✨Mikhail Illarionovich Kutuzov

Mikhail Illarionovich Kutuzov

Mikhail Illarionovich Golenishchev-Kutuzov (hoặc Mikhain Illariônôvích Cutudốp trong các tài liệu tiếng Việt) (tiếng Nga: князь Михаи́л Илларио́нович Голени́щев-Куту́зов; 16 tháng 9 năm 1745 — 28 tháng 4 năm 1813) là một nhà quân sự, chính khách và nhà ngoại giao của nước Nga Sa Hoàng. Kutuzov đảm nhiệm nhiều chức vụ về quân sự, đối ngoại dưới thời nữ hoàng Ekaterina II (1762 - 1797), các vua Pavel I (1797 - 1801) và Aleksandr I (1801 - 1825), nổi bật là việc chỉ huy quân đội Nga trong chiến tranh Pháp-Nga (1812).

Mikhail Kutuzov sinh ra trong một gia đình quý tộc quân sự có truyền thống lâu đời; thời trẻ, ông từng tham gia các cuộc chiến với Ba Lan (1768), Thổ Nhĩ Kỳ (1768-1774; 1787-1792), lập chiến công nhưng mắt phải của ông bị thương nhiều lần dẫn đến mù vĩnh viễn. Sau đó, Kutuzov thực hiện các nhiệm vụ ngoại giao ở Ottoman, Phổ, và Thụy Điển. Năm 1805, ông làm tổng chỉ huy liên quân Nga-Áo chống lại quân đội Pháp của hoàng đế Napoléon I trong trận Austerlitz. Từ năm 1806-1812, Kutuzov chỉ huy quân Nga trong chiến tranh với Ottoman tại lưu vực sông Danube.

Trong cuộc chiến tranh Pháp-Nga năm 1812, Kutuzov được Nga hoàng Aleksandr I chọn làm tổng chỉ huy quân đội thay Barclay de Tolly. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân dân Nga đã đẩy lui quân đội Pháp ra khỏi lãnh thổ, tạo nên bước ngoặt của chiến tranh Napoléon trên toàn cõi châu Âu., và gây dựng thế lực trong xã hội Nga trong suốt nhiều trăm năm kế tiếp. Cha ông là thiếu tướng Illarion Matveevich Kutuzov, một sĩ quan công binh có 30 năm phục vụ trong quân đội Nga, từng tham gia các cuộc chiến tranh Nga-Ottoman dưới thời Nga hoàng Pyotr I (còn được gọi là Pyotr Đại Đế). Ông Illarion Matveevich từng đảm trách việc xây dựng nhiều công sự và kênh đào dưới triều đại của nữ hoàng Ekaterina II. Đặc biệt, ông từng được ban thưởng một hộp thuốc bằng vàng nạm kim cương sau khi xây dựng xong kênh đào Ekaterina (nay là kênh Griboedov ở Sankt-Peterburg). Mẹ ông xuất thân từ gia đình quý tộc Beklemishevskyi. Bản thân ông cũng có quan hệ thân thiết với hoàng tộc Romanov ngay từ lúc trẻ.

Là con cả trong gia đình, Mikhail Illarionovich có một người em trai tên Semiyon, hai người em gái Anna và Daria. Khi lên 6, mẹ ông qua đời khi sinh người con thứ năm. Sau đó, cha ông không tái hôn mà một mình nuôi dạy các con. Bản thân Illarion Matveevich là một người cha tốt, luôn chú trọng giáo dục kiến thức và truyền đạt sự ham học hỏi, yêu lao động cho các con của ông. Illarion Matveevich đặc biệt quan tâm đến cậu con trai cả Mikhail, vì ông từ nhỏ đã rất thông minh, lanh lợi và ham hiểu biết. Không phụ sự kì vọng gia đình, thành tích học tập của Mikhail luôn làm vui lòng cha và trở thành niềm tự hào của các gia sư.

Với tư chất thông minh hiếu học, nền tảng từ gia đình cùng đam mê đặc biệt với ngành công binh, Kutuzov nhanh chóng trở thành một học sinh nổi bật trong trường. Đồng thời, Mikhail cũng học thêm tiếng Pháp, tiếng La-tinh, tiếng Thổ, tiếng Anh, tiếng Thụy Điển và tiếng Ba Lan. Ông còn thể hiện niềm yêu thích trong các môn toán học, lịch sử, triết học và văn học; điều này giúp ông được tuyển vào lớp đặc biệt dành cho những học sinh ưu tú, nơi họ được học thêm các kiến thức như lịch sử quân sự, ngoại giao châu Âu. Đến tháng 12/1759, hiệu trưởng Pyotr Shuvalov đã bổ nhiệm Kutuzov làm trợ giảng môn số học và hình học, khi ông mới 14 tuổi.

