi Đế quốc La Mã Thần thánh bị giải thể vào năm 1806, ngai vàng đế quốc đều thuộc về hậu duệ của Franz I và Maria Theresia của Áo, cuộc hôn nhân của họ đã tạo ra Vương tộc Habsburg-Lothringen, kế thừa huyết thống của Nhà Habsburg và Nhà Lorraine. Vương tộc này cũng sản sinh ra các vị vua của Bohemia, Hungary, Croatia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Galicia-Lodomeria. Quân chủ Habsburg còn cai trị một hệ thống các thuộc địa như Hà Lan Áo, nhiều Công quốc và Đại công quốc ở Bán đảo Ý, và vào thế kỷ XIX, các hoàng đế của Đế quốc Áo và Áo-Hung cũng như 1 vị hoàng đế của Mexico đều là người Nhà Habsburg. Vương tộc này cũng nhiều lần chia ra các chi nhánh song song, vì thế mà vào giữa thế kỷ XVI, Nhánh Tây Ban Nha Habsburg đã kế thừa quyền cai trị Đế quốc Tây Ban Nha, trong khi đó Habsburg Áo thì vẫn giữ quyền cai trị của tổ tiên ở Đế chế La Mã Thần thánh.

Các thành viên của gia đình Habsburg giám sát chi nhánh Áo của Huân chương Lông cừu vàng và Huân chương Hoàng gia Thánh George. Người đứng đầu gia đình hiện tại là Karl von Habsburg.

Lịch sử

Hoàng tộc này được lấy theo tên của Lâu đài Habsburg, một pháo đài được xây dựng vào những năm 1020 thuộc bang Aargau (Thuỵ Sĩ ngày nay). Bá tước Radbot xứ Klettgau đã đặt tên cho pháo đài của mình là Habsburg. Cháu trai của ông là Otto II là người đầu tiên lấy tên của pháo đài làm tên riêng của mình và thêm cụm từ “Bá tước Habsburg” vào tước phong của mình. Năm 1273, hậu duệ thứ 7 của Bá tước Radbot là Rudolph đã trở thành Hoàng đế của Đế chế La Mã Thần thánh. Ông đã chuyển trung tâm quyền lực của Hoàng gia Habsburg đến Công quốc Áo, nơi mà Nhà Habsburg cai trị cho đến năm 1918.

Một loạt các cuộc hôn nhân của người thuộc Hoàng tộc Habsburg với các hoàng gia khác đã giúp dòng họ này mở rộng phạm vi rộng lớn bao gồm Bourgogne, Tây Ban Nha và đế chế thuộc địa của nó, Bohemia, Hungary và các lãnh thổ khác. Vào thế kỷ 16, gia đình này tách ra thành các nhánh Habsburg của Tây Ban Nha là dòng chính và nhánh Habsburg của Áo là dòng phụ.

Hoàng tộc Habsburg tuyệt chủng dòng nam vào thế kỷ XVII, nhánh Habsburg Tây Ban Nha tuyệt dòng nam sau cái chết của vua Charles II vào năm 1700 và được thay thế bởi Nhà Bourbon. Nhánh Habsburg của Áo tuyệt chủng dòng nam vào năm 1740, sau cái chết của Hoàng đế La Mã Thần thánh Charles VI. Dòng này được kế thừa bởi con cháu của Maria Theresia (con gái lớn của Charles VI) khi bà kết hôn với Francis III – Công tước của Lorraine và Hoàng tộc này được gọi là Nhà Habsburg – Lorraine.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhà Habsburg là nơi phản đối kịch liệt Chủ nghĩa xã hội quốc gia và Chủ nghĩa cộng sản. Ở Đức, Adolf Hitler phản đối các nguyên tắc của Nhà Habsburg trong hàng thế kỷ trước đó về việc cho phép các cộng đồng địa phương dưới sự cai trị của họ duy trì các văn hoá dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ truyền thống, và ông ta mang trong mình lòng căm thù với gia đình Habsburg. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, có một phong trào kháng chiến Habsburg mạnh mẽ ở Trung Âu, đã bị khủng bố triệt để bởi Đức Quốc xã và Gestapo. Lãnh đạo không chính thức của các nhóm này là Otto von Habsburg, người đã vận động chống lại Đức Quốc xã và cho một Trung Âu tự do ở Pháp và Mỹ. Hầu hết các chiến binh kháng chiến, chẳng hạn như Heinrich Maier, người đã chuyển giao thành công địa điểm sản xuất và kế hoạch về tên lửa V-2, xe tăng Tiger và máy bay cho Đồng minh, đã được thực hiện. Gia đình Habsburg đóng vai trò hàng đầu trong sự sụp đổ của Bức màn sắt và sự sụp đổ của Khối Cộng sản Đông Âu.

