✨Tống Phúc Thiêm

Tống Phúc Thiêm

Tống Phúc Thiêm hay Tống Phước Thiêm (tên nữa là Thiện)(; ? - 1782) là võ tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam.

Sự nghiệp

Ông là người huyện Tống Sơn (nay là Hà Trung), tỉnh Thanh Hóa. Không rõ ông đầu quân Nguyễn khi nào, chỉ biết vào tháng 12 năm Giáp Ngọ (1774), sau khi quân Trịnh do tướng Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy chiếm được Phú Xuân, chúa Nguyễn Phúc Thuần (tức Định Vương) phải mang các thân thuộc tháo chạy vào Gia Định, ông xin theo hộ vệ, được tin dùng, lần hồi trải đến chức Chưởng cơ. Do đó, ông còn được sách sử được gọi là Chưởng cơ Thiêm Lộc 添祿.

Năm Bính Thân (1776), Định Vương bị tướng Lý Tài ép phải giao quyền cho Nguyễn Phúc Dương (tức Tân Chính Vương), sau đó, Tống Phước Thiêm cùng Tống Phước Hòa được cử trấn giữ dinh Long Hồ.

Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ kéo vào Nam, ông đem thủy quân đón Định Vương, Tân Chính Vương về Ba Vát (Ba Việt 巴越) (Bến Tre)

Tháng 9 năm đó, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Vát, bắt sống Tân Chính Vương cùng toàn bộ quân tướng, chỉ mỗi mình ông chạy thoát. Định Vương sau đó cũng bị quân Tây Sơn bắt tại vùng Ba Thắc (Bassăk) thuộc Cà Mau, và cả hai chúa Nguyễn đều bị đưa về Gia Định xử tử vào khoảng cuối năm ấy .

Đầu năm sau (Mậu Tuất,1778), Đỗ Thanh Nhân, Tống Phúc Thiêm cùng các tướng lĩnh khác tôn Nguyễn Phúc Ánh, cháu của chúa Định Vương vừa bị giết, lên chức Đại nguyên soái, Nhiếp quốc chính.

Năm Canh Tý (1780), chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Ánh) xưng vương, Tống Phúc Thiêm được phong Tả chưởng cơ, tước Quận công, coi sóc bộ Hình và bộ Hộ kiêm quản Tàu vụ và các đạo thủy binh. tâu kín với chúa Nguyễn Ánh xin giết đi. Nguyễn Ánh cho là phải, bèn giả vờ bệnh, rồi cho triệu Đỗ Thanh Nhơn vào bàn việc, nhân đó, sai võ sĩ bắt và giết vào tháng ba cùng năm.

Đỗ Thành Nhân bị giết, các thuộc tướng của Thành Nhân đều rất căm hận, rút hết binh Đông Sơn đi, dù chúa Nguyễn cho người chiêu dụ cũng không đến.

Nhân cơ hội ấy, tháng 3 năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ lại đưa quân vào Nam. Tại Cần Giờ, thủy binh của chúa Nguyễn Phúc Ánh do tướng Tống Phúc Thiêm chỉ huy, với khoảng 400 chiến thuyền (chưa kể 5 tàu chiến của phương Tây do Manuel cầm đầu), chuẩn bị thế trận ở Thất Kỳ Giang (sông Ngã Bảy). Nhân theo chiều gió, Nguyễn Huệ cho dùng hỏa công.