Kutuzov là một thiếu niên vui vẻ, hơi lãnh đạm nhưng cũng hay nghịch ngầm: ông thường làm điệu bộ nhái theo các động tác "đặc trưng" của giáo viên và bạn bè trong trường, nhưng luôn được đánh giá cao về học lực, cũng như sự vui vẻ, thân thiện với mọi người.

Suvorov cũng sớm phát hiện và bồi dưỡng tài năng của Kutuzov. Ông kể cho Kutuzov nghe về con đường tiến thân của mình, giảng rằng sức mạnh của quân đội nằm ở binh lính, vì vậy cần phải làm cho người lính hiểu rõ về chiến tranh và sẵn sàng chiến đấu ngay trong thời bình. Suvorov đã dạy cho Kutuzov về các kĩ năng chỉ huy quân đội, sự cần thiết về tính đơn giản và chuẩn xác của mỗi mệnh lệnh trong tác chiến. Nguyên soái Suvorov cũng dạy cho cậu học trò của ông rằng trách nhiệm không thể thiếu của các sĩ quan lãnh đạo là phải quan tâm, chăm lo cho sức khỏe và đời sống của binh sĩ, phải gần gũi với các thuộc cấp và phải xông pha ở tuyến đầu trận đánh để làm gương cho các binh sĩ noi theo. Tất cả những điều đó đã phần nào hình thành phong cách cầm quân của Kutuzov sau này.

Năm 1764, Kutuzov được điều sang Ba Lan để tham chiến. Gần một năm sau, ông về nước làm việc ở Hội đồng Mật viện quốc gia (tên gọi thượng viện Nga thời Ekaterina II), dưới quyền của chưởng lý, công tước Vyazemskyi. Sau đó, ông tham gia ban thư ký của Ủy ban soạn thảo dự luật mới. Tháng 12/1768, nữ hoàng Nga giải tán ủy ban và điều Kutuzov trở lại quân ngũ, sang Ba Lan lần thứ hai để trấn áp cuộc khởi nghĩa của Liên minh Bar. Trong thời gian này, Kutuzov tự nhận: "Chúng tôi sống rất vui, đánh nhau với người Ba Lan, nhưng tôi chưa hiểu về chiến tranh."

Chiến tranh Nga-Thổ (1768-1774)

Năm 1770, Kutuzov được điều sang quân đoàn Nga do nguyên soái Pyotr Aleksandrovich Rumyantsev chỉ huy đang chiến đấu tại Moldavia và Wallachia chống lại các lực lượng chủ lực của liên quân Ottoman-Hãn quốc Krym. Quân Nga luôn phải chiến đấu trên một chiến trường hoang vu, hẻo lánh, nơi đường sá và dân cư thưa thớt, trong khi bị quân Ottoman áp đảo về quân số. Nhưng hoàn cảnh khó khăn đó đã giúp Kutuzov học hỏi được nhiều kinh nghiệm mới.

Nguyên soái Rumyantsev thực hành một lối đánh mới: Rumyantsev trực tiếp chỉ huy 20.000 quân, phần còn lại được chia nhỏ thành các đơn vị độc lập gồm 4-8 nghìn quân, có nhiệm vụ phối hợp công kích đối phương từ nhiều hướng. Kutuzov tham gia chiến đấu với vai trò sĩ quan cận vệ trong đơn vị có nhiệm vụ tác chiến ở vùng trung tâm. Ông được giao nhiệm vụ trinh sát, phân tích sự chuyển quân của cả hai bên, tham gia thảo kế hoạch hành động của quân đoàn và phối hợp cùng các lực lượng dự bị chiến đấu ở những nơi nguy hiểm. Khi chiến đấu, Kutuzov luôn tỏ ra dũng cảm, lập nhiều chiến công và thể hiện sự đa tài trên nhiều lĩnh vực. Mùa thu năm 1771, Kutuzov tham gia trận đánh ở Popesti, nơi quân Nga đánh tan 3 vạn quân Thổ. Sau đó, ông được khen thưởng về lòng dũng cảm và được thăng lên quân hàm thượng tá.