Đế chế Habsburg có lợi thế về quy mô, nhưng cũng có nhiều nhược điểm. Có đối thủ ở 4 phía, tài chính không ổn định, dân số gồm nhiều sắc tộc và cơ sở công nghiệp mỏng. Nguồn lực hải quân của nó hạn chế nên nó đã không cố gắng xây dựng một đế chế ở nước ngoài. Nó có lợi thế về các nhà ngoại giao giỏi, điển hình là Hoàng tử Metternich; họ có một chiến lược vĩ đại để tồn tại giúp đế chế tiếp tục tồn tại bất chấp các cuộc chiến tranh với Ottoman, Frederick Đại đế, Napoléon và Bismarck, cho đến thảm họa cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cùng với triều đại Capetian, hoàng tộc đối địch truyền thống của Nhà Habsburg, nó là một trong hai triều đại hoàng gia châu Âu lâu đời nhất và cũng là một trong những triều đại hùng mạnh nhất, đóng vai trò quan trọng trong nền chính trị châu Âu trong gần 5 thế kỷ.

Vua La Mã và sự hợp nhất lãnh thổ ở Đông Alps

thumb|[[Vương miện Đế chế Áo|Vương miện Hoàng gia của Quân chủ Habsburg sử dụng khi được bầu lên ngôi Hoàng đế La Mã Thần thánh, sau này nó trở thành vương miện của Đế quốc Áo và Áo-Hung cho đến khi đế chế này chấm dứt tồn tại vào năm 1918]] Vào nửa sau thế kỷ XIII, hậu duệ thứ 7 của Bá tước Radbot là Bá tước Rudolf IV (1218 - 1291), đã trở thành một trong những lãnh chúa có ảnh hưởng nhất đến lãnh thổ ở khu vực giữa Dãy núi Vosges và Hồ Constance, do điều này nên ngày 01/10/1273, Rudolph được bầu chọn làm Vua của Đế chế La Mã với đế hiệu là Rudolf I.

Một bước đi quan trọng hướng đến việc thiết lập một lãnh thổ quyền lực của riêng mình ở Đông Alps, Rudolph đã dẫn đầu liên minh chống lại vua Ottokar II của Bohemia, người đã lợi dụng Great Interregnum để mở rộng lãnh thổ về phía Nam, trước tiên chiếm lấy Babenberg (Áo, Styria, Savinja) và sau đó thừa kế Spanheim (Carinthia và Carniola). Năm 1278, Ottokar bị đánh bại và bị giết trong Trận Marchfeld. Các vùng đất mà ông đã có trong những thập kỷ trước được nhập vào Đế chế La Mã Thần thánh. Năm 1282, Nhà Habsburg giành được cho mình quyền cai trị các Công quốc Áo và Styria liên tục trong hơn 600 năm, cho đến năm 1918. Các lãnh thổ phía Nam của vương quốc cũ của Ottokar gồm Carinthia, Carniola và Savinja được ông trao cho các đồng minh của mình.

