✨Trần Thiêm Bình

Trần Thiêm Bình

Trần Thiêm Bình (添平, ? – 1406) hoặc Trần Thiên Bình (陳天平)

Cầu viện nhà Minh

Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra nhà Hồ-Đại Ngu, Trần Thiêm Bình mạo xưng là con vua Trần Nghệ Tông, chạy sang Yên Kinh cầu viện nhà Minh xin giúp binh đánh Đại Ngu báo thù. Thiêm Bình khẩn khoản nói với Minh Thành Tổ ra quân, chỉ cần vài ngàn người có thể thắng lợi, vì đi tới đâu sẽ có người hưởng ứng.

Sách Thù vực chu tư lục (quyển 9) chép:

Sứ giả của Điêu Duyên Đãi (刁緣歹), Tuyên úy sứ quân dân nước Lão Qua (老撾), hộ tống triều thần là Trần Thiên Bình (陳天平), cháu của cựu An Nam vương, đến triều. Tấu rằng:

“Thần Thiên Bình, là cháu của cựu An Nam vương Trần Hằng (恒), con của Trần Thiên Minh (天明), em của Trần Nhật Khuể (日煃). Nhật Khuể kính cẩn quy thuận thiên triều, được Thái Tổ Cao Hoàng Đế phong làm An Nam vương, ban chương ấn, tại vị 2 năm thì mất. Em là Trần Duật (𣊟) kế vị, cũng chỉ 2 năm, rồi con là Trần Vãn (晚) nối ngôi. Tên nghịch thần Lê Quý Ly (黎季犛) nắm quyền, tự tung tự tác. Trần Vãn muốn kiềm chế hắn, bị Quý Ly giết, lập con Vãn là Trần Ngung (顒), nhưng quyền hành đều nằm trong tay Quý Ly và con là Lê Thương (黎蒼). Trước sau trong ngoài đều là bè đảng phản nghịch, Ngung chỉ biết khoanh tay đứng nhìn. Chẳng bao lâu, Quý Ly lại giết Ngung, lập con là Trần An (炙), còn nhỏ, vẫn còn trong tã lót. Cha con Quý Ly đại sát tông tộc họ Trần, giết cả Trần Duật để đoạt ngôi. Đổi tên thành Hồ Nhất Nguyên (胡一元), con là Hồ Khuê (胡奎), xưng là Đại Ngu hoàng đế.

Thần vì bị ruồng bỏ từ trước, sống lưu lạc bên ngoài. Cha con Quý Ly mưu đoạt ngôi, thần may ở xa nên thoát. Các cựu thần trung nghĩa tôn thần làm chủ, mưu việc báo thù. Đang bàn việc chiêu binh thì giặc kéo đến, thần phải vội vã chạy trốn. Bè bạn tan rã, nghịch đảng truy đuổi ráo riết, sai quân lùng bắt khắp nơi. Thần ẩn náu nơi hoang dã, nhặt nhạnh tự nuôi thân, đói khát khốn cùng, sống sót trong gang tấc. Lâu sau, thấy tình hình tạm yên, thần lần mò vượt núi băng rừng đến được Lão Qua. Nhưng lúc ấy Lão Qua nhiều việc, không thể giúp thần. Ngóng vọng triều đình, cách trở vạn dặm, không nơi kêu oan, nhiều lần muốn tự tận, chỉ mong sống sót, kéo dài năm tháng. Bỗng đọc được chiếu thư, biết Hoàng thượng nối ngôi chính thống, theo đúng phép xưa. Lòng thần vui mừng, có nơi nương tựa. Nhưng vì bệnh lâu ngày, mãi đến năm nay mới được vào chầu. Nghĩ đến tiên vương từng được Thái Tổ Cao Hoàng Đế ban mệnh, đời đời giữ An Nam, kính cẩn triều cống. Há ngờ nghịch tặc dám làm loạn tột cùng, ngạo mạn thánh minh, coi thường lễ pháp, liên tiếp giết vua, cuối cùng cướp ngôi. Tông tộc họ Trần bị giết sạch, chỉ còn thần sống sót. Thần và nghịch tặc không đội trời chung, cúi mong thánh ân thương xót.”