Gặp lại và cùng chiến đấu với thầy cũ (1777-1791)

Chân dung M. I. Kutuzov năm 1777 Trở về Nga năm 1777, Kutuzov được thăng hàm đại tá và được bổ nhiệm làm chỉ huy trưỏng một trung đoàn ở Krym dưới quyền chỉ huy của người thầy cũ: Aleksandr Suvorov. Mặc dù hãn quốc Krym đã độc lập nhưng đế quốc Ottoman vẫn duy trì ảnh hưởng tại đây, buộc Suvorov phải khéo léo kết hợp các biện pháp ngoại giao và quân sự để giữ vững ưu thế của Nga. Khi đó, Kutuzov trở thành cánh tay phải đắc lực của Suvorov. Bản thân Kutuzov cũng học hỏi thêm được nhiều kiến thức quân sự, trong đó đáng chú ý là học thuyết "khoa học chiến thắng" của Suvorov. Học thuyết này cùng các phương pháp huấn luyện mới do Suvorov đúc kết sẽ giúp ích rất nhiều cho Kutuzov sau này.

Năm 1782, Kutuzov được thăng hàm chuẩn tướng. Năm 1784, ông kết thúc nhiệm vụ tại Krym và được phong quân hàm thiếu tướng theo đề nghị của Suvorov, sau đó được giao chỉ huy một trong các quân đoàn bộ binh cơ động đầu tiên được thành lập theo sáng kiến của Suvorov Sau đó, ông còn tham gia các trận đánh ở Bender và Akerman.

Ngày 13/12/1790, quân Nga mở một đợt tấn công quyết định, với mục tiêu là pháo đài Izmail kiên cố nhằm kiểm soát được bờ sông Danube. Suvorov được giao nhiệm vụ tấn công pháo đài, nên ông giao cho Kutuzov chỉ huy cánh quân thứ 6 bên cánh trái. Đến sáng ngày 22/12, Kutuzov chỉ huy binh sĩ tiến vào từ Kiliya ở phía đông Izmail mở đường cho các cánh quân khác cùng tiến vào trong trung tâm pháo đài. Tuy nhiên, quân Nga bị áp đảo về quân số so với đối thủ, buộc Kutuzov xin Suvorov yểm trợ, nhưng ông nhận được câu trả lời kỳ quặc: "Báo cáo về việc chiếm thành Ismail và việc cử Kutuzov làm chỉ huy trưởng pháo đài đã được gửi về Saint Petersburg".

Kutuzov tiếp tục huy động các lực lượng bộ binh cơ động, ồ ạt xung phong chọc thủng phòng tuyến quân Thổ, mở đường vào pháo đài. Quân Thổ chống cự quyết liệt nhưng do thua kém quân Nga về trình độ tổ chức, kỹ thuật nên pháo đài thất thủ. Toàn bộ số quân Thổ tại Ismail đều chết hoặc bị bắt sống. Về sau, khi gặp lại Kutuzov trong pháo đài, Suvorov đã nói rằng ông và Kutuzov luôn hiểu nhau, nếu không hạ được Ismail thì cả hai đã chết dưới chân thành.

Dù hòa ước Iaşi (Jassy) giữa Nga và Ottoman đã được ký kết trước đó vào năm 1791, nhưng hai bên vẫn chưa thiết lập lại quan hệ. Người Nga chiến thắng nhưng vẫn chịu nhiều tổn thất, nên muốn gìn giữ hòa bình lâu dài với người Thổ tại Đông Âu, trong khi sultan Thổ luôn giữ thái độ đề phòng. Vì vậy, đoàn ngoại giao của Kutuzov có nhiệm vụ duy trì sự hợp tác Nga-Thổ trong giai đoàn đầu. Đồng thời, triều đình Nga còn yêu cầu Kutuzov phải tìm hiểu, thăm dò kĩ lượng tình hình nội bộ trong triều đình Ottoman (đặc biệt là tình trạng lục quân và hải quân Thổ Nhĩ Kỳ), và thường xuyên báo cáo cho Aleksandr Suvorov, người lúc đó đang chỉ huy các lực lượng bộ binh ở miền nam Nga. Đồng thời, Kutuzov cũng phải bí mật hỗ trợ các cộng đồng người Slav ở Balkan thuộc Ottoman.

