✨Chính sách di cư của Ba Lan

Chính sách di cư của Ba Lan

Chính sách di cư của Ba Lan - chính sách được hiểu là chiến lược kiểm soát quá trình di cư nhằm đạt được các mục tiêu và lợi ích được đặt ra của nhà nước Ba Lan. Chính sách bao gồm cả việc kiểm soát quá trình nhập cư và di cư, cũng như di cư nội địa.

Giai đoạn 1945-1989

Ngay sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Ba Lan đã nỗ lực thống nhất hơn nữa cấu trúc dân cư quốc gia (giảm rủi ro có thể phát sinh do vấn đề dân tộc) và cung cấp lực lượng lao động phù hợp làm nền tảng cho sự phát triển của các thành phố. Các chính sách đã thực hiện như sau:

  • Sự dịch chuyển cư dân Đức (trục xuất người có quốc tịch Đức) từ Ba Lan
  • Người dân Ba Lan từ các khu vực Liên Xô tái định cư về lãnh thổ Ba Lan, sinh sống trên các vùng Lãnh thổ được chiếm lại (nhằm giải quyết các vùng đất bị bỏ hoang)
  • Tái định cư người gốc Ukraina: Những người Ukraina sống ở Ba Lan di cư sang Liên Xô
  • Tái định cư và phân phối người gốc Ukraine còn lại ở Ba Lan trên Lãnh thổ được chiếm lại - hành động "Wisła" (sự dịch chuyển hàng loạt dân thường từ các khu vực phía đông nam Ba Lan, chủ yếu đến các vùng đất phía Tây)
  • Hỗ trợ di cư dân cư nông thôn đến các thành phố

Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan đã tìm cách hạn chế sự di cư. Điều này chủ yếu là do sự nhạy cảm về nguy cơ thiết lập liên lạc với các nước phương Tây, sự ràng buộc của chính quyền về vấn đề di cư với các vấn đề chính trị và chính sách hộ chiếu tự do.

Các hoạt động quan trọng của chính sách di cư:

  • Ủng hộ sự di cư của những người gốc Do Thái từ Ba Lan (chiến dịch chống Do Thái sau các cuộc khủng hoảng chính trị vào tháng 3/1968)
  • Hỗ trợ di cư chính trị ("hộ chiếu một chiều" cho những người tranh giành chính quyền cộng sản rời khỏi Ba Lan)
  • Ngăn chặn sự thoát ly của công dân Cộng hòa Nhân dân Ba Lan sang phương Tây (di cư chủ yếu vì lý do kinh tế, di cư sang Hoa Kỳ).

Chính sách di cư trong giai đoạn 1945-1989 tập trung vào việc duy trì quyền lực của Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (và các tiền thân của nó) thông qua quy định có hệ thống của cấu trúc dân cư quốc gia và sự di cư của công dân khỏi đất nước.

Giai đoạn sau năm 1989

Vấn đề di cư chính sau năm 1989

  • Sự gia tăng di cư kinh tế do tình hình kinh tế khó khăn trong những năm 90
  • Dòng người nhập cư từ phương Đông - vấn đề hội nhập (văn hóa, kinh tế), vấn đề pháp lý (làm việc trong vùng xám- vi phạm pháp luật); Ba Lan là một quốc gia quá cảnh
  • Dòng người nhập cư tìm kiếm tị nạn chính trị (chủ yếu từ Cộng hòa Chechnya)
  • Di cư kinh tế hàng loạt sau khi Ba Lan gia nhập Liên minh châu Âu với chính sách mở cửa thị trường lao động của một số nước; sự rời đi của các chuyên gia và lực lượng lao động có trình độ trong nhiều ngành, ví dụ như xây dựng; sự di cư của sinh viên tốt nghiệp đại học
  • Sự giảm quyền kiểm soát các quá trình di chuyển của chính phủ Ba Lan đối với người dân, sau khi nước này ký kết hiệp ước đi lại tự do với một số nước châu Âu và gia nhập khối Schengen.
  • Vấn đề hồi hương
  • Các vấn đề pháp lý liên quan đến hôn nhân và ly hôn giữa các công dân của các quốc gia khác nhau
  • Suy giảm có hệ thống các khu vực kém phát triển của đất nước

Các mục tiêu quan trọng nhất của chính sách di cư của Ba Lan

  • Tạo ra một hệ thống pháp lý rõ ràng cho người nước ngoài ở Ba Lan, bao gồm cấp quyền công dân hoặc người tị nạn. Tự do hóa các quy tắc định cư nước ngoài
  • Giải quyết vấn đề người nước ngoài làm việc trong nền kinh tế bóng tối (buôn lậu, phạm pháp), tự do hóa thị trường lao động
  • Cung cấp hỗ trợ xã hội cho người nhập cư; đảm bảo đủ điều kiện cho người bị giam giữ ở lại bất hợp pháp tại Ba Lan, cho những người nộp đơn xin tị nạn; đồng thời hỗ trợ các gia đình nhập cư ở Ba Lan sớm độc lập về tài chính, khiến họ không phải sống dựa vào trợ giúp xã hội, và về lâu dài để hạn chế gánh nặng cho chính phủ.
  • Phát triển một phương pháp hội nhập hiệu quả, đặc biệt là cung cấp cơ hội giáo dục và phát triển cho các gia đình nhập cư
  • Ngăn chặn "chảy máu chất xám" đối với các chuyên gia trong nước; cuối cùng lấp đầy khoảng trống trên thị trường lao động bởi các chuyên gia nước ngoài
  • Đảm bảo biên giới phía đông của khu vực Schengen.
  • Tạo khung pháp lý hiệu quả để đón người hồi hương về nước, bao gồm Ba Lan từ Kazakhstan
  • Tạo ra các giải pháp pháp lý về hôn nhân cho các cặp đôi khác quốc tịch
  • Hỗ trợ phát triển kinh tế đối với các vùng kém phát triển của đất nước, bao gồm Chương trình hoạt động phát triển của Đông Ba Lan (quỹ châu Âu)
  • Phục hồi thương mại xuyên biên giới với các nước trong khối Schengen

Trong những năm gần đây, có một xu hướng đáng chú ý trong việc châu Âu hóa chính sách di cư, đó là hợp tác di dân giữa các nước Liên minh châu Âu.

Các tổ chức quan trọng nhất chịu trách nhiệm thực hiện chính sách di cư của Ba Lan

  • Bộ Nội vụ
  • Văn phòng cho người nước ngoài
  • Bộ ngoại giao
  • Bộ Lao động và Chính sách xã hội
  • Bộ giáo dục quốc dân
  • Bộ tài chính
  • Bộ đội biên phòng
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chính sách di cư của Ba Lan** - chính sách được hiểu là chiến lược kiểm soát quá trình di cư nhằm đạt được các mục tiêu và lợi ích được đặt ra của nhà
**Katarzyna Jagiellonka** (; Tiếng Litva: _Kotryna Jogailaitė_; 1 tháng 11 năm 1526 – 16 tháng 9 năm 1583) là Vương nữ của Liên bang Ba Lan-Lietuva và là Vương hậu Thụy Điển từ năm 1569
Một tấm thị thực Việt Nam cho phép nhập cảnh nhiều lần dán trên [[hộ chiếu Hoa Kỳ]] **Thị thực Việt Nam** là loại giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
**Maria Karolina Zofia Felicja Leszczyńska của Ba Lan** (; 23 tháng 6 năm 1703 – 24 tháng 6 năm 1768), còn được gọi là **Marie Leczinska** (), là Vương hậu Pháp sau khi kết
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
**August II Mạnh mẽ** (; ; 12 tháng 5 năm 1670 – 1 tháng 2 năm 1733) là Tuyển hầu xứ Sachsen của nhánh Albertine của gia tộc Wettin với tôn hiệu **Friedrich August I**. Ông
**Tỉnh Podolia** (, ) hay **Palatinate Podolia** là một đơn vị hành chính và chính quyền địa phương ở Vương quốc Ba Lan, từ năm 1434 đến năm 1793, ngoại trừ thời kỳ Ottoman chiếm
thumb|right|Dấu nhập và xuất cảnh trên hộ chiếu Thụy Điển Du khách đến **Azerbaijan** phải xin thị thực từ một trong những phái bộ ngoại giao của Azerbaijan, trừ khi họ đến từ một trong
xxxx300px|thumbnail|Thị thực Belarus với dấu nhập và xuất cảnh được cấp cho công dân của Singapore]] Du khách đến **Belarus** phải xin thị thực từ một trong những phái bộ ngoại giao của Belarus trừ
Du khách đến **Panama** phải xin thị thực trừ khi họ là công dân của các nước được miễn thị thực lên đến 180 ngày. Tất cả hành khách phải sở hữu hộ chiếu có
**Stanisław II August của Ba Lan** (cũng viết **Stanisław August Poniatowski**; tên khi sinh **Stanisław Antoni Poniatowski**;(17 tháng 1 năm 1732 - 12 tháng 2 năm 1798) là vị vua cuối cùng của Ba Lan,
Chính phủ Guyana miễn thị thực với công dân của một số quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Tất cả du khách phải có hộ chiếu có hiệu lực 6 tháng. ## Bản đồ chính
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
**Thịnh vượng chung Ba Lan và Litva** (, ) hay **Liên bang Ba Lan – Litva** hay **Thịnh vượng chung Ba Lan – Litva** là một trong những quốc gia rộng lớn và đông dân
**Quan hệ Hoa Kỳ - Ba Lan** chính thức bắt đầu năm 1919. Từ năm 1989, các mối quan hệ Hoa Kỳ - Ba Lan rất tốt và Balan là một trong số các đồng
nhỏ|400x400px|Thị thực quá cảnh của Nhật trên hộ chiếu Trung Quốc Khách đến **Nhật Bản** phải có thị thực từ một trong những phái bộ ngoại giao Nhật Bản trừ khi họ đến từ một
nhỏ|phải|Tổng thống Vladimir Putin ở Slovenia **Chính sách đối ngoại của Vladimir Putin** liên quan đến các chính sách của tổng thống Vladimir Putin của Liên bang Nga đối với các quốc gia khác. Ông
Du khách đến **Libya** phải xin thị thực từ một trong những phái bộ ngoại giao Libya trừ khi họ đến từ một trong những nước được miễn thị thực. Libya hiện không cấp thị
thumb|upright=1.36|Dấu nhập cảnh Mexico được cấp tại [[Quintana Roo điểm kiểm tra biên giới Belize-Mexico]] **Thị thực México** là giấy tờ được cấp bởi Viện Nhập cư Quốc gia, với mục đích quản lý việc
**Giáng sinh ở Ba Lan** là một lễ kỷ niệm lớn được tổ chức hàng năm, như ở hầu hết các quốc gia trong thế giới Kitô giáo. Việc tổ chức Giáng sinh phát triển
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