Nói rồi dập đầu rơi lệ. Lại tâu:

“Nghịch thần Lê Quý Ly đã già, mưu kế phần nhiều do Lê Thương bày ra. Chúng đánh cướp Chiêm Thành, muốn bắt thần quy phục. Lại xâm lấn phủ Tư Minh (思明), chiếm đất đai. Xét lòng dạ chúng, thật muốn chống lại thiên triều. Chúng bóc lột tàn bạo, luật lệ hà khắc, dân chúng oán than như sa vào nước lửa. Tổ tiên thần vốn nhân hậu khoan dung, nay dân trong nước đói khổ, phần nhiều còn tưởng nhớ. Đức của bệ hạ sánh cùng trời đất, nhân đức khắp bốn biển. Một vật sai chỗ, lòng còn chưa yên. Việc phạt kẻ có tội, cứu dân lầm than, hưng diệt nối tuyệt, là điều mà phiên bang mong đợi, cũng là nguyện vọng lớn của thần vậy!”

Vua thương xót mà chấp thuận. Sai quan cấp nhà ở, mỗi tháng cấp lương thực. Việc này chép rõ trong “An Nam truyện” (安南傳), tên họ kế tiếp của họ Trần có chỗ khác với bản truyện chính, nên ghi lại để chờ khảo xét.

Minh thực lục cũng chép tương tự, nhưng có chút khác biệt: Thiên Bình là cháu nội Trần Huyên 烜, con trai Trần Mạnh 奣.

Trước đó, Bùi Bá Kỳ, tỳ tướng của Trần Khát Chân, cũng sang cầu viện nhà Minh. Theo Đại Việt sử ký toàn thư:

Bá Kỳ (người Phù Nội, Hạ Hồng) vốn là phe Trần Khát Chân, tự xưng là bề tôi trung nghĩa của Nam triều, trốn sang nước Minh, vừa gặp tên Trần vương ngụy là Thiêm Bình đến trước, người Minh hỏi có biết không, Bá Kỳ trả lời là không biết.

Đến khi nhà Minh đưa Thiêm Bình về nước, hỏi Thiêm Bình cần bao nhiêu quân, Thiêm Bình nói: "Chẳng qua vài nghìn thôi, đến đó người ta tự nguyện hàng phục". Bá Kỳ nói rằng không thể được. Vua Minh giận, phế bỏ Bá Kỳ, đem an trí tại Thiểm Tây, Cam Túc.

Năm 1404, nhà Minh sai Lý Ỷ sang hỏi nhà Hồ về việc Trần Thiêm Bình. Lý Ỷ đến công quán sai người do thám tình hình Đại Ngu. Sau khi Lý Ỷ về, hoàng đế Hồ Hán Thương sai Nguyễn Cảnh Chân dâng biểu tạ tội và xin rước Trần Thiêm Bình về nước và tôn làm chúa.

Theo Minh sử, đoàn sứ bộ của Hồ Hán Thương nhận ra Trần Thiên Bình:

Hồ Hán Thương đang sai sứ sang chúc mừng lễ Chính Đán (Tết Nguyên Đán), vua Minh cho gọi Trần Thiên Bình ra trình diện trước mặt sứ thần. Tất cả đều kinh ngạc, sững sờ, rồi quỳ xuống lạy, có người bật khóc.

Bùi Bá Kỳ trách mắng sứ thần bằng những lời lẽ đầy chính nghĩa, khiến họ hoảng sợ, không thể đáp lại.

Minh thực lục chép chi tiết:
(Năm 1404) Sứ giả An Nam đến chúc Tết Nguyên đán. Hoàng thượng lệnh cho bộ Lễ đưa Trần Thiên Bình (陳天平) ra cho sứ giả xem. Sứ giả nhận ra ông là cháu của cố vương, ai nấy đều kinh ngạc, có người quỳ xuống, có người cảm động rơi lệ.

Bùi Bá Kỳ (裴伯耆) cũng trách sứ giả rằng: “Các người thật quá đáng.” Sứ giả đều hoảng sợ, không thể đáp lời.

Hoàng thượng nghe chuyện, nói với các thị thần: “Lúc đầu Hồ Hán Thương (胡𡗨) nước An Nam nói họ Trần đã tuyệt tự, hắn là cháu rể nên tạm quyền cai trị, xin nối ngôi vương. Trẫm vốn đã nghi ngờ, sau khi sai người hỏi các bầy tôi và bô lão đi theo, ai cũng nói đúng như vậy. Trẫm nghĩ họ Trần nhờ làm rể mà được nước, nay Hán Thương là cháu ngoại mà kế vị thì cũng hợp lý, nên mới hạ chiếu phong vương. Nào ngờ hắn giết chủ, cướp ngôi, xưng đế, đổi niên hiệu, bạo ngược với dân, xâm lấn nước láng giềng — việc ấy trời đất quỷ thần đều không dung tha. Vậy mà thần dân của hắn lại cùng nhau che giấu, cả nước đều là tội nhân, sao có thể dung thứ được?”

