✨Anna Jagiellonka

Anna Jagiellonka

Anna I của Ba Lan hay Anna Jagiellonka (, ; 18/10/1523 – 12/11/1596) là Nữ vương Ba Lan và là Nữ Đại vương công Lietuva từ năm 1575 đến năm 1586. Bà là con gái của vua Zygmunt I của Ba Lan với vương hậu người Ý Bona Sforza. Vì nhiều lý do khác nhau, Anna vẫn chưa lập gia đình đến năm 52 tuổi. Sau cái chết của anh trai là Zygmunt II của Ba Lan - thành viên cuối cùng của Triều đại Jagiellon, bà được bầu làm Nữ vương Ba Lan và là Nữ Đại vương công Lietuva và kết hôn với viên quý tộc Stefan Batory. Báthory đã bận việc đến cuộc chiến Livonia, trong khi Anna dành thời gian ở Warsaw để quản lý hành chính thay chồng và xây dựng các công trình kiến trúc mới. Sau khi chồng mất năm 1586, bà tính đến việc đòi lại ngôi vua Ba Lan. Nhưng do sức khỏe yếu, bà nhường ngôi vị cho cháu trai là Zygmunt III Waza, người thành lập thành lập triều đại Vasa trên ngai vàng Ba Lan - Lietuva trong tám mươi năm tới (1587–1668).

Cuộc đời

Dưới thời Thái hậu Bona Sforza

Anna Jagiellon sinh ngày 18 tháng 10 năm 1523 với vua và hoàng hậu Ba Lan, Zygmunt I của Ba Lan và Bona Sforza. Thời thơ ấu, công chúa Anna sinh sống chủ yếu ở ở Kraków với các anh chị em. Khoảng thời gian từ tháng 6 năm 1533 đến tháng 11 năm 1536 và từ tháng 4 năm 1540 đến tháng 6 năm 1542 là những năm tháng buồn tẻ của Anna Jagiellon, khi cha mẹ quyết định cho Anna và hai chị em ở Kraków trong khi những người còn lại ở Lithuania. Đến năm 1556, ba chị em của Anna Jagiellon gặp chuyện buồn khi cô chị là Sophia Jagiellon kết hôn với Henry V, Công tước Brunswick-Lüneburg. Công chúa Anna sống khép kin trong cung và có nhiều hoạt động như thêu và khâu, chơi cờ vua và xúc xắc, đã tham gia hoạt động từ thiện giúp người nghèo. Công chúa cũng nhận được một nền giáo dục tuyệt vời - nàng thông thạo tiếng Ý và biết tiếng Latinh.

Vấn đề hôn nhân của ba chị em Anna Jagiellon không được cha quan tâm đến. Chỉ sau cái chết của Zygmunt I của Ba Lan năm 1548, vấn đề hôn nhân được đặt ra. Đầu tiên là Albert Alcibiades, Bá tước của Brandenburg-Kulmbach - một người theo Tin lành và ôn hòa. Năm 1548, tân vương Zygmunt II của Ba Lan bỏ qua lời khuyên can của mẹ khi tiến hành cuộc hôn nhân bí mật với Barbara Radziwiłł, khiến Thái hậu và ba chị em bỏ ra Mazovia, chủ yếu là Warsaw và Lâu đài Ujazdów. Về sau, nhà vua không can dự gì vào cuộc hôn nhân của các chị em Anna. Năm 1550, Bona cố gắng thương lượng hôn nhân với Charles Victor hoặc Philip, con trai của Henry V, Công tước Brunswick-Lüneburg, hoặc Ernest xứ Bavaria. Sau cuộc họp gia đình vào tháng 5 năm 1552 tại Płock, Sigismund xem xét kết hôn với các chị em của mình cho Vua Gustav I của Thụy Điển, John Frederick II và Johann Wilhelm của Saxony, và John Albert I, Công tước Mecklenburg - nhưng nhà vua tỏ ra thiếu kiên định không quyết định được gì cả.

Vua Erik XIV của Thụy Điển đích thân quan tâm hơn trong việc theo đuổi cuộc hôn nhân với Nữ hoàng Elizabeth I của nước Anh, nhưng ông đã tìm kiếm một liên minh với Ba Lan và đề nghị em trai Johan, Công tước Phần Lan mai mối. Johan đồng ý, nhưng hỏi em gái của Anna là Catherine. Vì nhiều lý do khác nhau, cuộc mai mối bị trì hoãn