Những chỉ thị mà nữ hoàng Ekaterina II giao cho Kutuzov chỉ bao gồm những nét chung, đồng nghĩa với việc là Kutuzov được quyền tự quyết tùy theo hoàn cảnh thực tế..

Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, Kutuzov nhanh chóng tạo mối quan hệ tốt với các quan chức cấp cao trong triều đình Ottoman, ví dụ như đại thần ngoại giao Resit, đô đốc Kilturk Husseyin và đặc biệt là thái hậu Mihr-i shah (người có ảnh hướng rất lớn đến sultan và quần thần); đồng thời, vị đại sứ Nga một mặt duy trì quan hệ tốt với các sứ thần nước khác như Áo, Phổ, một mặt tìm cách cản trở các hoạt động của đại sứ Anh Robert Ainslie (1775 - 1793), vì nước Anh lúc này đang liên kết với Pháp để chống Nga. Ông tiếp cận những người Nga và các sắc dân Slav khác sinh sống tại đế quốc Ottoman nhằm giúp họ cải thiện cuộc sống tại Ottoman, qua đó đào tạo một vài người trong số họ thành những cộng tác viên có năng lực và có kinh nghiệm. Những người Slav này đã trợ giúp đắc lực cho công việc của Kutuzov, dù không ít lần phải giải quyết những mâu thuẫn xảy ra giữa các công tác viên này.

Ngày 7/1/1798, Kutuzov tới Berlin hội kiến vua Friedrich Wilhelm II cũng như các cận thần của vua Phổ. Trong số các cận thần đó, Kutuzov nhận thấy tướng Kechrisser đang cân nhắc về khả năng thành lập liên minh chống Pháp do Nga lãnh đạo qua việc bày tỏ nỗi lo sợ đối với nền Cộng hòa Pháp và nhận thấy chỉ nước Nga mới có thể tập hợp được Áo và Phổ cùng liên minh. Sau đó, khi gặp thống chế Möllendorf, Kutuzov đã phê phán sự thiếu nhất quán trong lập trường chống Pháp, khiến vị thống chế quân Phổ hứa hẹn sẽ hành động sớm. ông ta ngay lập tức bị lưu đày. Thêm nữa, việc Pavel I tham gia liên minh chống Anh với tổng tài Pháp Napoléon Bonaparte đã gây tổn hại đến quyền lợi của giới quý tộc Nga.

Trong chiến dịch ở Alps năm 1800, Suvorov được phục chức để chỉ huy quân viễn chinh, nhưng người Nga chẳng giành được kết quả đáng kể mà chủ tướng của họ (Suvorov) lại mất trên đường hành quân. Điều này ví như giọt nước tràn ly trong mối quan hệ quân-thần trong triều đình Nga, buộc giới quý tộc cấu kết với thái tử Alexander để tổ chức đảo chính. Sau đó, Zubov thông báo với thái tử Aleksandr về việc này. Thái tử lên nối ngôi ngay sau đó, tức Nga hoàng Aleksandr I. Tuy vậy, không có bằng chứng nào cho thấy Kutuzov có tham gia vào cuộc đảo chính.

Dưới thời Nga hoàng Aleksandr, nhóm tướng lĩnh thân cận trước đây của cố nguyên soái Aleksandr Suvorov (đặc biệt là Kutuzov) vẫn bị thất sủng. Ban đầu, Kutuzov được cử làm thanh tra bộ binh Phần Lan kiêm thống đốc Sankt-Petersburg. Nhưng đến ngày 29/8/1802, ông bất ngờ bị Nga hoàng cách chức

Một bất đồng khác là về kế hoạch tác chiến. Kutuzov cho rằng kế hoạch của người Áo ''rất giáo điều", mà không tính đến các hoạt động khác của quân Pháp. Ông chủ trương áp dụng chiến lược tấn công và không phòng thủ, nhưng đã bị bác bỏ bởi cả hoàng đế Áo lẫn Nga hoàng Aleksandr I. Trong các buổi họp bàn chiến thuật và kế hoạch tác chiến, Kutuzov chỉ ngồi im lặng, không có ý kiến gì, thậm chí ông còn giả vờ ngủ gật để Nga hoàng không có cớ để đổ trách nhiệm cho Kutuzov nếu liên quân thất bại - điều mà ông cho là không tránh được.

Tranh mô tả trận Austerlitz của Vernet và Swebach (1805)|thế=

Sáng ngày 20/11/1805, trận Austerlitz bắt đầu. Theo đúng kế hoạch, đáng lẽ Kutuzov phải cho quân đội của mình tiến xa hơn, nhưng ông dừng lại ở cao điểm Pratzen. Tài năng quân sự dày dạn đã khiến Kutuzov đặc biệt lưu ý tầm quan trọng của Pratzen và quyết giữ cao điểm này bằng mọi giá. Tuy nhiên, Nga hoàng Aleksandr I lại tỏ ra không hài lòng và bắt đầu trách cứ: Có ý kiến cho rằng ông không có lỗi trong bất kỳ một nước đi nào của liên quân trong trận Austerlitz, mà chỉ là người chứng kiến bi kịch này, như một điều không thể tránh khỏi.

Đầu năm 1806, sau khi trở về nước Nga, Aleksandr I bổ nhiệm M. I. Kutuzov làm thống đốc quân sự tỉnh Kiev

Vào mùa xuân năm 1808, Kutuzov được cử làm phụ tá cho Nguyên soái Prodorovsky theo đề nghị của chính người này. Tuy nhiên, Prodorovsky nhận ra rằng chính người phụ tá của mình lại tài năng hơn và được binh lính tin tưởng hơn. Kutuzov cũng nhận được sự ủng hộ lớn của quân đội vì ông có tài năng và lòng dũng cảm, đồng thời còn là một tín đồ Chính thống giáo ngoan đạo, lập được nhiều chiến công. Không những thế, ông là người Nga chính cống (phần lớn các chỉ huy cấp cao của quân đội Nga lúc đó là người ngoại quốc). Giới quý tộc và hàng Giáo phẩm Nga cũng dành rất nhiều thiện cảm cho ông. Nhưng Aleksandr I không bằng lòng trước lựa chọn này, vì Nga hoàng luôn cho rằng thất bại tại Austerlitz là lỗi của Kutuzov, đồng thời cũng nghĩ rằng tuổi tác của Kutuzov, nên khó có thể tham chiến tốt.

Trận Borodino và quyết định rút khỏi Moskva

Nhưng trước áp lực của nhân dân, Aleksandr I buộc phải đưa việc đề cử Kutuzov cho một ủy ban đặc biệt xem xét và ngày 5/8. Cuối cùng, ủy ban này nhất trí chọn Kutuzov. Aleksandr I cử Levin August von Bennigsen, một cận thần người Đức làm tham mưu trưởng để giám sát Kutuzov, có lẽ vì chưa thực sự tin tưởng ông. Ngày 18/8, M. I. Kutuzov xuất hiện trước quân đội ở Tsaryovo-Zaymishche.

Sau khi nắm tình hình quân đội, Kutuzov tổ chức một đội hậu quân mạnh, rồi hạ lệnh vừa rút lui vừa chuẩn bị cho một trận đánh lớn. Mặc dù cho rằng quyết định rút lui của tướng Barclay de Tolly là chính xác, nhưng ông lo ngại sự rút lui liên tục có thế làm suy giảm sĩ khí của quân Nga. Khi quân Nga đến làng Borodino thì quân Pháp đã chiếm được Smolensk và chỉ còn cách Moskva khoảng 120 km, Kutuzov quyết định giao chiến với Napoléon.

Kutuzov chỉ đạo cho quân Nga lập một phòng tuyến dài dọc theo sông Kolocha nhằm ngăn chặn cả hai con đường dẫn đến Moskva. Tại đây, ông ra lệnh cho tướng Pyotr Bagration cố thủ tại trung tâm phòng tuyến, trong khi tướng Barclay chỉ huy phòng thủ ở phía đông. Theo một số sử gia nhận định, tổng quân Nga có khoảng 120.000 người và 600 khẩu đại bác, trong khi quân đội của Napoléon có đến 180.000 quân cùng hơn 500 khẩu đại bác.

Rạng sáng ngày 7/9/1812 (ngày 16/8 theo lịch Julius), Napoléon lệnh cho hai đạo quân của phó vương Ý Eugène de Beauharnais (con trai nuôi của hoàng đế Pháp) và thống chế Louis-Nicolas d'Avout (đồng môn của Napoléon, được mệnh danh là Nguyên soái Sắt) lần lượt tấn công vào trung tâm và cánh trái của quân Nga. Sau đó, thống chế Murat dẫn kị binh tiếp tục hỗ trợ đạo quân của thống chế d'Avout đánh chiếm được cứ điểm Shevardino do nguyên soái Bagration nắm giữ, buộc Kutuzov phải rút toàn quân Nga khỏi phòng tuyến cũ để giảm thiểu thương vong nếu quân Pháp tiếp tục theo đà tấn công ồ ạt. Chiến trận trở nên căng thẳng, thậm chí tướng Bagration trong một lần lên phía trước khích lệ tinh thần binh sĩ đã bị đạn pháo đối phương rơi trúng dẫn đến tử thương.

Đến cuối ngày hôm đó, quân Pháp cuối cùng đã chiếm được hệ thống công sự hình mũi tên của vị tướng Nga quá cố Bagration rồi tiếp tục chọc thủng được trận địa pháo dưới sự chỉ huy của Nikolai Raevsky ở trung quân Nga, mang về một chiến thắng kiểu Pyrros cho quân đội Pháp. Kết quả, Napoléon tổn thất hơn 50.000 người, trong khi quân Nga do Kutuzov chỉ huy mất khoảng 44.000 quân

Như Kutuzov đã lường trước, lệnh rút bỏ Moskva khiến quân sĩ bất mãn. Những lời vu khống, đàm tiếu, những tin đồn nhanh chóng lan khắp quân đội. Aleksandr I dọa truy cứu trách nhiệm của Kutuzov đối với đất nước, còn August von Bennigsen và các đối thủ chính trị lại tiếp tục lợi dụng việc này để tìm cách hạ bệ Kutuzov. Những ngày này, Kutuzov đành đi xe theo đường riêng và chỉ giao tiếp với một số người thân cận trong vài trường hợp cần thiết, nhằm giữ kín kế hoạch tác chiến. Ông theo dõi kỹ lưỡng cuộc rút quân khỏi Moskva rồi lệnh cho các đơn vị công binh của viên đại úy tên Philsk đặt thuốc nổ và chất cháy để thiêu hủy thành phố. Sau đó, Kutuzov thì tiếp tục cho quân rút theo đường Ryazan, bỏ ngỏ luôn con đường đi tới kinh đô Sankt-Peterburg. Nhưng Aleksandr I trong bụng vẫn ghét ông; khi Kutuzov dự lễ khiêu vũ, Aleksandr I nói với cận thần; "Chúng ta đã phải dễ dãi với lão già này". Lần khác, Kutuzov làm theo cách thời Ekaterina, hạ những quân kỳ Pháp xuống chân Aleksandr I, Nga hoàng nói lẩm bẩm: "Lão kép hát già"!". Aleksandr I còn thổ lộ với quân hầu rằng phong Kutuzov tước công là để lấy lòng quý tộc Moskva, chứ thực ra nhà vua không coi Kutuzov là người lập công đầu.

Qua đời

Cuối năm 1812, Aleksandr I kêu gọi các nước đồng minh tham gia Liên minh thứ sáu với mục tiêu phản công tàn quân của Napoléon trên toàn cõi châu Âu. Kutuzov mặc dù không ủng hộ, nhưng vẫn phải tuân lệnh.. Biết tin, Nga hoàng Aleksandr I thân đến thăm, rồi xin lỗi Kutuzov vì đối xử bất công với ông trước đây. Vị thống soái đã trả lời: :"Tôi tha cho nhà vua. Nhưng liệu nhân dân Nga có tha thứ cho nhà vua không?

Nga hoàng sau đó lệnh cho hoàng thân P. M. Volkonski ở lại theo dõi bệnh tình của Kutuzov. Dù được các bác sĩ điều trị tích cực, nhưng vì tuổi tác cao nên Kutuzov qua đời vào ngày 16/4/1813 ở Bunzlau

Gia đình

Kutuzov lập gia đình với Ekaterina Ilytnina Bibikova, một người em gái của thím ông. Ekaterina nổi tiếng là một người phụ nữ đẹp, thông minh, có học thức (bà biết 4 thứ tiếng khác nhau) đồng thời cũng là người vợ đảm đang, sẵn sàng hy sinh vì gia đình. Vì là một quý tộc, Ekaterina thường xuyên giao tiếp với các nhân vật trong giới thượng lưu, vì vậy bà nắm rõ các tin tức thời sự ở kinh đô và thường xuyên cập nhật cho chồng qua những bức thư mỗi khi Kutuzov đi công tác xa nhà. Về phía mình, Kutuzov viết thư về chuyện chiến sự, chuyện công việc và về những quyển sách ông đang đọc. Mặc dù phần nhiều thời gian họ sống xa cách nhau, nhưng sự đồng điệu trong tâm hồn và trong đời sống tinh thần khiến mối quan hệ giữa hai người gắn bó khăng khít.

Kutuzov và Ekaterina có với nhau 5 người con gái, tất cả đều thành đạt và hạnh phúc. Có một điều không may là người con trai duy nhất của họ lại chết yểu. Dù luôn sống xa nhà, Kutuzov luôn quan tâm, chăm sóc và là chỗ dựa cho các con của mình, họ thật sự hạnh phúc trong tình yêu thương vô bờ của người cha.

Đến năm 1819, vua Phổ Friedrich Wilhem II đã quyết định xây dựng một tháp tưởng niệm Kutuzov ở quảng trường trung tâm thành phố Buzlau. Việ xây dựng công trình này do nhà kiến trúc sư người Đức Karl Friedrich Schinkel trực tiếp chỉ đạo. Vào ngày 5/7 cùng năm, viên đá nền móng đầu tiên của tháp tưởng niệm được đặt xuống. Đến năm 1821, công trình được hoàn thành.

Đài tượng niệm này được đúc bằng gang rèn, nặng 60 tấn và cao 11,65 mét. Đến năm 1893 thì đài tưởng niệm được dời đến gần ngôi nhà nơi Kutuzov qua đời. Bản thân ngôi nhà này được vua Friedrich Wilhem II tuyên bố "thuộc về Kutuzov", ông cấm người dân tự tiện ra vào nơi này và chuyển đổi nó thành một bảo tàng. Ông xuất hiện trong tác phẩm kinh điển Chiến tranh và hòa bình của đại văn hào Nga Lev Nikolayevich Tolstoy, được mô tả như một đại diện của nhân dân Nga trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc 1812, cũng là hiện thân của trí thông minh và lòng dũng cảm của dân tộc Nga. Dưới thời Iosif Vissarionovich Stalin, các nhà sử học Liên Xô đánh giá ông là một thiên tài quân sự, còn xuất sắc hơn cả Napoléon Bonaparte. Trong Chiến tranh Xô-Đức chống Đức Quốc xã của nhân dân Liên Xô từ 1941-1945, Huân chương Kutuzov đã ra đời nhằm tưởng thưởng cho những quân nhân có công. Ngày nay, đây vẫn là một trong những huân chương cao quý nhất của quân đội Nga và đã có hơn 7.000 người được trao tặng.

Việc tôn vinh vị anh hùng M.I.Kutuzov lên tới đỉnh điểm vào năm 1955, với sự ra mắt của Polkovodets Kutuzov - một loạt các bài viết được xuất bản bởi L.V.Besckrovny - một nhóm nhà sử học quân sự Liên Xô trong thập niên 1960 và 1970. Ngoài ra, vào năm 1962, bảo tàng Borodino cũng được xây dựng tại Moskva, nhân kỷ niệm 150 năm trận đánh tại Borodino. Bên ngoài bảo tàng có bức tượng đồng của Kutuzov nhằm vinh danh những đóng góp của ông trong sự nghiệp bảo vệ lãnh thổ nước Nga.

Vào ngày 9 tháng 8 năm 1954, nhà máy liên hợp đóng tàu Nikolayev đã hạ thủy chiến hạm mang tên lửa số 385. Sau thời gian chạy thử, vào ngày 31 tháng 1 năm 1955, chiến hạm số 385 đã chính thức có mặt trong biên chế của Hạm đội Biển Đen và được Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô Georgy Konstantinovich Zhukov chính thức đặt tên là "Chiến hạm Mikhail Kutuzov".