Về nước và bị giết

Tháng 4 năm 1406, lấy cớ đưa Trần Thiêm Bình về nước, Minh Thành Tổ sai Hàn Quan và Hoàng Trung mang 5.000 quân hộ tống để lập Trần Thiêm Bình làm vua.

Ngày Canh Thìn (năm 1405), chiếu dụ cháu của An Nam vương là Trần Thiên Bình (陳天平) rằng:

“Trước đây nhận được biểu của Hồ Hán Thương (胡𡗨), nói đã hối cải sâu sắc, xin đón ngươi về để phụng sự như quân vương. Trẫm nghĩ một nước không thể có hai chủ, lo rằng Hán Thương không thật lòng, nên lại sai sứ đến hỏi. Hán Thương hứa sẽ phong ngươi làm Thượng công, ban cho một đại quận. Nay Hán Thương lại dâng biểu thề không hai lòng, còn sai Nguyễn Cảnh Chân (阮景真) cùng người khác đến đón ngươi, nói rằng sẽ thân hành ra tận biên giới nghênh tiếp.

Trẫm cho rằng đạo lý quý ở sự trung dung, lễ nghi nên tùy hoàn cảnh mà linh hoạt. Nay sai Tổng binh Đô đốc Quảng Tây là Hoàng Trung (黃中) cùng 5.000 quân hộ tống ngươi về nước, việc trị nước giao cho ngươi tùy nghi thi hành.”

...

Chiếu dụ Tổng binh Quảng Tây, Chinh Nam tướng quân, Đô đốc đồng tri Hàn Quán (韓觀), Tả phó tướng quân, Đô đốc thiêm sự Hoàng Trung (黃中), Hữu phó tướng quân, Đô đốc thiêm sự Lữ Nghị (呂毅):

“Nay Hồ Hán Thương (胡𡗨) nước An Nam sai sứ đến đón cháu của cựu quốc vương là Trần Thiên Bình (陳天平) trở về nước, phụng sự như quân vương. Trẫm lấy lòng thành đãi người, nay đặc biệt cho ông ấy trở về. Các khanh hãy tuyển chọn 5.000 quân, do Hoàng Trung và Lữ Nghị chỉ huy. Khi Trần Thiên Bình đến, hộ tống ông ấy về nước. Việc này cần xét kỹ tình hình, tiến thoái phải thận trọng, không được khinh suất.”

Minh thực lục chép:
Năm Vĩnh Lạc thứ 4, ngày mồng 7 tháng Giêng (tức ngày 7 tháng 2 năm 1406), Hồ Hán Thương (胡𡗨) nước An Nam dâng biểu xin trả lại cháu của cựu An Nam vương là Trần Thiên Bình (陳天平). Hoàng thượng chấp thuận. Trần Thiên Bình vào chầu, tâu rằng:

Thần là kẻ sót lại của nước mất, nhờ ơn đức lớn của bệ hạ mà được nuôi dưỡng, sống sót, nay lại được trở về cố quốc, thừa kế tông thống đã đoạn tuyệt, phục hồi ngôi vị đã mất, chẳng khác nào hồn phách đã tiêu tan mà được sống lại, xương mục nát mà được mọc thịt. Thần tuy ngu dốt, nhưng thật lòng mong báo đáp, chỉ mong bệ hạ như trời đất, cha mẹ, thương xót mà chăm sóc, để thần được sống trọn tuổi già.

Hoàng thượng phán:

Từ xưa các vua nước mất phải bỏ trốn như Tề Hoàn (齊桓), Tấn Văn (晉文), đều vì trong nước còn có người làm chủ nên mới có thể trở về mà yên ổn. Nay ngươi trong nước không có chủ, chỉ có trẫm làm chủ từ bên ngoài, việc này càng khiến trẫm lo nghĩ. Ngươi hãy sáng suốt để soi xét điều nhỏ, khéo léo để phòng ngừa tai họa, nhân từ để thương dân, khoan dung để dung nạp mọi người, mong không còn lo lắng về sau.