**Chính sách thị thực Khối Schengen** được đặt ra bởi Liên minh Châu Âu và áp dụng với Khối Schengen và các quốc gia thành viên EU khác trừ các quốc gia chọn không tham
**Cộng hòa Nhân dân Ba Lan** (1952–1989), trước đây là **Cộng hòa Ba Lan** (1944–1952), là một quốc gia ở Trung Âu tồn tại như tiền thân của Cộng hòa Ba Lan dân chủ hiện
**Harta** là một ngôi làng nằm ở xã Dynów, huyện Rzeszowski, tỉnh Podkarpackie, Ba Lan. Làng có kiểu một đường trục xuyên suốt tọa lạc tại chân đồi Dynowskie, trong trũng suối cùng tên trải
**Danh sách dị giáo phái theo quan điểm của Chính quyền** (_Governmental lists of cults and sects_) là việc phân loại các tôn giáo, giáo phái, các hội nhóm tôn giáo, tín ngưỡng được Chính
phải|nhỏ| Chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai trong [[Chiến lược chuỗi đảo của Mỹ, được nghiên cứu bởi các chiến lược gia quân sự Trung Quốc để tránh bị bao vây ]] **Chính sách
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
Tất cả các hoạt động trong lịch sử của Ba Lan nhằm mục đích giáo dục và nuôi dạy. Các cấu trúc cơ bản mà các hoạt động giáo dục được thực hiện trong nhà
**Lịch sử Ba Lan** bắt đầu với cuộc di cư của người Slav vốn đã dẫn tới sự ra đời của các nhà nước Ba Lan đầu tiên vào đầu Trung cổ, khi các dân
**Ba Lan A và B** ( ) đề cập đến sự khác biệt về lịch sử, chính trị và văn hóa giữa phía tây và phía đông của đất nước, với Ba Lan "A", phía
**Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ba Lan** (), thường gọi là **thủ tướng Ba Lan** () là người đứng đầu chính phủ của Ba Lan. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng do tổng thống
Sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, xã hội và văn hóa Ba Lan có những thay đổi đáng kể. ## Chiến tranh thế giới thứ hai Với việc mở rộng các
thumb|Bản đồ các dòng di cư sớm thời tiền sử theo [[DNA ty thể. Các con số thể hiện là Ka BP.]] **Các dòng di cư sớm thời tiền sử** bắt đầu khi Người đứng
**Bảo tàng Lịch sử người Do Thái Ba Lan POLIN** () là một bảo tàng tại địa điểm của Khu Do Thái Warszawa cũ. Từ tiếng Do Thái _Polin_ trong tên tiếng Anh của bảo
**Người Ba Lan ở Đức** là cộng đồng người Ba Lan (_Polonia_) lớn thứ hai trên thế giới và lớn nhất ở châu Âu. Ước tính số lượng người Ba Lan sống ở Đức thay
**Những tội ác chống lại Ba Lan** được gây ra bởi Đức Quốc Xã và những lực lượng công tác trong cuộc tấn công Ba Lan (1939), cùng với những tiểu đoàn phụ trợ trong
Trong Thế chiến I không tồn tại một quốc gia Ba Lan độc lập, với vị trí địa lý nằm giữa các cường quốc tham chiến, có nghĩa là nhiều trận chiến và tổn thất
**Vụ bê bối cấp visa** () là một vụ bê bối chính trị đang diễn ra ở Ba Lan liên quan đến cáo buộc tham nhũng trong việc cấp thị thực bởi các quan chức
Sau khi Cuộc tấn công Ba Lan được phát động bởi cả Liên Xô và Đức Quốc Xã, các chiến dịch khủng bố và đàn áp người Ba Lan của Liên Xô đã bắt đầu
**Quan hệ Ba Lan – Nga** (, ) là mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Ba Lan và Liên bang Nga. Hai quốc gia này có một mối quan hệ lâu dài song
Vụ **thảm sát người Ba Lan ở Volhynia và Đông Galicia** (, nghĩa: _giết chóc Volhynia_; , _bi kịch Volyn_) là một phần của hoạt động thanh lọc sắc tộc thực hiện tại vùng đất
**Người Việt tại Ba Lan** tạo thành một trong những nhóm dân tộc thiểu số lớn ở Ba Lan. Cộng đồng người Việt ở Ba Lan là cộng đồng người Việt đông thứ ba ở
thumb|Bản sao của [[Vương miện của Bolesław I Dũng cảm, quả cầu hoàng gia và vương trượng được dùng trong lễ đăng quang của Stanisław August Poniatowski năm 1764]] thumb|right|Biểu chương của Vua [[August III
**Ủy ban Cách mạng Lâm thời Ba Lan** (Tiếng Ba Lan: _Tymczasowy Komitet Rewolucyjny Polski_, viết tắt là _Polrewkom_, Tiếng Nga: _Польревком_) là một cơ quan chính quyền được thành lập bởi những người Bolshevik
**Đường cao tốc A18** là một đường cao tốc ngắn, được lên kế hoạch xây dựng ở phía tây nam Ba Lan, chạy từ biên giới Ba Lan / Đức tại Olszyna / Forst -Bademeusel