Kể lại trận thủy chiến này, sách Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ có đoạn: :''Khi được tin thủy quân Tây Sơn đã tiến vào cửa biển Cần Giờ, Nguyễn Ánh hạ lệnh cho Tống Phúc Thiêm đưa thủy quân ra nghênh chiến. Đạo thủy quân này của chúa Nguyễn hơn 400 thuyền chiến và có một số tàu của Pháp và Bồ Đào Nha tham dự. Tống Phúc Thiêm dàn thuyền chiến thành hàng ngang ở sông Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang). Mặc cho bị bắn chặn dữ dội, thủy quân Tây Sơn đang trên chiều thuận gió, vẫn ào ạt tiến sát thuyền chiến đối phương tung hỏa công đánh phá...Trận thủy chiến diễn ra rất ác liệt...các chiến thuyền của chúa Nguyễn phải lui dần...những tàu Bồ Đào Nha và Pháp đều bỏ chạy. Chỉ còn lại một chiếc kiểu Châu Âu có 10 đại bác do Cai cơ Pháp tên Mạn Hòe (Manuel) chỉ huy...Mặc dù Mạn Hòe cố sức chống cự, cuối cùng tàu cũng bị đốt cháy và đánh đắm, Mạn Hòe tử trận. :''Cùng lúc đó, Nguyễn Ánh trực tiếp chỉ huy một đội thuyền chiến đến cứu viện, nhưng bị hỏa lực trên thuyền Tây Sơn chặn đánh rất dữ dội. Thuyền của Nguyễn Ánh bị bắn gãy cột buồm, phải rút chạy về Bến Nghé...

Đại bại, chúa nguyễn bị đuổi ngặt, phải bỏ Gia Định, rồi lại bỏ Ba Giồng vượt sông Hậu, sang Chân Lạp, ra đảo Phú Quốc, rồi cuối cùng sang Xiêm La cầu viện.

Trong khi chúa nguyễn bỏ chạy, Tống Phúc Thiêm gom tàn quân lui về Ba Giồng, thì bị quân Đông Sơn vây đánh, và ông bị bắt sống. Tại đấy, Võ Nhàn và Đỗ Bảng, thay mặt toàn thể thuộc hạ của Đỗ Thành Nhân, đã giết chết ông vì tội gièm pha khiến chủ tướng của họ bị mưu hại.

Tống Phúc Thiêm mất, vợ là Nguyễn thị mới sinh một trai tên Thạc được ba ngày, phải bồng con chạy trốn về An Giang. Về sau, vua Gia Long (tức chúa Nguyễn Phúc Ánh), có xuống chiếu thu dụng con cháu công thần. Khi ấy Thạc mới ngoài 20 tuổi và đang sống với mẹ, nhưng Thạc ở ẩn luôn không muốn triều đình biết đến...

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tống Phúc Thiêm** hay **Tống Phước Thiêm** (tên nữa là **Thiện**)(; ? - 1782) là võ tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Ông là người huyện Tống
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Chiến tranh Kim-Tống** (1162 - 1164) chỉ một loạt các cuộc giao tranh giữa quân đội hai nước Kim và Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc kéo dài trong suốt ba năm 1162 -
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Lưu Tông Mẫn** (chữ Hán: 劉宗敏, 1607 – 1645) là chủ tướng dưới trướng nghĩa quân Lý Tự Thành cuối thời Minh. ## Tiểu sử Mùa xuân năm Sùng Trinh thứ 11 (1638), Lý Tự
phải|[[đình Vĩnh Phước (Sa Đéc)|Đình Vĩnh Phước tại trung tâm thành phố Sa Đéc thờ Thành hoàng bổn cảnh và phối thờ Tống Phước Hòa.]] **Tống Phước Hòa ** hay **Tống Phúc Hòa** (; ?
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Lê Văn Thiêm** (29 tháng 3 năm 1918 – 3 tháng 7 năm 1991) là tiến sĩ toán học đầu tiên của Việt Nam, giáo sư toán học và là một trong số các nhà
**Chiến tranh Kim-Tống (1206-1208)** hay **Khai Hi bắc phạt** là một phần của cuộc chiến chiến tranh Tống - Kim, kéo dài 3 năm từ 1206 đến 1208, do triều Tống phát động, tấn công
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Động đất Thiểm Tây 1556** (; hay ) xảy ra tại nước Đại Minh vào ngày 12 tháng 12 năm Gia Tĩnh thứ 34 (tức 23 tháng 1 năm 1556), các nhà khoa học hiện
**Quan chế nhà Tống** là định chế cấp bậc phẩm hàm quan lại phong kiến dưới thời nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Vào sơ kỳ, thể chế Bắc Tống đại
**Mông Cổ chinh phục Tây Hạ** hay **Chiến tranh Mông - Hạ** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Lý Mục** (chữ Hán: 李穆, 928 – 984), tên tự là **Mạnh Ung**, người Dương Vũ, Khai Phong , là sử gia, quan viên nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Chiến tranh Kim–Tống (1217–1223)** hay **Kim quân tam đạo công Tống chi chiến** (金军三道攻宋之战) là một loạt những cuộc giao tranh giữa quân đội hai nước Kim và Nam Tống kéo dài trong suốt sáu
**Giải thưởng Lê Văn Thiêm** là giải thưởng của Hội Toán học Việt Nam dành cho những người nghiên cứu, giảng dạy toán và học sinh giỏi toán xuất sắc ở Việt Nam được trao
**Phan Mỹ** (chữ Hán: 潘美, 925 – 991), tên tự là **Trọng Tuân**, người phủ Đại Danh , là tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nguyên mẫu của
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Trần Vĩ** (chữ Hán: 陈韡, 1179 – 1261), tên tự là **Tử Hoa**, người Hầu Quan, Phúc Châu , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân tiến sĩ, từng
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
**Tống Anh Tông** (chữ Hán: 宋英宗, 16 tháng 2, 1032 - 25 tháng 1, 1067), thụy hiệu đầy đủ **Thể Càn Ứng Lịch Long Công Thịnh Đức Hiến Văn Túc Vũ Duệ Thánh Tuyên Hiếu
**Dương Ngộ Xuân** (, 1760 - 3 tháng 4 năm 1837) tự **Thời Trai** (时斋), người Sùng Châu thuộc Tứ Xuyên, là một danh tướng có công bình định nhiều cuộc nổi dậy thời nhà
**Tống Độ Tông** (chữ Hán: 宋度宗, bính âm: Song Duzong, 2 tháng 5 năm 1240 - 12 tháng 8 năm 1274), thụy hiệu **Đoan Văn Minh Vũ Cảnh Hiếu hoàng đế** (端文明武景孝皇帝), tên thật là
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Tống Quang Tông** (chữ Hán: 宋光宗, 30 tháng 9, 1147 - 17 tháng 9, 1200), thụy hiệu **Tuần Đạo Hiến Nhân Minh Công Mậu Đức Ôn Văn Thuận Vũ Thánh Triết Từ Hiếu hoàng đế**
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Khất Phục Sí Bàn** () (?-428), gọi theo thụy hiệu là **(Tây) Tần Văn Chiêu Vương** ((西)秦文昭王), là vị vua thứ 3 nước Tây Tần thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Trần Dịch** (chữ Hán: 陈绎, ? – ?), tự **Hòa Thúc**, người Khai Phong , quan viên nhà Bắc Tống. ## Thời Tống Anh Tông Dịch đỗ tiến sĩ, được làm Quán các hiệu khám,
**Tôn Kế Tông** (; 1395-1479), tự là Quang Phụ, đại thần triều Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Ông là người Trâu Bình, Sơn Đông. Cha ông là Vĩnh Thành huyện chủ
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Khu đô thị mới Thủ Thiêm** là một dự án phát triển đô thị mới tại bán đảo Thủ Thiêm, thuộc thành phố Thủ Đức, đối diện Quận 1 qua sông Sài Gòn, Thành phố
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Trương Tông Vũ** (chữ Hán: 张宗禹, bính âm: Zhāng Zōng Yǔ), không rõ năm sinh năm mất, ước đoán được sinh ra vào khoảng cuối đời Gia Khánh – đầu đời Đạo Quang, nhà Thanh