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mikhail Illarionovich Golenishchev-Kutuzov** (hoặc **Mikhain Illariônôvích Cutudốp** trong các tài liệu tiếng Việt) (tiếng Nga: князь Михаи́л Илларио́нович Голени́щев-Куту́зов; 16 tháng 9 năm 1745 — 28 tháng 4 năm 1813) là một nhà quân sự,
**Chiến dịch Kutuzov** là hoạt động quân sự lớn của Quân đội Liên Xô tại khu vực phía bắc vòng cung Kursk với trung tâm là thành phố Oryol tại khu vực trung tâm mặt
**Huân chương Kutuzov** (tiếng Nga: _орден Кутузова_) là một giải thưởng quân sự của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay, đặt theo tên Nguyên soái Mikhail Illarionovich Kutuzov - nhà quân
:''Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xem bài định hướng Trận Moskva **Trận Borodino** (, _Borodinskoe srazhenie_; phiên âm: **Bô-rô-đi-nô**); hoặc còn gọi là **Trận Sông Moskva** () giữa quân đội
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Trận Austerlitz** (còn gọi là **Trận Ba Hoàng đế** hay **Trận Tam Hoàng**), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoléon. Trận đánh xảy ra
**Trận Berezina** (hay **trận Beresina**) là một trận chiến trong cuộc chiến tranh Pháp-Nga (1812) diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 11 năm 1812 tại thị trấn Borisov (nay thuộc Belarus) bên
Bá tước **Berend Gregor Ferdinand von Tiesenhausen** (tiếng Nga:_Fiodor Ivanovitch Tiensenhausen_; 1 tháng 6 năm 1782, Reval – 2 tháng 12 năm 1805, Austerlitz) là một nhà quý tộc và là một tướng lĩnh gốc
**Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1806–1812)** là một trong những cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc Nga và Đế quốc Thổ Osman. Nó diễn ra từ năm 1806 đến năm 1812 và kết
**Hồng Quân** là cách gọi vắn tắt của **Hồng quân Công Nông** (tiếng Nga: Рабоче-крестьянская Красная армия; dạng ký tự Latin: _Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya_, viết tắt: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và
**Franz von Weyrother** (1755 - 16 tháng 2 năm 1806) là một viên tướng người Áo tham chiến trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoléon. Ông là Tham mưu trưởng của
Đây là một **danh sách nhân vật trong tiểu thuyết _Chiến tranh và hòa bình_ của Lev Tolstoy** chưa đầy đủ. ## A * **Maria Dmitriyevna Akhrosimova**, mẹ đỡ đầu của Natasha, có biệt hiệu
**Ngày Chiến thắng** là ngày lễ kỷ niệm chiến thắng của Liên Xô trước Đức Quốc xã vào năm 1945. Ngày lễ này được tổ chức lần đầu tiên tại 15 nước cộng hòa thuộc
Bá tước **Pyotr Alexandrovich Rumyantsev-Zadunaisky**, còn được viết là **Rumiantsof**, **Romanzow** hay **Romanzoff** (15 tháng 1 năm 1725 – 19 tháng 12 năm 1796) là một trong những vị thống soái lỗi lạc nhất của
Năm **1745** (số La Mã: MDCCXLV) là một năm thường bắt đầu vào thứ Sáu trong lịch Gregory (hoặc một năm thường bắt đầu vào thứ ba của lịch Julius chậm hơn 11 ngày). ##
**Đại học Strasbourg** là một trường đại học ở Strasbourg, Alsace, Pháp, là trường đại học lớn nhất ở Pháp, với khoảng 43.000 sinh viên và hơn 4.000 nhà nghiên cứu. Trường đại học này
**Trận Dürenstein** (còn được gọi là **trận Dürrenstein**,**Trận Dürnstein**,**Trận Diernstein**, và trong tiếng Đức,**_Gefecht bei Dürrenstein_**), diễn ra ngày 11 tháng 11, năm 1805, là một trận đánh của Chiến tranh Napoléon trong Chiến tranh
right|thumb|upright|Một đứa trẻ đeo miếng vá ở mắt để trị chứng suy giảm thị lực. **Vá mắt**, **băng mắt** hay **miếng che mắt** là một miếng vá nhỏ được đeo ở phía trước một con
**Siret** (, ) hay **Seret** (), là sông khởi nguồn từ dãy Karpat tại vùng Bắc Bukovina của Ukraina, và chảy về phía nam qua Romania rồi đổ vào sông Danube. ## Mô tả Sông
Quân phục Thống chế Nga ([[1793)]] nhỏ|446x446px|Thống chế [[Aleksandr Vasilyevich Suvorov|A.B. Suvorov.]] **Thống chế** (, đôi khi được dịch là **Nguyên soái**) là cấp bậc quân sự cao nhất trong quân đội Nga từ đầu