✨Chiến tranh Nga – Pháp (1812)

Chiến tranh Nga – Pháp (1812)

Chiến dịch nước Nga (hay còn gọi là Cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812, ) là bước ngoặt trong các cuộc chiến tranh của Napoléon. Trong vòng 10 năm trước đó, quân Pháp thắng trận liên tục và xâm chiếm phần lớn châu Âu, nhưng tại Nga thì họ đã chịu thất bại lớn với hơn 550.000 quân thương vong hoặc đào ngũ. Thất bại này làm sụt giảm nghiêm trọng sức mạnh của Đế chế Pháp và lực lượng đồng minh, gây ra sự thay đổi lớn trong nền chính trị ở châu Âu và làm suy giảm đáng kể quyền bá chủ của Pháp ở châu Âu. Danh tiếng của Napoléon là một thiên tài quân sự bất khả chiến bại đã mất đi sau thất bại này. Các đồng minh của Pháp, đầu tiên là Phổ và sau đó là Áo, đã lần lượt phá vỡ liên minh và chuyển sang chống lại Pháp, gây nên chiến tranh Liên minh thứ sáu.

Chiến dịch bắt đầu ngày 24 tháng 6 năm 1812, khi Napoléon vượt sông Neman. Napoléon buộc Hoàng đế nước Nga là Aleksandr I ở lại trong Hệ thống phong tỏa Lục địa của Vương quốc Anh, mục đích chính là để tránh các đe dọa của Nga tới Ba Lan. Napoléon đặt tên cuộc xâm lăng này là chiến dịch Ba Lan lần thứ hai, người Nga tuyên bố phát động một cuộc chiến tranh Vệ quốc.

Hơn 68 vạn tinh binh của đại quân Napoléon hành quân qua phía tây nước Nga, họ giành chiến thắng trong một số trận đánh nhỏ và một trận đánh lớn ở Smolensk vào 16-18 tháng 8. Tuy nhiên, trên cùng một ngày, cánh bắc của quân đội Nga do Thống chế Nga Peter Wittgenstein đã chặn cánh bắc của quân đội Pháp, dẫn đầu bởi Thống chế Pháp Nicolas Oudinot trong trận Polotsk. Điều này ngăn chặn cuộc hành quân của Pháp tới kinh thành Sankt-Peterburg; số phận của cuộc chiến đã phải quyết định tại Moskva, nơi mà Napoléon đã thân chinh dẫn quân tiến đánh.

Cuộc kháng chiến của Quân đội Nga cũng bắt nguồn từ tinh thần yêu nước sục sôi, quyết tâm trả thù những thất bại trước quân Pháp trong các năm 1805 - 1807, cũng như quyết tâm không chịu ách chư hầu cho Pháp theo Hiệp định Tilsit (1807). Chiến thắng rạng rỡ của cuộc chiến đấu bảo vệ nước Nga này chứng tỏ sức mạnh uy dũng của lực lượng Quân đội Nga trong các cuộc chiến tranh của Napoléon. Sự kiện này đã từng được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Chiến tranh và Hòa bình của Lev Tolstoy và thường được người Nga gọi là Chiến tranh Vệ quốc 1812 (phân biệt với "Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại" tức Chiến tranh Xô-Đức trong Thế chiến thứ hai).

Chuẩn bị chiến tranh

Đến cuối năm 1811 thì Napoleon đã có nhiều chỉ thị cực kì nghiêm túc cho một cuộc chiến lớn với nước Nga.

Một báo cáo của tướng Davout gửi Napoleon ngày 29-11-1811 có viết: "Trong chiến dịch năm 1805, nhiều binh lính đã bị tụt lại sau do thiếu giày; hiện tại ông ấy đang tích trữ 6 đôi giày cho một người lính”.

Napoleon ra lệnh cho Bá tước Lacuée de Cessac phụ trách hậu cần phải cung cấp lương thực cho 40 vạn quân trong một chiến dịch 50 ngày, yêu cầu 20 triệu khẩu phần bánh mì và gạo, 6000 xe vận tải để chở đủ bột mì cho 20 vạn người trong 2 tháng và 72 triệu lít yến mạch nuôi ngựa trong 50 ngày.

