✨Huân chương Lông cừu vàng

Huân chương Lông cừu vàng

thumb|[[Philippe Tốt bụng|Philip III, Công tước xứ Burgundy, với cổ áo mang Huân chương Lông cừu vàng (bức chân dung của Rogier van der Weyden, năm 1450)]] Huân chương Vinh danh Lông cừu vàng (tiếng Tây Ban Nha: Insigne Orden del Toisón de Oro, tiếng Đức: Orden vom Goldenen Vlies) là một Huân chương hiệp sĩ Công giáo được Philippe Tốt bụng, Công tước xứ Burgundy, lập ra ở Bruges (thuộc Vương quốc Bỉ ngày nay) vào năm 1430, để kỷ niệm cuộc hôn nhân của ông ấy với Isabella của Bồ Đào Nha. Ngày nay, hai nhánh của huân chương tồn tại độc lập nhau, đó là Lông cừu vàng Tây Ban Nha và Lông cừu vàng Áo; người đứng đầu và có quyền trao huân chương ở Tây Ban Nha là Felipe VI, Vua Tây Ban Nha và ở Áo là Karl von Habsburg, người đứng đầu Nhà Habsburg-Lorraine. Tổng Tuyên úy của chi nhánh Áo là Đức Hồng y Christoph Schönborn, Tổng Giám mục Viên, Áo.

Sự tách biệt của hai nhánh huân chương diễn ra do kết quả của Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Người đứng đầu của huân chương là Carlos II của Tây Ban Nha (thuộc Nhà Habsburg) đã qua đời vào năm 1700 mà không để lại người kế vị, và vì vậy việc kế vị ngai vàng của Tây Ban Nha và Huân chương Lông cừu vàng đã khơi mào một cuộc xung đột toàn cầu. Một mặt, Hoàng tử Karl, em trai của Joseph I Hoàng đế La Mã Thần thánh, đã tuyên bố vương quyền Tây Ban Nha thuộc về mình với tư cách là một thành viên quan trọng của Vương tộc Habsburg, giữ ngai vàng Tây Ban Nha trong gần hai thế kỷ. Tuy nhiên, vị vua quá cố của Tây Ban Nha đã chỉ định Hoàng tử Philip, Công tước xứ Anjou của Vương tộc Bourbon, cháu trai của chị gái ông, làm người kế vị theo di chúc. Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1714, Philip được công nhận là vua của Tây Ban Nha nhưng, Hà Lan thuộc Tây Ban Nha - vùng lãnh thổ cũ của Burgundia, đã rơi vào tay người Nhà Habsburg của Áo. Do đó, hai triều đại, cụ thể là Bourbons của Tây Ban Nha và Habsburgs của Áo, kể từ đó các quân chủ của vương tộc Habsburg vẫn tiếp tục ban hành các phiên bản riêng biệt của Huân chương lông cừu vàng.

Lông cừu vàng đã được xem là Huân chương hiệp sĩ có uy tín và lịch sử lâu dài nhất trên thế giới. Vào năm 1789, Jean-François de Bourgoing đã viết rằng "số lượng hiệp sĩ của Lông cừu vàng rất hạn chế ở Tây Ban Nha, và đây là huân chương ở châu Âu, đã bảo tồn tốt nhất vẻ huy hoàng cổ đại của nó". Mỗi chiếc huân chương được làm bằng vàng nguyên khối và ước tính trị giá khoảng 50.000 euro vào năm 2018, khiến nó trở thành Huân chương đắt nhất. Các nhân vật hiện nay đang giữ Huân chương Hiệp sĩ Lông cừu vàng bao gồm Nhật hoàng Akihito của Nhật Bản, cựu Sa hoàng Simeon của Bulgaria, và Nữ vương Beatrix của Hà Lan, cùng 13 cá nhân khác. Hiệp sĩ của nhánh Áo bao gồm 33 nhà quý tộc và hoàng thân của các vùng lãnh thổ nhỏ ở Trung Âu, hầu hết trong số họ có nguồn gốc Đức hoặc Áo.

Nguồn gốc

Huân chương Lông cừu vàng được thành lập vào ngày 10 tháng 01 năm 1430, bởi Philip Tốt bụng, Công tước xứ Burgundy (nhân dịp đám cưới của ông với Isabella của Bồ Đào Nha), để kỷ niệm quyền cai trị một lãnh thổ rộng lớn chạy từ Flanders đến Thụy Sĩ thống nhất dưới hình thức Liên minh cá nhân do ông nắm giữ. Gã hề và người lùn Madame d'Or đã biểu diễn trong buổi ra mắt của Huân chương Lông cừu vàng, được tổ chức ở Bruges. Huân chương được giới hạn số lượng hiệp sĩ, ban đầu là 24 nhưng đã tăng lên 30 vào năm 1433, và 50 vào năm 1516, bao gồm cả người đứng đầu của Huân chương. King of arms đầu tiên của huân chương là Jean Le Fèvre de Saint-Remy. Nó nhận được những đặc quyền khác khau đối với bất kỳ huân chương hiệp sĩ nào: chủ quyền tiến hành tham khảo đề xuất trước khi quyết định; tất cả các tranh chấp giữa các hiệp sĩ phải được giải quyết theo lệnh; ở mỗi chương, những việc làm của mỗi hiệp sĩ được tổ chức xem xét, và những hình phạt và lời khuyên răn được xử lý đối với những kẻ phạm tội, và vì điều này mà chủ quyền rõ ràng phải tuân theo; các hiệp sĩ có thể tuyên bố quyền được xét xử bởi các đồng sự của họ về tội nổi loạn, dị giáo và phản quốc, và Karl V trao quyền tài phán duy nhất đối với tất cả các tội ác của các hiệp sĩ; Việc bắt giữ kẻ phạm tội phải có lệnh của ít nhất sáu hiệp sĩ ký, và trong quá trình buộc tội và xét xử, anh ta không phải ở trong tù mà trong sự quản thúc nhẹ nhàng của các hiệp sĩ đồng nghiệp của mình. đã bị từ chối một cách rõ ràng đối với những kẻ dị giáo, và do đó đã trở thành một vinh dự độc quyền của Công giáo trong suốt thời kỳ Cải cách Kháng nghị. Các cơ quan quản lý Huân chương là thủ hiến, thủ quỹ, hộ tịch viên và "king of arms" (herald, toison d'or).

Huân chương nhánh Tây Ban Nha

Grand master của Huân chương

Thành viên còn sống

Huy hiệu của Huân chương Lông cừu vàng Tây Ban Nha

Huân chương nhánh Áo

Grand master của Huân chương

Thành viên còn sống

Cơ quan quản lý

Phù hiệu

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|[[Philippe Tốt bụng|Philip III, Công tước xứ Burgundy, với cổ áo mang Huân chương Lông cừu vàng (bức chân dung của Rogier van der Weyden, năm 1450)]] **Huân chương Vinh danh Lông cừu vàng** (tiếng
**Huân chương** là một vật thể vinh dự do một quốc gia có chủ quyền, vua, triều đại hoàng gia hoặc tổ chức trao tặng cho một người, nhằm ghi nhận công lao của cá
**María Isabel Francisca de Asís của Tây Ban Nha, Isabel của Tây Ban Nha hay Isabel de Borbón y Borbón** (; 20 tháng 12 năm 1851 – 22 tháng 4 năm 1931) là con gái

Tiếng Anh: John Nepomuk Maria Joseph Anthony Xavier Vincent Aloysius Francis de Paula Stanislaus Bernard Paul Felix Damasus | kiểu hoàng tộc = Vương tộc | hoàng tộc = Nhà Wettin | cha =
**Simeon Borisov Sakskoburggotski** (tiếng Bulgaria: _Симеон Борисов Сакскобургготски_, chuyển tự _Simeon Borisov Sakskoburggotski_, ; sinh ngày 16 tháng 6 năm 1937) là một chính trị gia người Bulgaria, và là sa hoàng cuối cùng của
**Francisco de Asís của Tây Ban Nha** (Francisco de Asís María Fernando de Borbón y Borbón-Dos Sicilias; 13 tháng 5 năm 1822 – 17 tháng 4 năm 1902), Công tước xứ Cádiz, là Vương quân
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**Leonor của Tây Ban Nha, Nữ Thân vương xứ Asturias** (tên đầy đủ: **Leonor de Todos los Santos de Borbón y Ortiz**; sinh ngày 31 tháng 10 năm 2005) là con trưởng của Quốc vương
**Alfonso Pío của Tây Ban Nha, Thân vương xứ Asturias** (10 tháng 5 năm 1907 – 6 tháng 9 năm 1938) là con trai cả của vua Alfonso XIII Tây Ban Nha và Vương hậu
**Công tước Heinrich xứ Mecklenburg-Schwerin** (tiếng Đức: _Heinrich Wladimir Albrecht Ernst_; tiếng Hà Lan: _Hendrik Vladimir Albrecht Ernst_; 19 tháng 4 năm 1876 – 3 tháng 7 năm 1934) là Vương tế của Hà Lan
**Henri V của Pháp và Navarra** (_Henri Charles Ferdinand Marie Dieudonné d'Artois de France_ – 29 tháng 9 năm 1820 – 24 tháng 8 năm 1883), được biết nhiều nhất bởi tước vị Công tước
**Jacobo Fitz-James Stuart y Falcó, Công tước thứ 17 xứ Alba, Công tước thứ 10 xứ Berwick**, GE (17 tháng 10 năm 1878 – 24 tháng 9 năm 1953) là một quý tộc, nhà ngoại
**James Francis (Jacobo Francisco) Fitz-James Stuart, Công tước thứ 2 xứ Berwick, Công tước thứ 2 xứ Liria và Xérica** (Saint-Germain-en-Laye, Vương quốc Pháp, ngày 21 tháng 10 năm 1696 – Napoli, Ý, ngày 2
**Anton Florian** (28 tháng 5 năm 1656 – 11 tháng 10 năm 1721) là Thân vương có chủ quyền đầu tiên của xứ Liechtenstein, ông tại vị từ năm 1719 đến năm 1721. Anton Florian
nhỏ|upright|Huân chương Presidential Medal of Freedom **Huân chương Tự do của Tổng thống** (Tiếng Anh: _Presidential Medal of Freedom_) là một huân chương của Tổng thống Hoa Kỳ dùng để trao tặng cho những _đóng
**Bảo quốc Huân chương** là huân chương cao quý nhất của Quốc Gia Việt Nam, được Việt Nam Cộng hòa kế thừa, dành tưởng thưởng cho các quân nhân trong tất cả binh chủng hay
**Johann I Joseph**' (Tiếng Đức: _Johann Baptist Josef Adam Johann Nepomuk Aloys Franz de Paula_; 26 tháng 6 năm 1760 – 20 tháng 4 năm 1836) là Thân vương đời thứ 11 của xứ Liechtenstein,
**Ferdinand I của Bulgaria** (Tiếng Bulgaria: ; 26/02/1861 - 10/09/1948),, tên khai sinh là **Ferdinand Maximilian Karl Leopold Maria von Sachsen-Coburg und Gotha**, là vị Vương công thứ hai của Thân vương quốc Bulgaria từ
**Maximilian Joseph xứ Bayern** (gọi đúng hơn là **Maximilian Joseph tại Bayern**; tiếng Đức: _Maximilian Joseph in Bayern_; 4 tháng 12 năm 1808 – 15 tháng 11 năm 1888), thường gọi là **Max tại Bayern**,
**Wilhelm, Thái tử Đức và Phổ** (tiếng Đức: _Wilhelm, Kronprinz von Deutschland und Preußen_; tiếng Anh: _Wilhelm, Crown Prince of Germany and Prussia_) (6 tháng 5 năm 1882 - 20 tháng 7 năm 1951) là
**Rudolf của Áo** (_Rudolf Franz Karl Josef_; 21 tháng 8 năm 1858 – 30 tháng 1 năm 1889) là người con thứ ba và là con trai duy nhất của Hoàng đế Franz Joseph I
**Franz Joseph I Karl của Áo** - tiếng Đức, **I. Ferenc Jozséf** theo tiếng Hungary, còn viết là **Franz Josef I** (18 tháng 8 năm 1830 - 21 tháng 11 năm 1916) của nhà Habsburg
**Karl I xứ Liechtenstein** (30 tháng 7 năm 1569 – 12 tháng 2 năm 1627), là thành viên đầu tiên của Gia tộc Liechtenstein trở thành Thân vương xứ Liechtenstein, do đó ông là người
**Johann II xứ Leichtenstein** (_Johann Maria Franz Placidus_; 5 tháng 10 năm 1840 - 11 tháng 2 năm 1929), biệt danh là **Johann Người tốt** (tiếng Đức: _Johann II. Der Gute_), là Thân vương xứ
**Đại vương công George Alexandrovich của Nga** (tiếng Nga: _Георгий Александрович_; 