Sau cái chết của Rudolph, Nhà Habsburg không thể duy trì vương quyền trong Đế chế. Trong những năm 1300, họ đã nỗ lực giành lấy vương quốc Bohemia, nhưng thất bại. Tuy nhiên, sự suy yếu của Nhà Gorizia trong cuộc chiến tranh giành quyền kế vị đã cho phép người Nhà Habsburg mở rộng lãnh thổ về phía Nam: Năm 1311, họ chiếm Savinja và sau cái chết của Henry của Bohemia năm 1335, họ chiếm Carniola và Carinthia. Năm 1369, họ nắm quyền Tyrol. Sau cái chết của Albert III của Gorizia năm 1374, họ giành được chỗ đứng đầu tiên tại vùng Biển Adriatic, ở trung tâm Istria (Mitterburg), và năm 1382 họ giành được Trieste. Trong khi đó, các lãnh thổ phát tích Nhà Habsburg ở Aargau, Thuỵ Sĩ đã mất vào tay của Liên minh Thuỵ Sĩ vào thế kỷ XIV.

Thông qua cuộc hôn nhân với Elisabeth của Luxembourg, con gái của Sigismund của Thánh chế La Mã vào năm 1437, Công tước Albert V (1397 - 1439) trở thành người cai trị Bohemia và Hungary. Năm sau, Albert V được bầu lên làm Hoàng đế của Thánh chế La Mã với đế hiệu là Albert II. Sau cái chết của ông trong cuộc chiến với người Ottoman năm 1439 và cái chết của con trai ông là Ladislaus Postumus năm 1457, Nhà Habsburg lại mất Bohemia và Hungary. Tuy mất quyền kiểm soát vùng lãnh thổ này trong nhiều thập kỷ, nhưng thông qua sự tuyệt tự dòng nam của Nhà Celje vào năm 1456 và Nhà Wallsee-Enns vào năm 1466/1483, người Nhà Habsburg đã nắm quyền thế tục các lãnh thổ rộng lớn của mình và tạo ra một vùng rộng lớn. Với cái chết của Ladislaus vào năm 1457, dòng Habsburg Albertine tuyệt diệt dần, và dòng Habsburg Leopoldian tiếp quản tất cả các tài sản của Hoàng tộc.

Đế chế đa ngôn ngữ

Khi vương tộc Habsburg trở thành một thế lực hùng mạnh ở Trung Âu với vương quyền và tước vị bao phủ cả trong và ngoài Đế chế La Mã Thần thánh, họ đã bắt đầu phát triển một truyền thống đa ngôn ngữ độc đáo qua nhiều thế kỷ. Trên thực tế, Đế chế La Mã Thần thánh ngay từ đầu đã thể hiện tính đa ngôn ngữ, mặc dù các hoàng đế của nó là những người nói tiếng Đức bản địa. Vấn đề ngôn ngữ trong Đế chế dần trở nên nổi bật hơn khi việc sử dụng tiếng Latinh không theo tôn giáo đã giảm mạnh và ngôn ngữ quốc gia trở nên nổi bật trong suốt giai đoạn Trung kỳ Trung Cổ. Hoàng đế Karl V được biết đến là người thông thạo tiếng Séc, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý và tiếng Latin.