Ngày 14 tháng 2 năm 1812, một lượng quân Pháp rất lớn đã tiến về phía Đông và họ đóng quân tại 20 thành phố Đức tại khắp miền Tây đế chế Napoleon.

Không chỉ quân Pháp thuần tuý, chiến dịch đánh nước Nga còn có sự đóng góp quân của các nước chư hầu của Pháp. Vào tháng 2 năm 1812, Áo đồng ý góp cho Napoleon 3 vạn quân. Một tuần sau, Phổ huy động cho Pháp 2 vạn quân. Nếu chia theo quân chủng thì 48% bộ binh là người Pháp, 52% là người nước ngoài; 64% kị binh là người Pháp, 36% là người nước ngoài.

Dân số của Pháp lúc đó là 42,3 triệu người, các quốc gia vệ tinh của Pháp là 40 triệu người, tổng cộng là 82,3 triệu. Napoleon đã huy động tới 69 vạn quân, đây là lần xuất quân chinh phạt lớn nhất lịch sử châu Âu tính tới thời điểm đó. Đại quân Pháp có gần 1.400 khẩu pháo, 20 vạn ngựa phân bổ cho 8 vạn kị binh, 3 vạn lính pháo binh và 25 nghìn cỗ xe đủ kiểu. Có 26 tiểu đoàn vận tải, 18 trong số đó có 600 cỗ xe hạng nặng, mỗi xe 6 ngựa kéo có khả năng chở gần 3.000 kg.

Binh lính tự mang đi 4 ngày lương thực và thêm 20 ngày trên những cỗ xe quân đội. Nếu trong 3 tuần đầu chiến dịch tiếp tục thì đại quân sẽ phải dừng lại để tái tiếp tế.

Trong khi đó, toàn bộ dân số của nước Nga lúc đó là 46 triệu, họ huy động được 70 vạn lính chủ lực và 223.000 dân quân trong toàn cuộc chiến.

Diễn biến

nhỏ|Chân dung Barclay de Tolly Tổng chỉ huy ban đầu của quân Nga là Thống chế Barclay de Tolly, vốn là một sĩ quan gốc Scotland. Barclay de Tolly lớn lên ở St.Petersburg và trở thành Bộ trưởng Chiến tranh trong triều đình Nga từ năm 1810. Ông đã chuẩn bị hiệu quả cho quân đội Nga cho cuộc chiến quyết định với Napoléon, ra lệnh và đích thân tạo ra rất nhiều hướng dẫn chiến thuật và chiến lược và sách hướng dẫn cho binh lính và sĩ quan. Chính Barclay là người ban đầu đã vạch ra kế hoạch tổng thể cho quân đội Nga trong cuộc chiến này: sử dụng chiến lược rút ​​lui vào miền Trung nước Nga để tiêu hao tài nguyên của quân đội Pháp. Khi rút lui, lính Nga đã phá hủy kho lương thực, đạn dược và bất kỳ tài sản nào đối phương có thể sử dụng được. Barclay đã tính toán đúng các tuyến đường tiếp tế của Pháp sẽ trở nên quá dài để cung cấp cho quân đội từ châu Âu và các lực lượng du kích Nga và quân đội sẽ làm phần còn lại để nghiền nát kẻ thù. trái|nhỏ|Cuộc vượt biên của quân đội Napoléon qua Neman Ngày 22 tháng 6 năm 1812 Napoleon ban hành bản thông cáo của chiến dịch, cũng là mệnh lệnh cho Đại quân vượt sông Niemen tiến vào Nga. Quy mô của Đại quân Napoleon sau khi đã trừ đi các lực lượng đồn trú, vệ binh quốc gia và số lính coi kho, pháo đội bảo vệ bờ biển là 45 vạn người ở tuyến đầu, 16,5 vạn người ở tuyến hai. Con số này lớn hơn toàn bộ dân số Paris vào thời điểm đó.