Anna chuyển đến Lâu đài Hoàng gia ở Warsaw vì Vilnius không an toàn do cuộc chiến Livonia và sống ở đó khoảng mười năm. Năm 1568, Sophia Jagiellon đề xuất Eberhard, con cả của Christoph, Công tước Württemberg, nhưng ông qua đời cùng năm. Năm 1569, Anna được mai mối cho Barnim X, Công tước Pomerania. Pomerania yêu cầu Anna dâng 8 tỉnh của đất nước cho Công tước, nhưng vua Ba Lan từ chối ngay lập tức. Năm 1572, Sophia đề xuất Albert Frederick, Công tước Phổ, nhưng cũng bị Zygmunt II của Ba Lan từ chối nốt nhỏ|Chân dung [[Stefan Batory của với Nữ vương Anna, khoảng năm 1875.]] Jean de Monluc, Giám mục Valence đã đề nghị các quý tộc Ba Lan cử vua Henri III của Pháp làm vua Ba Lan - Lietuva (Lithuana) kế tiếp. Montluc hứa với các quý tộc rằng Henry sẽ cưới Anna để duy trì triều đại. Bất chấp mọi nỗ lực của quý tộc đang tìm cách loại bỏ Anna ra khỏi danh sách kế vị ngôi vua, nhưng Anna đã ủng hộ mạnh mẽ vị vua tại nhiệm - Henri III. Anna đã hãnh diện rằng Henri sẽ "chăm sóc cho cô ấy chứ không phải cho vương quốc". Với sự hỗ trợ của Anna, Henry được bầu làm Vua Ba Lan vào ngày 11 tháng 5 năm 1573 và chính thức lên ngôi vào ngày 21 tháng 2 năm 1574. Vào tháng 6 năm 1574, Henri rời Ba Lan về làm Vua Pháp và vào tháng 5 năm 1575, Quốc hội Khối thịnh vượng chung đã truất phế Henri và dự tính lập người kế vị tiếp theo.

Ở cuối thời kỳ khoảng giữa, Anna đã chuẩn bị mọi thứ để sẵn sàng cho việc kế vị ngai vàng hiện đang bỏ trống - xưng hiệu là Chúa của đất Ba Lan. Để giữ vững quyền lực vừa mới khôi phục, Anna muốn kết hôn để trở thành Nữ hoàng Ba Lan. Bỏ qua việc bị vua Pháp từ chối kết hôn, Anna tiếp tục xem xét những đấng lang quân tương lai: Đại Công tước Áo Ernest, Công tước Ferrara Alfonso II d'Este, Frederick IV của Liegnitz. Tháng 12 năm 1575, theo đề xuất của Jan Zamoyski, Anna chính thức cưới tuyển hầu Stefan Batory của Transylvania. Vào ngày 15 tháng 12 năm 1575, tại Wola gần Warsaw, Anna và Stephen Báthory được bầu làm đồng cai trị của khối Thịnh vượng chung Ba Lan - Lietuva. Phái đoàn Lithuania không tham gia cuộc bầu cử và không công nhận kết quả bầu cử. Chỉ vào ngày 29 tháng 6 năm 1576, sau lễ đăng quang, giới quý tộc Lithuania đã đồng ý nhận ra Anna và Báthory

Cuộc sống dưới thời Stefan Bathory

Anna ủng hộ Báthory tiền bạc để sắm sửa nhiều loại vũ khí, nhưng từ chối kết hôn với per procura. Ngày 28 tháng 2 năm 1576, Anna vào Kraków làm Nữ hoàng chính thức; Báthory chính thức đồng cai trị với Anna vào ngày 23 tháng 4. Vào ngày 1 tháng 5, họ kết hôn và đăng quang tại Nhà thờ Wawel. Anna buộc phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng, đổi lại bà nhận được khối tài sản sử dụng suốt đời và một khoảng chu cấp hằng năm của chính quyền là 60.000 đồng vàng.

Mặc dù chỉ là vua trên danh nghĩa, nhưng Anna không quan tâm nhiều đến triều chính mà tham gia việc tái thiết Lâu đài Hoàng gia ở Warsaw và Cầu Sigismund Augustus. Stefan Báthory được chôn cất trong Nhà nguyện Đức Trinh Nữ Maria. Năm 1589, Anna lập bia tưởng niệm người chồng quá cố của mình. Cùng lúc đó, bà đã xây dựng nhà mộ của mình trong Nhà nguyện của Sigismund.

Thái hậu

Với cái chết của chồng vào tháng 12 năm 1586, Anna đứng trước cơ hội lên ngôi quốc vương. Ít lâu sau, bà từ bỏ cơ hội đó để đề cử cháu gái Anna Vasa hoặc cháu trai Sigismund Vasa, con của em gái Catherine Jagiellon của Thụy Điển. Lúc đầu, Anna dự định cưới chồng cho cháu gái Anna Vasa để hai người cùng lên đồng trị vì, nhưng quý tộc ra sức phản đối. Sau đó, bà dự định tài trợ cho cháu trai là Sigismund Vasa của Thụy Điển lên ngôi (lúc đầu Johan III của Thụy Điển không đồng ý vì không muốn mất đi người kế thừa duy nhất, nhưng hoàng hậu Catherine đã thuyết phục được chồng nghe theo ý kiến của cô chị Anna). Ít lâu sau, Anna mai mối cháu gái Anna cho Đại Công tước Áo Maximilian III, ứng viên khác có khả năng lên ngôi vua Ba Lan. Anna cũng viết nhiều thư và vận động tiền bạc cho cuộc hôn nhân này của cháu gái. Ba cũng nhận được sự hỗ trợ quan trọng từ Jan Zamoyski, người đã kết hôn với cháu gái của vua Stefan là Griselda Báthory và có tham vọng ngấp nghé ngai vàng. Có lẽ cả Anna và Jan đều nghĩ rằng họ có thể dễ dàng kiểm soát người thiếu niên 20 tuổi

Anna qua đời tại Warsaw vào ngày 9 tháng 9 năm 1596 dưới tên Jagiellon cuối cùng.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Anna I của Ba Lan** hay **Anna** **Jagiellonka** (, ; 18/10/1523 – 12/11/1596) là Nữ vương Ba Lan và là Nữ Đại vương công Lietuva từ năm 1575 đến năm 1586. Bà là con gái
**Kazimierz IV Jagiellończyk** (tiếng Ba Lan: Kazimierz IV Andrzej Jagiellończyk ; tiếng Lithuania: Kazimieras Jogailaitis; 30 tháng 11 năm 1427 - 07 tháng 6 năm 1492) là vua của Ba Lan và là Đại công
**Phố cổ Warszawa** ( và thông tục là _Starówka_) là khu vực lâu đời nhất của Warszawa, Ba Lan. Nó được giới hạn bởi _Wybrzeże Gdańskie_, dọc theo sông Vistula, và bên cạnh các khu
**Vương cung thánh đường Hoàng gia Saints Stanislaus và Wenceslaus trên đồi Wawel** (), còn được gọi là **Thánh đường Wawel** (), là một nhà thờ Công giáo La Mã nằm trên đồi Wawel ở
**Nhà thờ Thánh Gioan Baotixita** (tiếng Ba Lan: _Archikatedra św. Jana w Warszawie_) là một nhà thờ Công giáo La Mã nằm trong khuôn viên phố cổ ở Warszawa, Ba Lan. Nhà thờ Thánh Gioan
**Stefan Batory** (; ; ; 27 tháng 9 năm 1533 – 12 tháng 12 năm 1586) là Thân vương xứ Transilvania (1571-1586), và về sau là vua Ba Lan (1576-1586) và Đại vương công Lietuva
**Zygmunt II Augustus** (, ; 1 tháng 8 1520 - 7 tháng 7 năm 1572) là một vị Vua Ba Lan và Đại vương công Lietuva. Ông là người con trai kế vị độc nhất
**Lâu đài Ducal** ở Szczecin, Ba Lan, là cơ ngơi của công tước Pomerania-Stettin của Nhà Pomerania (_Griffins_), người trị vì Công tước Pomerania từ năm 1121 đến 1637. ## Lịch sử Barnim Đại đế
**Cầu Sigismund Augustus** (tiếng Ba Lan: _Most Zygmunta Augusta_) là một cây cầu gỗ bắc qua sông Vistula ở Warsaw, một trong những con sông dài và quan trọng nhất ở Ba Lan. ## Lịch
**_Bài thuyết pháp của Piotr Skarga_** hoặc **_Bài thuyết pháp của Skarga_** () là một bức tranh sơn dầu khổ lớn của Jan Matejko, hoàn thành vào năm 1864 và hiện đang trưng bày ở
**Lịch Gregorius**, hay **lịch Gregory**, còn gọi là **Tây lịch**, **Công lịch**, **Dương lịch**, là lịch được sử dụng ở hầu hết các nơi trên thế giới. Nó được đặt theo tên của Giáo hoàng
**Lidia Wysocka** (24 tháng 6 năm 1916 - 2 tháng 1 năm 2006) là một diễn viên sân khấu, điện ảnh và lồng tiếng, ca sĩ, nghệ sĩ biểu diễn tạp kỹ và giám đốc
**Katarzyna Jagiellonka** (; Tiếng Litva: _Kotryna Jogailaitė_; 1 tháng 11 năm 1526 – 16 tháng 9 năm 1583) là Vương nữ của Liên bang Ba Lan-Lietuva và là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1569
Tính cách của phụ nữ Ba Lan được định hình bởi lịch sử, văn hóa và chính trị của họ. Ba Lan là quốc gia có một lịch sử lâu dài về hoạt động nữ