Phần nội dung cuối trong Sắc chỉ vàng 1356, Hoàng đế Karl V đã chỉ rõ rằng, những người thừa kế Tuyển đế hầu "nên được giáo dục bằng nhiều loại phương ngữ và ngôn ngữ khác nhau", vì trên thực tế họ là người Đức nên sẽ nói tiếng Đức từ lúc nhỏ, ngoài ra họ cũng sẽ được hướng dẫn về ngữ pháp tiếng Ý và tiếng Slavơ, bắt đầu từ năm 7 tuổi đến năm 14 tuổi. Vào thế kỷ XV, Nhà biên niên sử Jakob Twinger von Königshofen đã khẳng định rằng Hoàng đế Charlemagne đã thông thạo 6 ngôn ngữ, mặc dù ông thích tiếng Đức hơn cả.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Cờ của hoàng tộc Habsburg Huy hiệu của hoàng tộc Habsburg thumb|Lâu đài Habsburg nguyên thủy, nơi phát tích gia tộc Habsburg, nay thuộc Thụy Sĩ **Nhà Habsburg** (tiếng Đức: _Haus Habsburg_ [ˈhaːpsbʊʁk]; tiếng Tây
**Nhà Habsburg-Lothringen** (tiếng Đức: _Haus Habsburg-Lothringen_; tiếng Pháp: _Maison de Habsbourg-Lorraine_; tiếng Anh: _House of Habsburg-Lorraine_) là hoàng tộc đứng đầu Quân chủ Habsburg, thay thế cho Nhà Habsburg đã tuyệt tự dòng nam sau
thumb|right|Ferdinand của Áo-Este (1754–1806) thumb|right|Francis IV của Áo-Este (1779–1846) thumb|right|Francis V của Áo-Este (1819–1875) thumb|right|Francis Ferdinand của Áo-Este (1863–1914) thumb|right|Robert của Áo-Este (1915–1996) **Đại công tước của Áo-Este** (; ), or **Habsburg-Este** (), là một
**Nhà Lorraine** (tiếng Đức: _Haus Lothringen_; tiếng Pháp: _Maison de Lorraine_; tiếng Anh: _House of Lorraine_) là một hoàng tộc có nguồn gốc từ nhánh dưới của Nhà Metz, được thừa kế Công quốc Lorraine
**Vương tộc Borbón**, hay **Borbón-Anjou**, là vương tộc hiện đang trị vì Tây Ban Nha, xuất phát từ Vương tộc Bourbon có nguồn gốc từ Pháp, khi Philippe của Pháp, Công tước xứ Anjou trở
**Nhà Liechtenstein** (tiếng Đức: _Haus Liechtenstein_) là gia tộc hoàng gia cai trị Thân vương quốc Liechtenstein, theo luật định, chỉ có những thành viên gia tộc này mới đủ điều kiện thừa kế ngai
thumb|Một chiếc mũ (_coronet_) của Đại công tước Áo. **Đại vương công Áo** (tiếng Đức: _Erzherzog_, dạng nữ: _Erzherzogin_), nhiều tài liệu còn dịch là **Đại công tước Áo**, là tước hiệu có từ năm
**Vương quốc Lombardo–Veneto** (, ; ) là một vùng đất cấu thành (Lãnh thổ vương quyền) nên Đế quốc Áo, ra đời từ năm 1815 đến năm 1866. Nó được thành lập vào năm 1815
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng
**Nhà Orange-Nassau** (tiếng Hà Lan: _Huis van Oranje-Nassau_, ), là vương tộc đang trị vì Vương quốc Hà Lan hiện nay. Nó vốn là một chi nhánh của Nhà Nassau, gia tộc sở hữu một
**Nhà Bonaparte** (ban đầu được viết là "Buonaparte") là một cựu hoàng gia và vương triều châu Âu có nguồn gốc từ Genova. Nó được thành lập vào năm 1804 bởi Hoàng đế Napoleon, người
**Vương tộc Trastámara** (tiếng Tây Ban Nha, tiếng Aragón và tiếng Catalan: _Casa de Trastámara_; tiếng Anh: _House of Trastámara_) là một triều đại từng cai trị Vương quyền Castilla và sau đó mở rộng
**Triều đại Tudor** hoặc **Nhà Tudor** là một Vương thất châu Âu có nguồn gốc từ xứ Wales. Từ năm 1485 đến 1603, Nhà Tudor cai trị Vương quốc Anh và các lãnh thổ, trong
thumb|Gia huy của Vương tộc Borbone-Parma **Vương tộc Borbone-Parma** (tiếng Ý: _Casa di Borbone di Parma_; tiếng Tây Ban Nha: _Casa de Borbón-Parma_; tiếng Pháp: _Maison de Bourbon-Parme_; tiếng Anh: _House of Bourbon-Parma_) là một