Mở đầu cuộc binh lửa, Quân đội Nga đã gặt hái được những chiến công ban đầu tại Mir, Romanovo, Ostrovno, Saltanovka, và Klyastitsy. Nhưng vào tháng 8 năm 1812, quân Nga phải rút lui trước sức ép của Pháp và cũng bởi chiến lược của Tư lệnh Barclay de Tolly. Sau đó Sa hoàng không hài lòng, tướng Mikhail Kutuzov được phong hàm Thống chế và được cử làm Tổng Chỉ huy Quân đội Nga thay Barclay de Tolly. Sau đó quân Nga do Kutuzov chỉ huy chống cự lại Napoléon I ác liệt trong trận đánh lớn tại Borodino từ khoảng cách 120 km (khoảng 75 dặm) về phía tây Moskva ngày 7 tháng 9 năm 1812. Quân đội Nga đã chiến đấu anh dũng và gây cho quân Pháp bị tổn thất nặng nề. Rất nhiều binh sĩ người Westfalen chư hầu chiến đấu cho Pháp cũng bị thiệt mạng cuộc giao tranh khốc liệt này. Tuy nhiên, Hoàng đế Napoléon I đã chiến thắng và quân Nga triệt binh khỏi trận địa. Mùa đông trên lãnh thổ Nga rất khắc nghiệt. Quân đội Nga càng rút lui, càng khiến cho quân đội Pháp sa lầy vào xứ sở mênh mông còn làng mạc đã bị quân Nga đốt sạch trước khi quân Pháp tiến tới khiến cho người Pháp không thể tìm ra được thực phẩm.

Với nguồn quân nhu trống rỗng và đường tiếp tế bị trải dài quá mức, đại quân của Napoléon I sau chiến thắng trong trận huyết chiến ở Borodino đã tiến quân đến cố đô Moskva vào ngày 14 tháng 9 năm 1812. Các chiến binh Pháp vui mừng trước ngưỡng cửa Moskva hùng vĩ, và Napoléon I coi thời khắc đã đến để buộc người Nga phải ra hàng. Tuy nhiên, không có bóng ai ở đây cả mà chỉ có một sĩ quan Nga đề nghị đình chiến, để các chiến sĩ Nga có thêm thời gian rút quân ra khỏi cố đô. Đến lúc mặt trời lặn mà vẫn chẳng thấy ai, một số sĩ quan Pháp vào thám thính Moskva rồi trở ra bẩm báo với Napoléon I là toàn thể dân chúng thành Moskva đã di tản và Moskva đã bị đốt phá. Màn đêm buông xuống, ông mới tiến đại binh vào cố đô nước Nga. trái|nhỏ|Hỏa hoạn Moskva 1812 Sa hoàng Alekxandr I nhất định không chịu thương thuyết. Vốn mong đợi Alekxandr I đầu hàng có điều kiện, thay vào đó, quân Pháp lại thấy mình đang ở trong một thành phố cằn cỗi và hoàng tàn đã bị quân Nga san phẳng hoàn toàn trước khi rút lui. Thiếu nơi đồn trú mùa đông, Napoléon thấy cần phải rút quân. Bắt đầu vào ngày 19 tháng 10 và kéo dài đến tháng 12, quân đội Pháp phải đối mặt với một số trở ngại rất lớn trên đường dài rút quân khỏi Nga: nạn đói, thời tiết giá lạnh và lực lượng quân đội của Nga đã chặn đường rút lui. trái|nhỏ|Napoleon rút lui của khỏi Moskva. Lực lượng Pháp bị thiệt hại nặng nề vì thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu phương tiện y tế, luôn luôn bị quân du kích Nga quấy phá và bị tấn công. Bởi mùa Đông quá sức khắc nghiệt tại Nga, quân Pháp còn lan truyền huyền thoại "Đại tướng Mùa Đông" (général Hiver) đã làm gia tăng những thiệt hại của họ. Đa số quân Pháp đã chết vì đói, vì lạnh, vì bệnh tật, một số lớn bị bắt làm tù binh.

