✨Tsesarevich

Tsesarevich

phải|nhỏ|Cờ hiệu của một Tsesarevich Đế chế Nga. Tsesarevich (tiếng Nga: Цесаревич) là một tước hiệu được pháp luật công nhận vào năm 1797 và theo truyền thống được sử dụng chính thức bởi người thừa kế ngai vàng bao gồm cả người thừa kế ấn định hay giả định dựa trên điều luật Luật cơ bản Điều 145 của Đế chế Nga.

Lịch sử

Dưới thời Sa hoàng đầu tiên Mikhail I của Nga, các tước hiệu Tsarevich/Tsarevna theo truyền thống sẽ được phong cho tất cả các hậu duệ hợp pháp của một quân vương trị vì tương tự như Hoàng tử/Công chúa trong các Vương quốc Châu âu khác. Tuy nhiên vào năm 1721, vào thời Pyotr I của Nga khi quyết định dừng sử dụng kính xưng Sa hoàng và bắt đầu chuyển sang sử dụng kính xưng Emperor (Hoàng đế) của Nga từ đó tước hiệu Tsesarevich dành cho nam giới và Tsesarevna dành cho phụ nữ đã được sử dụng bởi tất cả hậu duệ hợp pháp của Hoàng đế Nga. Tuy nhiên, dưới thời Pyotr I tước hiệu Tsesarevich không có người sử dụng vì người con trai duy nhất của ông, Aleksey Petrovich đã qua đời vào năm 1718 và các con gái còn sống của Pyotr I đều được phong là một Tsesarevna mặc dù họ được gọi một cách rộng rãi hơn là Đại công tước. Song, tước vị này vẫn giống TsarevichTsarevna nó chỉ dùng để phong cho các hậu duệ hợp pháp của Hoàng đế Nga bao gồm cả trữ quân ngai vàng, không phải là một tước hiệu riêng biệt ám chỉ người thừa kế.

Tước vị Tsesarevich/Tsesarevna được tạo ra cho người thừa kế vào năm 1762, khi Pyotr III lên ngôi, ông đã phong cho con trai cả của mình Pavel Petrovich (sau là Pavel I) tước hiệu Tsesarevich và trở thành người đầu tiên trong Vương tộc Romanov được tấn phong tước hiệu này. Tuy nhiên, vào thời điểm danh hiệu được phong tặng, Paul được công nhận là con trai hợp pháp của Pyotr III, nhưng không phải là người thừa kế hợp pháp của ông và sau này khi mẹ ông lật đổ cha ông, Paul cũng không được mẹ chính thức công nhận như vậy mà thay vào đó là tước hiệu Đại công tước Nga. Do đó, khi Pavel I lên ngôi ông đã ban hành Luật Pauline vào năm 1797, cấm phụ nữ kế vị ngai vàng, tuy nhiên trong những năm đầu tiên của Đế chế Nga, nữ giới trong Hoàng thất Nga vẫn được kế vị ngai vàng và tước hiệu Tsesarevna sẽ được ban cho một nữ giới sinh ra một cách hợp pháp là người thừa kế hoàng vị của ngai vàng Nga.

Năm 1796, Pavel I phong cho con trai ông Aleksandr Pavlovich (sau là Aleksandr I) trở thành Tsesarevich và chỉ một năm sau, tước hiệu này đã được pháp luật công nhận như một tước vị chính cho người thừa kế. Kể từ đó, con trai cả của mỗi hoàng đế đều mang tước hiệu cho đến năm 1894, khi Nikolai II tấn phong tước hiệu cho em trai ông, mặt dù Nikolai II vẫn có bốn cô con gái vào thời điểm đó nhưng luật pháp kế vị của Nga là tuyệt đối về quyền kế vị nam giới, vì vậy Đại vương công Georgy Aleksandrovich nắm giữ tước hiệu đó cho đến khi Aleksey Nikolayevich chào đời vào 12 tháng 8 [lịch cũ 30 tháng 7] năm 1904 về sau là Tsesarevich cuối cùng trong lịch sử nước Nga.

Danh xưng và sử dụng

Tsesarevich thông thường chỉ được sử dụng bởi một cá nhân trong hoàng thất cùng một thời điểm, nhưng nó thường bị nhẫm lẫn với tước hiệu Tsarevich vốn dịch sang tiếng Anh là Grand Duke hay Đại công tước trong tiếng Việt được sử dụng từ thời Mikhail I đến năm 1721 dành cho tất cả các hậu duệ nam hợp pháp của Hoàng đế Nga trị vì. Trước năm 1797, hậu duệ lớn nhất của Hoàng đế Nga là người thừa kế ngai vàng sẽ được phong Tsesarevich sử dụng cho nam và Tsesarevna sử dụng cho nữ. Tuy nhiên từ sau năm 1797, phụ nữ không được kế vị ngai vàng và Tsesarevna từ đó đã trở thành tước hiệu danh xưng dành cho vợ của các Tsesarevich. Không giống các tước hiệu dành cho người thừa kế của các Vương quốc Châu âu khác như: Thân vương xứ Wales, Thân vương xứ Asturias và Thân vương xứ Oranje...v.v được đặt theo các của tỉnh và thành phố rõ ràng, Tsesarevich không có lãnh địa ám chỉ, tước hiệu này thường được đặt trước tên của người được tấn phong, như trong trường hợp của Alexander Alexandrovich và Dagmar của Đan Mạch (sau là Aleksandr III và Hoàng hậu Mariya Fyodorovna) sẽ là Tsesarevich Aleksandr Aleksandrovich và Tsesarevna Mariya Fyodorovna. Nhưng với con trai của Nikolai II là Aleksey Nikolayevich, ông vốn vĩ là một Tsesarevich nhưng trong Đế chế Nga vào thời điểm đó, họ thường gọi ông là một Tsarevich của Nga, mặc dù sai với nghĩa gốc của nó nhưng với tư cách là một thái tử của Đế chế Nga tước hiệu đầy đủ của ông khi đó phải là Tsesarevich Aleksey Nikolayevich.

Tước hiệu này thường được sử dụng kèm với một kính xưng trang trọng như Imperial Highness.

Danh sách các Tsesarevich (Hoàng tộc Romanov)

Dưới đây là danh sách những người được phong Tsesarevich là người kế vị rõ ràng hay giả định cho ngài vàng Đế chế Nga:

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|Cờ hiệu của một Tsesarevich Đế chế Nga. **Tsesarevich** (tiếng Nga: _Цесаревич_) là một tước hiệu được pháp luật công nhận vào năm 1797 và theo truyền thống được sử dụng chính thức bởi người
**Alix của Hessen và Rhein** (tiếng Đức: _Alix von Hessen und bei Rhein_; tiếng Anh: _Alix of Hesse and by Rhine_; 6 tháng 6 năm 1872 – 17 tháng 7 năm 1918), còn được gọi
**Nikolai Aleksandrovich của Nga** (tiếng Nga: Николай Александрович) ( – ) là _tsesarevich_ tức Thái tử Nga từ năm 1855 đến năm 1865. Ông là con trai cả của Nga hoàng Alexander II và Marie
**Đại vương công George Alexandrovich của Nga** (tiếng Nga: _Георгий Александрович_; 9 tháng 5 năm 1871 – 10 tháng 7 năm 1899) là thành viên của Vương tộc Romanov và là người con thứ 3
nhỏ|360x360px|[[Nikolai II của Nga|Nikolai II, Sa hoàng cuối cùng của nước Nga]] **Sa hoàng** (tiếng Anh: _Tsar_; hay ; Tiếng Slav Giáo hội cổ: ц︢рь), còn gọi là **Nga hoàng**, là tước vị chính thức
**Thái tử** (chữ Hán: 太子), đầy đủ là **Hoàng thái tử** (皇太子) hay **Vương thái tử** (王太子), là danh vị dành cho Trữ quân kế thừa cho một vị Vua trong các quốc gia thuộc
**Hải chiến cảng Lữ Thuận** là trận hải chiến giữa Hải quân Đế quốc Nga và Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại cảng Lữ Thuận trong hai ngày 8 và 9 tháng 2 năm
**Nikolai II của Nga** cũng viết là **Nicholas II** ( , phiên âm tiếng Việt là **Nicôlai II Rômanốp** hay **Ni-cô-lai II**) (19 tháng 5 năm 1868 – 17 tháng 7 năm 1918) là vị
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
**Konstantin Pavlovich** (tiếng Nga: Константи́н Па́влович; 08 Tháng 5 năm 1779 (lịch cũ 27 tháng 4) - 27 tháng 6 năm 1831 (lịch cũ 15 tháng 6) là đại công tước của Nga và là
**Michał Franciszek Goleniewski** (16 tháng 8 năm 1922, Nesvizh - 12 tháng 7 năm 1993, New York) là sĩ quan tình báo Cộng hòa Nhân dân Ba Lan ( - PRL) đào tẩu sang Hoa
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Elizaveta Petrovna** (; - ), cũng được gọi là **Yelisavet** hay **Elizabeth**, là Nữ hoàng nước Nga từ năm 1741 đến khi qua đời năm 1762, tổng cộng 20 năm. Bà vẫn là một trong
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**SMS _Kronprinz**_ là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kronprinz_ được đặt lườn vào ngày tháng 11
**HMS _Dreadnought**_ là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vốn đã làm cuộc cách mạng về sức mạnh hải quân. Việc đưa nó vào hoạt động năm 1906 đánh dấu
**Alexandra của Đan Mạch** (Tên đầy đủ: Alexandra Caroline Marie Louise Charlotte Julia; 1 tháng 12 năm 1844 – 20 tháng 11 năm 1925) là Vương hậu Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc
**Aleksey Nikolayevich của Nga** () ( – 17 tháng 7 năm 1918) là thái tử (_tsesarevich_) cuối cùng của Đế quốc Nga. Ông là con út và là người con trai duy nhất của Hoàng
**Mikhail Vladimirovich Viktorov** (; 24 tháng 12 năm 1893 – 1 tháng 8 năm 1938) là một nhà lãnh đạo quân sự Nga và Tổng tư lệnh Lực lượng Hải quân Liên Xô từ tháng
**Kseniya Aleksandrovna của Nga** (tiếng Nga: _Ксения Александровна Романова_; 6 tháng 4 năm 1875 – 20 tháng 4 năm 1960) là thành viên của Vương tộc Romanov và là người con thứ 4 của Sa
**Đại vương công Aleksey Petrovich của Nga** hay **_Tsarevich_ Aleksey Petrovich của Nga** (tiếng Nga: _Алексей Петрович Романов_; 28 tháng 2 năm 1690 – 7 tháng 7 năm 1718) là Thái tử của Nga đồng
**Alfred của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha** (Alfred Ernest Albert; 6 tháng 8 năm 1844 – 30 tháng 7 năm 1900) là thành viên của Vương thất Anh và là Công
**Imperial Highness** (tiếng Pháp: _Altesse impériale_; tiếng Ý: _Altezza Imperiale_; tiếng Nga: _Императорское Высочество_; tiếng Đức: _Kaiserliche Hoheit_; tiếng Tây Ban Nha: _Alteza Imperial_) là một dạng kính ngữ tương tự _Royal Highness_, nhưng được