9 tháng 5 năm 1871 – 10 tháng 7 năm 1899) là thành viên của Vương tộc Romanov và là người con thứ 3
**Aloys I** (tiếng Đức: _Aloys Josef Johannes Nepomuk Melchior_; 14 tháng 5 năm 1759 – 24 tháng 3 năm 1805) là Thân vương thứ 10 của xứ Liechtenstein, tại vị từ ngày 18 tháng 8
**Huân chương dũng cảm** của Vương quốc Serbia được xác lập ngày 14 tháng 11 năm 1912, trao cho những người thể hiện lòng dũng cảm xuất sắc trên chiến trường trong Chiến tranh Balkan
Dom **Pedro I** (tiếng Việt:Phêrô I; 12 tháng 10 năm 1798 – 24 tháng 9 năm 1834), biệt danh "Người Giải phóng", là người thành lập và nhà cai trị đầu tiên của Đế quốc Brasil. Với
**Edward VIII của Anh** (Edward Albert Christian George Andrew Patrick David; 23 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 5 năm 1972) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của
**Edward VII của Anh** (Albert Edward; 9 tháng 11 năm 1841 – 6 tháng 5 năm 1910) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn
**João VI** hoặc **John VI** (tiếng Bồ Đào Nha: **João VI**; – ), biệt danh là "the Clement", là vua của Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve từ năm 1816 đến năm
, huý danh là , là vị Thiên hoàng thứ 124 của Nhật Bản theo danh sách Thiên hoàng truyền thống. Ông là Thiên hoàng từ năm 1926 đến 1989, có thời gian trị vì
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
**Napoléon II** (_Napoléon François Joseph Charles Bonaparte_; 20 tháng 3 năm 1811 – 22 tháng 7 năm 1832) là Hoàng đế Pháp (tranh chấp) trong vài tuần vào năm 1815. Là con trai của Hoàng
**Napoléon III** hay **Napoléon Đệ tam**, cũng được biết như **Louis-Napoléon Bonaparte** (tên đầy đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte) (20 tháng 4 năm 1808 – 9 tháng 1 năm 1873) là tổng thống đầu tiên
**Amadeo I** (tiếng Ý: _Amedeo_, đôi khi được Latinh hóa thành _Amadeus_; tên đầy đủ: _Amedeo Ferdinando Maria di Savoia_; 30 tháng 5 năm 1845 – 18 tháng 1 năm 1890) là một vương tử
**Carlo Alberto I của Sardegna** (tiếng Anh: _Charles Albert_; 2 tháng 10 năm 1798 - 28 tháng 7 năm 1849) là Vua của Sardinia từ ngày 27 tháng 4 năm 1831 cho đến khi tuyên
_Dom_ **Manuel II của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha phát âm: [mɐnuɛɫ]; tiếng Anh: Emmanuel II, 15 tháng 11 năm 1889 - 2 tháng 7 năm 1932), có biệt danh là **"Người Ái
là vị Thiên hoàng thứ 123 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 30 tháng 7 năm 1912, tới khi qua đời năm 1926. Tên húy của Thiên
**Ernst Ludwig** (; 25 tháng 11 năm 1868 – 9 tháng 10 năm 1937) là Đại công tước cuối cùng của Hessen và Rhein, trị vì từ năm 1892 đến năm 1918, vào cuối Chiến
**Nicolas Sarkozy** (IPA: nikɔˈla saʁkɔˈzi - ), sinh ngày 28 tháng 1 năm 1955 với tên **Nicolas Paul Stéphane Sarközy de Nagy-Bocsa**, là cựu tổng thống Pháp. Sarkozy kế nhiệm Jacques Chirac vào ngày 16
**Alfred của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (Alfred Ernest Albert; 6 tháng 8 năm 1844 – 30 tháng 7 năm 1900) là thành viên của Vương thất Anh và là Công
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Charles X** (Charles Philippe; 9 tháng 10 năm 1757 – 6 tháng 11 năm 1836) là Vua của Pháp từ ngày 16 tháng 9 năm 1824 đến khi thoái vị vào ngày 2 tháng 8
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Louis XVI của Pháp** (23 tháng 8 năm 1754 – 21 tháng 1 năm 1793) là quân vương nhà Bourbon, cai trị nước Pháp từ năm 1774 đến 1792, rồi bị xử tử hình năm
**Friedrich Wilhelm IV** (15 tháng 10 năm 1795 – 2 tháng 1 năm 1861) là vua nước Phổ từ ngày 4 tháng 6 năm 1840 cho đến khi băng hà vào ngày 2 tháng 1
**Hình Phước Long**, sinh ngày 7 tháng 9 năm 1950, quê quán Ninh Hòa, Khánh Hòa là nhạc sĩ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (2017). ## Sự
nhỏ|Hoàng Thái tử và vua cha [[Hirohito năm 1952]] là Thái thượng Thiên hoàng của Nhật Bản. Ông là vị Thiên hoàng thứ 125 theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, lên ngôi từ năm