Những trận đánh tại Krasnyi kéo dài suốt từ ngày 4 cho đến ngày 5 tháng 11 năm 1812, làm cho Napoléon bị hao tổn thêm 2 vạn chiến binh nữa. Tiếp theo đó, Quân đội Nga kéo đến sông Berezina để truy kích quân Pháp, viên chỉ huy quân Nga là Pavel Chichagov đã chiếm được một kho quân nhu lớn của quân Pháp tại Minsk, phá hủy những chiếc cầu bắc qua sông Berezina tại thị trấn Borisov, và kéo quân bên bờ Tây sông này để ngăn chặn quân địch vượt sông. Từ ngày 14 cho tới ngày 17 tháng 11 năm 1812, trong trận sông Berezina, quân Nga liên tiếp tấn công, song Napoléon vượt được sông này. Ông phải hứng chịu tổn thất khủng khiếp. Chỉ sự hợp tác ngầm của Kutuzov mà đã gây cho Napoléon thảm họa như thế. Vốn dĩ ông nhận thấy rằng Mùa Đông đã hủy diệt quân lực của Napoléon, do đó ông không cần phải truy kích quân Pháp quá mãnh liệt. nhỏ|[[Người Kalmyks và người Bashkirs tấn công quân đội Pháp tại Berezina]]

Kết quả

Cuộc xâm lược nước Nga của Napoléon là một trong những sự kiện trọng đại trong lịch sử châu Âu, là chiến bại thê thảm của ông, Đây là bước ngoặt lớn trong các cuộc chiến của Napoléon vì chiến dịch này đã giảm quân số của Pháp và các lực lượng đồng minh xuống chỉ còn một phần nhỏ so với ban đầu.. Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã góp phần làm thiệt mạng hàng loạt quân Pháp, Napoléon buộc phải rút quân về nước. Nhiều đạo quân Nga vẫn tiếp tục truy quét quân địch vào Đại công quốc Warsawa và Vương quốc Phổ.