Ban thưởng cho hai bộ áo lụa gấm và 10.000 quan tiền, lệnh cho Tham chính Quảng Tây là Vương Lân (王麟) đưa ông về nước.

Chiếu phong Hồ Hán Thương (胡𡗨) làm Thuận Hóa quận công, được hưởng toàn bộ các châu huyện thuộc địa phương ấy, và sai sứ giả Nguyễn Cảnh Chân (阮景真) cùng đoàn tùy tùng trở về.

Ngày 8 tháng 4, Hoàng Trung đánh vào cửa Lãnh Kinh. Hai cánh quân thủy bộ nhà Hồ đụng độ với quân Minh. Quân Đại Ngu khinh địch nên bị bại trận đầu tiên, 4 đại tướng tử trận, tể thần Hồ Nguyên Trừng suýt bị bắt sống.

Nhưng đúng lúc đó, tướng Hồ Vấn mang quân từ Vũ Cao (Bắc Giang) đánh úp quân Minh. Hoàng Trung không chống nổi, đến đêm bèn rút quân về. Song các tướng Đại Ngu là Hồ Xạ và Trần Đĩnh mang quân đóng chặn ở ải Chi Lăng. Quân Minh bị mất đường về, buộc phải chấp nhận giao nộp Trần Thiêm Bình và sai Cao Cảnh đưa hàng thư, đề nghị mở đường cho về nước: :"Hoàng Tổng Binh sai tiểu nhân tới đây trình bày ngài biết việc này: Trước vì Thiêm Bình chạy sang triều đình tâu rằng hắn chính là An Nam Quốc Vương hoàng tử, vì thế mới cử đại binh sang chiêu dụ. Không ngờ bách tính xứ này đều không phục, rõ ràng là hắn nói bậy. Nay lui quan quân về tâu với triều đình thì bị quan ải dọc đường ngăn giữ, nghẽn lối không qua được. Nay đem Thiêm Bình tới nộp, xin thả cho đi thì may lắm".

Hồ Xạ nhận hàng thư, bằng lòng nhận Thiêm Bình, và mở vòng vây cho quân Minh rút lui. Trần Thiêm Bình bị quân Đại Ngu bắt mang về.

Khi bị tra hỏi gốc tích quê quán thuộc tổng nào, Trần Thiêm Bình im lặng không chịu nói. Kết quả Thiêm Bình bị nhà Hồ xử tội lăng trì. Những thuộc hạ đi cùng Thiêm Bình được xá tội và đưa vào Nghệ An cho làm ruộng.

Theo Minh thực lục:

Vĩnh Lạc năm 4, tháng 3, ngày 16 âm lịch (năm 1406), ngày hôm đó, Hồ Hán Thương (胡𡗨) nước An Nam đã phục kích và giết chết cháu của cựu quốc vương là Trần Thiên Bình (陳天平).

Lúc ấy, Đô đốc thiêm sự trấn thủ Quảng Tây là Hoàng Trung (黃中) cùng 5.000 quân hộ tống Trần Thiên Bình đến Khâu Ôn. Hồ Hán Thương sai bầy tôi là Hoàng Hối Khanh (黃晦卿) mang lương thực đến đón, lại có rượu thịt để khao quân. Hối Khanh và những người đi theo khi gặp Trần Thiên Bình đều quỳ lạy, nhảy múa vui mừng. Hoàng Trung hỏi Hối Khanh: “Sao Hán Thương không đến?” Hối Khanh đáp: “Sao dám không đến, chỉ vì hơi có bệnh, đã hẹn sẽ đón tại Gia Lâm.

Hoàng Trung sai Hối Khanh quay về thúc giục Hán Thương, lại phái kỵ binh đi thăm dò, nhưng đi lại đều không thấy gì. Tuy vậy, người đón tiếp vẫn liên tục mang nước trà ra dọc đường, khiến Hoàng Trung tin là thật, liền tiến quân thẳng đến Ải Lưu, qua Kê Lăng, sắp đến trạm Ghè. Đường núi hiểm trở, rừng cây rậm rạp, quân không thể đi thành hàng, lại gặp mưa lớn.

Bất ngờ, quân phục kích phát động, hô lớn bắt Trần Thiên Bình, tiếng trống tiếng hò vang dội núi rừng, quân địch hơn 10 vạn. Hoàng Trung vội chỉnh đốn quân đội đánh trả, nhưng giặc đã chặt đứt cầu đường, không thể tiến lên. Tên tướng giặc từ xa vái lạy rồi nói:

Dân man không dám chống lại đại quốc, phạm đến thiên binh, vì Trần Thiên Bình vốn là kẻ xa lạ, không phải thân thích họ Trần, lại dám dùng mưu gian để mê hoặc thánh đức, khiến thiên tử phải nhọc lòng, binh lính phải vất vả, tội đáng chết trăm lần. Nay may mắn bắt được và giết đi để tạ tội với thiên tử. Chúng thần sẽ lập tức dâng biểu chịu tội. Thiên binh đến từ xa, nước nhỏ nghèo hèn, không đủ sức tiếp đãi lâu dài.

Người đi theo Hoàng Trung không thể tiến lên, đành rút quân trở về. Lúc ấy, Thái lý tự khanh là Tiết Nham (薛嵓) bị giáng chức, đang ở Quảng Tây, được Hoàng Trung tiến cử đi theo để trợ giúp. Khi Trần Thiên Bình bị bắt, Tiết Nham cũng có mặt trong đoàn, liền tự thắt cổ chết. Tiết Nham là người huyện Văn Hương, châu Thiểm (陝州閿鄉人), khí khái, có chí lớn, có tài trị nước, từng làm tri phủ Trấn Giang, được dân kính mến.

Việc Trần Thiêm Bình bị giết khiến nhà Minh tức giận và dùng làm cớ tiến đánh nhà Hồ. Theo Minh thực lục:
Vĩnh Lạc năm 4, tháng 4 âm lịch (1406), Đô đốc thiêm sự trấn thủ Quảng Tây là Hoàng Trung (黃中) cùng các tướng dâng biểu tâu việc Hồ Hán Thương (胡𡗨) nước An Nam đã phục kích giết Trần Thiên Bình (陳天平). Hoàng thượng nổi giận, nói với Thành Quốc công Chu Năng (朱能) và các tướng rằng:

Chỉ là một tên tiểu nhân nơi man di, tội ác ngập trời, vậy mà còn dám ngấm ngầm mưu gian, ra tay độc ác như thế. Trẫm lấy lòng thành mà dung nạp, lại bị hắn lừa gạt. Việc này mà không trừng phạt thì còn dùng binh làm gì?

Các tướng đều tâu: “Nghịch tặc tội lớn, trời đất không dung. Thần xin mượn oai trời, một trận tiêu diệt sạch.

Hoàng thượng quyết định phát binh.

Ngày Giáp Thân, chiếu dụ Tây Bình hầu Mộc Thạnh (沐晟), đang trấn thủ Vân Nam:

“Trước đây trẫm sai Đô đốc Hoàng Trung (黃中) cùng các tướng hộ tống cháu của An Nam vương là Trần Thiên Bình (陳天平) về nước. Nhưng họ không tuân theo lời trẫm, khinh suất với giặc Lê, tự ý tiến quân, khiến quốc thể bị sỉ nhục. Nay trẫm quyết định phát binh nam phạt.

Chiếu lệnh cho các đô ty ở Tứ Xuyên tuyển chọn 70.000 quân, đồng thời lệnh cho Thục vương tại Thành Đô tuyển 5.000 quân từ ba vệ binh, giao cho khanh điều động. Đại quân cần phối hợp lương thảo, phải tính toán trước, tùy nghi quy hoạch vận chuyển, không được chậm trễ.

Ban thưởng cho Mộc Thạnh 500 lượng vàng.”

Tháng 5, Ngày Giáp Thìn, chiếu dụ Tổng binh Quảng Tây, Đô đốc đồng tri Hàn Quán (韓觀):

“Nay đại quân đang chinh phạt giặc Lê, cần phối hợp lương thảo. Đã chiếu lệnh cho bộ Hộ tạm cấp trước 200.000 thạch lương. Khanh hãy cùng Đô ty và Bố chánh ty Quảng Tây bàn bạc điều phối, huy động quân dân vận chuyển đến nơi thuận tiện, tích trữ sẵn sàng, chờ đại quân đi qua thì mang theo. Phần còn lại lệnh cho quân bản xứ theo quân vận chuyển dần.”

Lại chiếu lệnh cho các vệ binh ở Trấn Giang, Tô Châu, Trấn Hải, Kim Sơn, Kiến Dương, Tân An, Cửu Giang, Nghi Trấn, Cao Bưu, Hoài An, An Khánh, Lục An, Sở, Thọ, Tư, Dương, Bì, Từ, Lư, Tuyên — tổng cộng 20 vệ — tuyển chọn 10.000 quân tinh nhuệ cả kỵ binh và bộ binh, đưa đến Quảng Tây để chờ lệnh chinh phạt An Nam.

Sai Thái lý tự khanh Trần Hiệp (陳洽) đến Quảng Tây bàn bạc việc quân. Đồng thời triệu Đô đốc Hoàng Trung (黃中) và Lữ Nghị (呂毅) — những người trước đây hộ tống Trần Thiên Bình mà thất trách — về kinh chịu tội.

Sai nội quan Mã Bân (馬彬) cùng đoàn mang chiếu dụ phong vương nước Chiêm Thành là Chiêm Ba Địch Lại (占巴的賴) rằng:

“Ngươi sai cháu là Bộ Pha Lượng (部坡亮), Vi Giao Lan (微郊蘭), Đắc Thắng (得勝), Na Mạt (那抹) v.v. đến triều cống sản vật, lại tâu rằng giặc Lê nước An Nam xâm chiếm biên giới, bắt người cướp súc vật, tàn bạo không ngừng, xin binh đánh dẹp.

Trẫm xét giặc Lê nhiều lần giết vua, cướp ngôi, xưng đế, đổi niên hiệu, làm hại dân chúng, cả nước oán hận. Cháu của cựu vương là Trần Thiên Bình (陳天平) bị chúng bức hại, phải chạy về triều đình xin thần phục. Giặc Lê lại xin đón về nước, nói sẽ phụng sự như quân vương. Trẫm lấy lòng thành không nghi ngờ, sai người đưa về, nhưng giữa đường lại phục kích giết chết, chống lại mệnh trời, tội ác ngập trời, không thể dung tha.

Nay đã lệnh cho Tổng binh, Chinh Di tướng quân, Thành Quốc công Chu Năng (朱能) đem đại quân đi đánh, quyết tiêu diệt để yên lòng dân Lê. Ngươi nên chỉnh đốn binh mã nơi biên giới, canh giữ các yếu lộ. Những người An Nam trước kia đã ở Chiêm Thành thì không truy xét, nhưng từ nay ai trốn đến thì không được che giấu. Nếu bắt được cha con giặc Lê cùng bè đảng, lập tức giải về kinh sư, sẽ được trọng thưởng.

Ban cho ngươi ấn bạc mạ vàng, mũ sa, đai vàng, 100 lượng vàng, 500 lượng bạc trắng, hai bộ áo gấm dệt kim, cùng các vật phẩm như gấm vóc, lụa là.”

Bình luận

Trần Xuân Sinh nói về Trần Thiêm Bình như sau:

:Trần Thiêm Bình không rõ có phải tông thất nhà Trần hay không, muốn tranh giang sơn với nhà Hồ, không đường hoàng chiêu tập tướng sĩ phất cờ khởi nghĩa, lại đi cầu cứu nước người, để nhà Minh có cớ sang đánh nước ta, rước voi về giày mồ, bị bắt giết là đáng. Nếu việc thành mà làm vua thì cũng chỉ có hư vị. Tuy nhiên, bình luận này của Trần Xuân Sinh dành cho Trần Thiên Bình quá khắt khe và quy chụp.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Trận Phú Bình** (chữ Hán: 富平之战: _Phú Bình chi chiến_) là một trận chiến trong chiến tranh Kim-Tống trong lịch sử Trung Quốc năm 1130. Tại khu vực Phú Bình (nay là phía bắc Phú
**Trận Thiểm Thành** (chữ Hán: 陕城之战, Thiểm Thành chi chiến) là trận đánh diễn ra vào thời Nam Bắc Triều trong lịch sử Trung Quốc. Năm 450, quân Tống đánh phá được trọng trấn Thiểm
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Nguyễn Cảnh Chân** (chữ Hán: 阮景真; 1355 - 1409) là danh tướng chống quân Minh thời Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông có nguồn gốc từ Đông Triều, Quảng Ninh trước khi về
**Bùi Bá Kỳ** (chữ Hán: 裴伯耆, 1344 - ?) là một võ tướng thời nhà Trần và thời thuộc Minh trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Bùi Bá Kỳ** là người làng Phù
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Thiểm Tây** (Tiếng Trung Quốc: 陕西省人民政府省长, Bính âm Hán ngữ: _Shǎn Xī shěng rénmín zhèngfǔ shěng zhǎng_, _Thiểm Tây tỉnh Nhân dân Chính phủ Tỉnh trưởng_) được bầu
**Động đất Thiểm Tây 1556** (; hay ) xảy ra tại nước Đại Minh vào ngày 12 tháng 12 năm Gia Tĩnh thứ 34 (tức 23 tháng 1 năm 1556), các nhà khoa học hiện
**Hồ Nguyên Trừng** (chữ Hán: 胡元澄 1374–1446) biểu tự **Mạnh Nguyên** (孟源), hiệu **Nam Ông** (南翁), sau đổi tên thành **Lê Trừng (黎澄)** là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Tập Cận Bình** (giản thể: 习近平; phồn thể: 習近平; bính âm: _Xí Jìnpíng_; phát âm: [ɕǐ tɕînpʰǐŋ], sinh ngày 15 tháng 6 năm 1953) là một chính trị gia người Trung Quốc. Ông hiện đang
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Trận Đồng Quan** hay **Chiến dịch Đồng Quan** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng
**Trần Thiên Bảo** (; Ch’en T’ien-pao) là một tướng người Hoa của nhà Tây Sơn. Cùng với Mạc Quan Phù và Trịnh Nhất, ông từng là một trong những cướp biển hùng mạnh nhất tại
**Trận Đồi Thịt Băm** hay **trận A Bia** là tên gọi của trận chiến giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với Quân đội Mỹ từ ngày 10
**Lã Nghị** (chữ Hán: 呂毅, ? – 1408), người huyện Hạng Thành , tướng lãnh nhà Minh, tử trận khi trấn áp nhà Hậu Trần tại Việt Nam. ## Cuộc đời và sự nghiệp Lã
**Trận Thuận Xương** (chữ Hán: 顺昌之战: _Thuận Xương chi chiến_) là một trận đánh diễn ra vào năm 1140, thuộc chiến tranh Kim – Tống trong lịch sử Trung Quốc. Tướng Tống là Lưu Kỹ
nhỏ|Vị trí của huyện Phật Bình tại tỉnh Thiểm Tây **Phật Bình** (chữ Hán phồn thể:佛坪縣, chữ Hán giản thể: 佛坪县, âm Hán Việt: _Phật Bình huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Hán
**Trấn Bình** (chữ Hán phồn thể: 鎮坪縣, chữ Hán giản thể: 镇坪县, âm Hán Việt: _Trấn Bình huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị An Khang, tỉnh Thiểm Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung
**Trấn An** (chữ Hán phồn thể:鎮安縣, chữ Hán giản thể: 镇安县, bính âm: Zhen'an Xian) là một huyện của địa cấp thị Thương Lạc, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Huyện này có diện tích 3487
**An Khang** (tiếng Trung: 安康, bính âm: _Ānkāng_) là một địa cấp thị của tỉnh Thiểm Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. ## Lịch sử Các tài liệu đầu tiên ghi chép về An
**Trần Tuyên Hoa** (chữ Hán: 陳宣華, 577 - 605), hay **Tuyên Hoa phu nhân** (宣華夫人), nguyên là công chúa Nam Trần, em gái của Trần Hậu Chúa Trần Thúc Bảo - vị hoàng đế cuối
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1367–1396)** là một cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (Po Binasour) (1360–1390) lãnh đạo. Vào những năm
**Phú Bình** (chữ Hán phồn thể:富平縣, chữ Hán giản thể: 富平县) là một huyện thuộc địa cấp thị Vị Nam, tỉnh Thiểm Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 1233
**Chiến tranh Thái Bình Dương** là một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Trận Nhai Đình** (chữ Hán: 街亭之戰, _Nhai Đình chi chiến_) là một trận chiến giữa hai nước Tào Ngụy và Thục Hán diễn ra vào năm 228. Đây là một phần trong Chiến tranh Thục-Ngụy
**Bình Lợi** (chữ Hán phồn thể: 平利縣, chữ Hán giản thể: 平利县, âm Hán Việt: _Bình Lợi huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị An Khang, tỉnh Thiểm Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung
nhỏ|Trấn Ba **Trấn Ba** (chữ Hán phồn thể:鎮巴縣, chữ Hán giản thể: 镇巴县, âm Hán Việt: _Trấn Ba huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Hán Trung, tỉnh Thiểm Tây, Cộng hòa Nhân dân
**Trận Tỉnh Hình** (chữ Hán: _井陘之戰_, _Tỉnh Hình chi chiến_), còn được biết đến là **trận Hàn Tín phá Triệu**, là một trận đánh diễn ra vào năm 204 TCN tại Trung Quốc thời cổ
**Trận Bô Cô** hay **Bồ Cô** diễn ra vào ngày 30 tháng 12 năm 1408 (tức 14 tháng 12 năm Mậu Tý) tại bến Bô Cô bên sông Đáy, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay.
**Trận Yển Thành** () diễn ra vào năm 1140 tại khu vực nằm gần địa cấp thị Tháp Hà, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày nay giữa quân đội nhà Tống và quân đội nhà
**Hưng Bình** () là một thành phố cấp huyện của địa cấp thị Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. ### Nhai đạo * Đông Thành (东城街道) * Tây Thành (西城街道) * Điếm Trương (店张街道)
**Ninh Thiểm** () là một huyện của địa cấp thị An Khang, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. ### Trấn
* Thành Quan (城关镇) * Tứ Mẫu Địa (四亩地镇) * Giang Khẩu
**Trận Hán Trung 217-219** là trận chiến tranh giành quyền kiểm soát khu vực Đông Xuyên thời Tam Quốc giữa hai thế lực Ngụy vương Tào Tháo và Lưu Bị, không lâu trước khi hai
**Trần Thái Tổ** (chữ Hán: 陳太祖, 1184 – 17 tháng 2, 1234), tên húy **Trần Thừa** (陳承), còn có miếu hiệu là **Trần Huy Tông** (陳徽宗), là Thái thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần.
**Bộ đội Bình Xuyên** () là một tổ chức chính trị - quân sự tồn tại ở khu vực Nam Bộ trong khoảng 1945 đến 1960. ## Lịch sử _Bình Xuyên_ vốn là tên một
**Quan chế nhà Trần** là định chế cấp bậc phẩm hàm quan lại phong kiến dưới thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Khái quát Những ghi chép trong sử sách không hoàn
**Bàng Bỉnh Huân** (phồn thể: 龐炳勳, giản thể: 庞炳勋, bính âm: Pang Bingxun; Wade-Giles: Pang Ping-hsun) (25 tháng 10 năm 1879 – 12 tháng 1 năm 1963) là một vị tướng Quốc dân đảng từng
**Trần Đắc Tài** (chữ Hán: 陳得才, ? – 1864), còn có tên là Trần Đức Tài, người huyện Đằng, Quảng Tây, tướng lãnh Thái Bình Thiên Quốc, được phong Phù vương. ## Tham gia khởi
**Liên Hoa** () là một huyện thuộc thành phố Bình Hương, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. ## Hành chính Liên Hoa được chia ra làm 13 đơn vị hành chính cấp hương, gồm 5 trấn
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Trương Hiến Trung** (chữ Hán: 张献忠, 01 tháng 1, 1600 – 02 tháng 1, 1647), tên tự là **Bỉnh Trung**, hiệu là **Kính Hiên**, người bảo Giản, huyện Liễu Thụ, vệ Duyên An, là lãnh
**Trần Lân** (chữ Hán: 陈璘, 1543 – 1607), tự **Triều Giác(朝爵)**, hiệu **Long Nha** , Ông sinh ra ở huyện Văn Nguyên, phủ Thiều Châu (nay là huyện Văn Nguyên, thành phố Thiều Quan, tỉnh
**Hồ Hán Thương** (chữ Hán: 胡漢蒼, 1383 – 1407), Minh thực lục và Minh sử ghi **Hồ Đê** (胡), là hoàng đế thứ hai và cũng là cuối cùng của nhà Hồ, từ năm 1401
**Lưu Minh Truyền** (, 07 tháng 09 năm 1836 – 12 tháng 01 năm 1896), còn đọc là **Lưu Minh Truyện**, tên tự là **Tỉnh Tam** (省三), hiệu là **Đại Tiềm Sơn Nhân**, người Tây