**Nhà Valois-Burgundy** (tiếng Pháp: _Maison de Valois-Bourgogne_; tiếng Hà Lan: _Huis van Valois-Bourgondië_), hay **Nhà Burgundy trẻ**, là một gia đình quý tộc Pháp có nguồn gốc từ Vương tộc Valois. Nó khác với Nhà
nhỏ|Hoàng tử Otto của Áo và vợ là Công chúa Regina của Saxe-Meiningen đang yên nghỉ trong nhà thờ Capuchin, Vienna, treo cờ Habsburg. Các phù hiệu của các huân chương và trang trí khác
**Nhà Bragança** (tiếng Bồ Đào Nha: _Casa de Bragança_; tiếng Anh: _House of Braganza_) là một hoàng tộc sản sinh ra các hoàng đế, thân vương và công tước gốc Bồ Đào Nha trị vì
**Nhà Wittelsbach** là một trong những hoàng tộc châu Âu lâu đời nhất và là một triều đại Đức ở Bayern. Xuất phát từ nhà này là các bá tước, công tước, tuyển hầu tước
**Nhà Zähringen** (tiếng Đức: _Zähringer_) là một triều đại của giới quý tộc Swabia. Tên của gia tộc này bắt nguồn từ Lâu đài Zähringen gần Freiburg im Breisgau. Những người đứng đầu Nhà Zähringer
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
**Maximilian II** (31 tháng 7 năm 1527 – 12 tháng 10 năm 1576) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1564 cho đến khi ông qua đời năm 1576. Là thành viên của
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Karl Joseph Emanuel của Áo** (tên đầy đủ tiếng Đức là _Carl Josef Emanuel Johann Nepomuk Anton Prokop von Österreich_; 1 tháng 2 năm 1745 – 18 tháng 1 năm 1761), là đứa con thứ
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Maximilian Franz của Áo**, (tên đầy đủ tiếng Đức là _Maximilian Franz Xaver Joseph Johann Anton de Paula Wenzel von Österreich_; 8 tháng 12 năm 1756 – 27 tháng 7 năm 1801), là Tuyển hầu
**Lanzelin** (khoảng 940-981/991) là một quý tộc người Đức và là tổ tiên của Nhà Habsburg. Cha của ông là Guntram Giàu có, một nhà quý tộc quyền lực. Ông kết hôn với Liutgarda xứ
thumb|[[Philippe Tốt bụng|Philip III, Công tước xứ Burgundy, với cổ áo mang Huân chương Lông cừu vàng (bức chân dung của Rogier van der Weyden, năm 1450)]] **Huân chương Vinh danh Lông cừu vàng** (tiếng
**Maria Anna của Áo** (tiếng Đức: _Maria Anna von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _Mariana de Austria_; tiếng Anh: _Mariana of Austria_; 24 tháng 12 năm 163416 tháng 5 năm 1696) là vương hậu của
**Maria Elisabeth của Áo** (Maria Elisabeth Josepha Johanna Antonia; sinh ngày 13 tháng 8 năm 1743 - mất 22 tháng 9 năm 1808) là con thứ sáu và con gái thứ ba còn sống đến
thumb|Triều đình Hoàng gia của [[Maria Theresia của Áo|Maria Theresia ở Hofburg, Vienna, Đại công quốc Áo]] **Quý tộc Áo** (tiếng Đức: _österreichischer Adel_; tiếng Anh: _Austrian nobility_) là một nhóm tầng lớp có địa
**Maria Antonia Josepha của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia Josepha von Österreich_; tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Josefa de Austria_; tiếng Anh: _Maria Antonia Josepha of Austria_; 18 tháng 1 năm 1669 – 24
**Leopoldo II** (tiếng Ý: _Leopoldo Giovanni Giuseppe Francesco Ferdinando Carlo_; tiếng Đức: _Leopold Johann Joseph Franz Ferdinand Karl_; tiếng Anh là _Leopold John Joseph Francis Ferdinand Charles_; 3 tháng 10 năm 1797 – 29 tháng
**Giáo phận Vương quyền Salzburg** (tiếng Đức: _Fürsterzbistum Salzburg_) là một Điền trang hoàng gia và nhà nước giáo hội của Đế quốc La Mã Thần thánh. Nó là một lãnh thổ thế tục được
**Lâu đài Habsburg** (tiếng Đức: _Schloss Habsburg_; tiếng Anh: _Habsburg Castle_) là một pháo đài thời trung cổ nằm ở khu vực ngày nay là Habsburg, Brugg, thuộc bang Aargau, Thuỵ Sĩ, gần sông Aar.
**Karoline Auguste của Bayern** (tiếng Đức: _Karoline Auguste von Bayern_; 8 tháng 2 năm 1792 – 9 tháng 2 năm 1873) là Hoàng hậu Áo từ năm 1816, khi kết hôn với Hoàng đế Franz
**Maria Teresa của Napoli và Sicilia** (; ; tên đầy đủ: _Maria Teresa Carolina Giuseppina_; 6 tháng 6 1772 – 13 tháng 4 năm 1807) là Hoàng hậu La Mã Thần thánh cuối cùng và
**Dona Maria Leopoldine của Áo** (22 tháng 1 năm 1797 – 11 tháng 12 năm 1826) là Hoàng hậu đầu tiên của Đế quốc Brasil với tư cách là vợ của Hoàng đế Dom Pedro
nhỏ|240x240px| Cung điện Habsburg ở Cieszyn **Habsburg Hunting Palace** là một cung điện cổ điển được xây dựng từ năm 1838 đến năm 1840 tọa lạc tại Cieszyn, Ba Lan. Cung điện được thiết kế
**Maria Anna Karolina của Áo** (27 tháng 10 năm 1835 – 5 tháng 2 năm 1840) là thành viên của Vương tộc Habsburg. Maria Anna Karolina là đứa con thứ tư và là con gái
**Franz Karl Joseph của Áo** (17 tháng 12 năm 1802 - 8 tháng 3 năm 1878) là thành viên của Vương tộc Habsburg-Lothringen. Ông là cha của hai hoàng đế: Franz Joseph I của Áo
**Bá quốc Zeeland** (tiếng Hà Lan: Graafschap Zeeland; tiếng Anh: County of Zeeland) là một Bá quốc của Đế chế La Mã Thần thánh ở Vùng đất thấp. Nó bao phủ một khu vực ở
**Elisabeth của Áo** (31 tháng 5 năm 1922 – 6 tháng 1 năm 1993) là thành viên của Vương tộc Habsburg-Lothringen. Elisabeth là con gái út của Karl I của Áo và Zita của Borbone-Parma.
**Radbot, Bá tước xứ Klettgau** (khoảng 985 – 1045) là _Graf_ (Bá tước) của Bá quốc Klettgau, nằm trên sông High Rhine ở Swabia. Radbot là một trong những tổ tiên của Vương tộc Habsburg,
**Karl Thomas Robert Maria Franziskus Georg Bahnam Habsburg-Lothringen** (sinh ngày 11 tháng 1 năm 1961), đôi khi được gọi tắt là **Karl von Habsburg**, hoặc được biết với danh vị **Đại vương công Karl của
**Otto von Habsburg**, tên đầy đủ là **Franz Joseph Otto Robert Maria Anton Karl Max Heinrich Sixtus Xavier Felix Renatus Ludwig Gaetan Pius Ignatius** (20 tháng 11 năm 1912 – 4 tháng 7 năm 2011)
**Guntram Giàu có** (tiếng Latinh: _Guntramnus Dives_, tiếng Đức: _Guntram der Reiche_, tiếng Pháp: _Gontran le Riche_; c. 920 – 26 tháng 3 năm 973) là một bá tước ở Breisgau, thành viên của gia