Cuộc Chiến tranh Vệ quốc khốc liệt này đã lôi cuốn biết bao thế hệ các nhà sử học nước Nga.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch nước Nga** (hay còn gọi là **Cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812**, ) là bước ngoặt trong các cuộc chiến tranh của Napoléon. Trong vòng 10 năm trước đó, quân Pháp thắng
**Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1806–1812)** là một trong những cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc Nga và Đế quốc Thổ Osman. Nó diễn ra từ năm 1806 đến năm 1812 và kết
**_Chiến tranh và hòa bình_** (tiếng Nga: _Война и мир_) là một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, được xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865–1869. Tác phẩm được xem là thành tựu văn
**Các cuộc chiến tranh của Napoléon**, hay thường được gọi tắt là **Chiến tranh Napoléon** là một loạt các cuộc chiến trong thời hoàng đế Napoléon Bonaparte trị vì nước Pháp, diễn ra giữa các
**_Chiến tranh Trăm Năm thứ hai_** (khoảng 1689 - 1815) là sự phân kỳ lịch sử hoặc thuật ngữ thời đại lịch sử được một số nhà sử học dùng để mô tả một loạt
**Liên minh thứ sáu** bước đầu gồm Vương quốc Anh và Đế quốc Nga, sau đó là Phổ, Áo, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các vương quốc Bayern, Württemberg, Sachsen (từ
**Chiến tranh và hòa bình** (tiếng Nga: _Война и мир_) là một phim lịch sử của đạo diễn Sergey Bondarchuk, xuất bản năm 1965. ## Nội dung Truyện phim phỏng theo tiểu thuyết cùng tên
Đây là một **danh sách nhân vật trong tiểu thuyết _Chiến tranh và hòa bình_ của Lev Tolstoy** chưa đầy đủ. ## A * **Maria Dmitriyevna Akhrosimova**, mẹ đỡ đầu của Natasha, có biệt hiệu
**Chiến tranh Bán đảo** (1807-1814) là một cuộc xung đột quân sự giữa đế chế của Napoleon và Bourbon Tây Ban Nha (với Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland liên minh với Vương quốc
Trong Thế chiến I không tồn tại một quốc gia Ba Lan độc lập, với vị trí địa lý nằm giữa các cường quốc tham chiến, có nghĩa là nhiều trận chiến và tổn thất
**Cơ giới hóa chiến tranh** là quá trình ứng dụng và phổ biến rộng rãi việc sử dụng máy móc trong lĩnh vực quân sự, đem đến hiệu quả vượt trội trong tác chiến và
**Chiến tranh và hòa bình** (tiếng Anh: _War and Peace_) là một bộ phim tâm lý - lịch sử, có phần lãng mạn do Robert Dornhelm và Brendan Donnison đạo diễn, ra mắt lần đầu
**Chiến tranh xâm lược** là cuộc chiến tranh do một nhà nước, hoặc liên minh nhà nước tiến hành nhằm xâm lược nước khác. Chiến tranh xâm lược là cuộc chiến tranh trái với Hiến
Thuật ngữ **Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại** được phổ biến tại Nga và một số quốc gia thuộc khối Liên Xô cũ để chỉ một phần của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai
**War and Peace, Op. 91** (tiếng Nga: **Война и мир**, dịch là **Voyna i mir**, tiếng Việt: **Chiến tranh và hòa bình**) là vở opera của nhà soạn nhạc người Nga Sergey Sergeyevich Prokofiev. Ông
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Tỉnh Bessarabia** là một tỉnh (_guberniya_) của Đế quốc Nga, trung tâm hành chính nằm tại Kishinev (nay là Chișinău của Moldova). Tỉnh có diện tích và có 1.935.412 cư dân. Tỉnh Bessarabia giáp với
phải|Danh tướng [[Pyrros của Ipiros|Pyrros của Hy Lạp cổ đại]] **Chiến thắng kiểu Pyrros** hay **Chiến thắng kiểu Pyrrhic** là một thành ngữ để chỉ một thắng lợi gây ra những tổn thất khủng khiếp
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Mahmud II** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman: محمود ثانى, chuyển tự: Maḥmûd-u s̠ânî, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: II. Mahmud; 20 tháng 7 năm 1785 – 1 tháng 7 năm 1839) là Sultan của Đế chế
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
**Đế quốc thực dân Pháp** bao gồm các thuộc địa hải ngoại, xứ bảo hộ và lãnh thổ ủy thác nằm dưới sự cai trị của Pháp từ thế kỷ 16 trở đi. Các nhà
**Hiệp ước Gulistan** (còn được viết là **Golestan**: tiếng Nga: Гюлистанский договор, chuyển tự Gyulistanskiy dogovor; tiếng Ba Tư: عهدنامه گلستان, chuyển tự Ahdnāme-ye Golestān) là một hiệp ước hòa bình được ký kết giữa
**Nikolas I** (6 tháng 7 [lịch cũ 25 tháng 6] 1796 – 2 tháng 3 [lịch cũ 18 tháng 2] 1855) là Hoàng đế Nga, Vua của Vương quốc Lập hiến Ba Lan và Đại
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**Pháp** (; ), tên chính thức là **Cộng hòa Pháp** ( ) (), là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần
Mầm mống của cuộc **Nội chiến Tây Ban Nha** bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi các địa chủ lớn, gọi là _latifundios_, nắm giữ hầu hết quyền lực trong một thể chế quyền
**Cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất** (tiếng Trung: 第一次鸦片战争; bính âm: _Dìyīcì Yāpiàn Zhànzhēng_; tiếng Anh: _First Opium War_), còn được gọi là **Chiến tranh thuốc phiện lần 1** hay **Chiến tranh Anh-Thanh**,
nhỏ|Một poster phản chiến nhỏ| Một [[Những biểu tượng hòa bình|biểu tượng hòa bình, ban đầu được thiết kế cho Chiến dịch giải trừ vũ khí hạt nhân (CND) của Anh ]] **Phong trào chống
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
**Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh là **Napoleone Buonaparte**; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu **Napoléon I**, là một chỉ huy quân sự
**Mikhail Illarionovich Golenishchev-Kutuzov** (hoặc **Mikhain Illariônôvích Cutudốp** trong các tài liệu tiếng Việt) (tiếng Nga: князь Михаи́л Илларио́нович Голени́щев-Куту́зов; 16 tháng 9 năm 1745 — 28 tháng 4 năm 1813) là một nhà quân sự,
thumb|Cuộc gặp gỡ của hai vị hoàng đế trong một cái lều dựng trên một chiếc bè ở giữa sông Neman. **Hiệp ước Tilsit** (tiếng Pháp: _Traités de Tilsit_, tiếng Đức: _Friede von Tilsit_, tiếng
**Trận Austerlitz** (còn gọi là **Trận Ba Hoàng đế** hay **Trận Tam Hoàng**), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoléon. Trận đánh xảy ra
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
Trong lịch sử Nga, giai đoạn từ 1796 đến 1855 (bao gồm các triều đại của Pavel I, Aleksandr I và Nikolai) đã chứng kiến các cuộc chiến tranh của Napoléon, cải cách chính phủ,
**Pavel I của Nga**, còn được chép là **Paul I** (; _Pavel Petrovich_) ( – ) là Hoàng đế Nga từ năm 1796 đến năm 1801. Trong triều đại mình, Pavel đã bãi bỏ nhiều
**Konstantin Pavlovich** (tiếng Nga: Константи́н Па́влович; 08 Tháng 5 năm 1779 (lịch cũ 27 tháng 4) - 27 tháng 6 năm 1831 (lịch cũ 15 tháng 6) là đại công tước của Nga và là
**Trận phòng thủ pháo đài Brest** là một trận đánh diễn ra giữa quân đội phát xít Đức với lực lượng Hồng quân Xô Viết đồn trú trong pháo đài Brest. Về cơ bản, trận
**_Ten no hate made - Porando hishi_** (天の涯まで―ポーランド秘史?), tiếng Việt gọi là **_Tới cuối thiên đường - Lịch sử bí mật của Ba Lan_**, là một manga lịch sử của Ikeda Riyoko viết vào năm
**Jérôme-Napoléon Bonaparte** (Tên khai sinh: Girolamo Buonaparte; 15 tháng 11 năm 1784 - 24 tháng 6 năm 1860) là em trai út của Hoàng đế Napoleon I, được đưa lên làm vua của Vương quốc
**Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ** (_United States Marine Corps_) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm phòng vệ vũ trang và tiến công đổ bộ từ phía biển, sử
**Nicolas Charles Oudinot**, **Bá tước Oudinot**, **Công tước xứ Reggio** (25 tháng 4 năm 1767 tại Bar-le-Duc – 13 tháng 9 năm 1848 tại Paris), là một thống chế Pháp. Ông được biết đến bởi
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
phải|nhỏ|[[Pyotr I của Nga|Pyotr Đại đế chính thức đổi tên thành Sa hoàng Nga Đế quốc Nga vào năm 1721, và trở thành hoàng đế đầu tiên của nó.]] **Chính sách đối ngoại Đế quốc
**Quan hệ Pháp – Đan Mạch** là mối quan hệ song phương giữa Đan Mạch và Pháp trong hiện tại và quá khứ. Đan Mạch có đại sứ quán ở Paris và Pháp có đại
**Claude Victor-Perrin**, Đệ nhất Công tước của** Belluno** (7 tháng 12 năm 1764 – 1 tháng 3 năm 1841) là một người lính Pháp và nhà lãnh đạo quân sự trong cuộc cách Mạng Pháp
**Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr** ở Ukraina (1944), hay còn được gọi là **Chiến dịch tấn công Dniepr–Carpath**, kéo dài từ ngày 24 tháng 12 năm 1943 đến ngày 14 tháng 4 năm
**François Joseph Lefebvre** (/ˈlˌfɛvrə/; 25 tháng 10 năm 1755 – 14 tháng 9 năm 1820), Công tước xứ Dantzig, là một chỉ huy người Pháp Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoleon và