✨Trận Thuận Xương

Trận Thuận Xương

Trận Thuận Xương (chữ Hán: 顺昌之战: Thuận Xương chi chiến) là một trận đánh diễn ra vào năm 1140, thuộc chiến tranh Kim – Tống trong lịch sử Trung Quốc. Tướng Tống là Lưu Kỹ chỉ huy chưa đến 2 vạn Bát tự quân bảo vệ phủ Thuận Xương (nay là Phụ Dương, An Huy), bất ngờ đánh bại hơn chục vạn quân Kim do Đô nguyên soái Ngột Truật chỉ huy, bao gồm lực lượng bộ binh Thiết Phù Đồ và 2 cánh kỵ binh Trường Thắng quân chưa bao giờ gặp thất bại.

Bối cảnh

Cuối năm 1138 (năm Thiệu Hưng thứ 8 thời Tống Cao Tông, năm Thiên Quyến đầu tiên thời Kim Hi Tông), phe chủ hòa của 2 nước Tống (đại biểu là Tần Cối) – Kim (đại biểu là Hoàn Nhan Xương) đắc thế, đôi bên ký kết hòa ước. Đầu năm 1139, Tống Cao Tông đại xá cả nước, nhà Tống tiếp quản những khu vực ở Hà Nam và Thiểm Tây mà nhà Kim trả lại, bao gồm 3 kinh (Đông Kinh Khai Phong phủ, Tây Kinh Hà Nam phủ và Nam Kinh Ứng Thiên phủ). Nhưng cùng năm, phe chủ hòa của Kim thất thế, Hoàn Nhan Xương bị kết tội mưu phản và bị Hoàn Nhan Tông Bật đuổi giết.

Ngày 25 tháng 2 năm 1140, nhà Tống lấy Chủ quản thị vệ mã quân tư Lưu Kỹ sung làm Đông Kinh phó lưu thủ, Tiết chế quân mã. Lưu Kỹ soái quân bản bộ lên đường, mang theo cả gia quyến của tướng sĩ, dự định quân đội sẽ đồn trú ở Biện Kinh (tức Đông Kinh) , còn quyến thuộc làm nhà ở phủ Thuận Xương . Quân Tống ngược dòng Trường Giang, vượt qua sông Hoài, phải đi cả thảy 2,200 dặm; đến Qua Khẩu , sắp ăn cơm, thì gió lớn thổi tung màn trướng. Tống soái Lưu Kỹ nói: "Đây là điềm có giặc đấy, chủ về bạo binh." Rồi lập tức hạ lệnh tiến quân, ngày đêm không nghỉ. Ngày 20 tháng 5, Kim Hi Tông giáng chiếu thu hồi những vùng đất đã cắt nhượng theo hòa ước, lúc này Lưu Kỹ còn cách Thuận Xương 300 dặm. Lưu Kỹ cùng tướng tá bỏ thuyền lên bờ, tiến vào phủ thành Thuận Xương. Lưu Kỹ được ghi nhận là tướng lãnh hăng hái nhất trong quân Tống, nhưng rốt cục vẫn chịu thất bại. Tất cả vinh dự của trận Phú Bình thuộc về tướng Kim là Lâu Thất.

Địa điểm

Phủ Thuận Xương có phía bắc gần sông Dĩnh, nam nhìn sông Hoài, đông liền Hào Châu , Thọ Châu , tây kề Thái Châu , Trần Châu. Phủ thành là cửa ngõ trọng yếu che chắn lưu vực sông Hoài, là đầu mối trọng yếu giao thông nối liền Biện Lương (tức Đông Kinh).

Diễn biến

Cuộc chiến ở phủ Thuận Xương được chia làm 2 giai đoạn: trước và sau khi Hoàn Nhan Tông Bật đến.

Công tác trù bị của Lưu Kỹ

Ngay khi nhận tin Đông Kinh thất thủ, Lưu Kỹ đến gặp Trần Quy; Kỹ nói: "Việc gấp rồi, trong thành nếu như có lương, thì có thể cùng anh coi giữ." Quy nói: "Có mấy vạn hộc gạo." Kỹ nói: "Được rồi!" Lưu Kỹ kiểm kê thì thấy thuốc độc của nhà Lưu Tề vẫn còn nhiều, cho rằng như thế là đủ dành cho kẻ địch. Bấy giờ 2 đội quân Tuyển phong, Du dịch cùng già trẻ, quân nhu vẫn còn cách khá xa, Lưu Kỹ sai kỵ binh đi giục, canh tư mới đến dưới thành. Sáng hôm sau, nghe tin Trần Châu thất thủ, lòng người hoang mang; Lưu Kỹ sai binh thuộc bàn bạc với Trần Quy, thu tất cả binh sĩ vào thành, cắt đặt phòng ngự, nên lòng người dần an định trở lại.

Ngày 5 tháng 6, Lưu Kỹ triệu chư tướng tính kế, mọi người đều nói: "Binh Kim không thể địch nổi, xin lấy tinh nhuệ làm hậu quân, bộ kỵ che chở cho già trẻ xuôi dòng về Giang Nam." Lưu Kỹ nói: "Tôi vốn đến làm Phó quan Lưu tư, nay Đông Kinh dẫu mất, may mắn là toàn quân đã đến đây, có thành thì phải giữ, sao lại bỏ đi? Ý tôi đã quyết, ai dám nói đi thì chém!" Chỉ có bộ tướng 'Dạ xoa' Hứa Thanh hăng hái nói: "Thái úy phụng mệnh đi lấy Biện Kinh, quân sĩ mang theo già trẻ cùng đi, nay muốn trốn chạy thì dễ. Nhưng muốn bỏ rơi cha mẹ vợ con thì không đành, muốn đem họ cùng đi thì địch đuổi kịp, làm sao thoát được? Không bằng cùng nhau nỗ lực đánh một trận, tìm sống trong chết vậy!" Lời ấy hợp với Lưu Kỹ, nên Kỹ cả mừng, đục đáy dìm thuyền, tỏ ý không đi. Lưu Kỹ đem cả nhà vào chùa, chất củi ở cửa, răn kẻ giữ cửa rằng: "Nếu như thất bại, hãy thiêu nhà ta, không thể chịu nhục trong tay địch."

Thông phán phủ sự Uông Nhược Hải sắp đem phủ hịch đến hành tại (tức phủ Lâm An), Lưu Kỹ gởi kèm tấu sớ của mình cho ông ta, rồi lập tức cùng quan thuộc lên thành trù tính kế hoạch. Lưu Kỹ mệnh cho các Thống chế quan chia ra giữ các cửa thành: Hứa Thanh giữ cửa đông, Hạ Huy giữ cửa tây, Chung Ngạn giữ cửa nam, Đỗ Kỷ giữ cửa bắc. Lưu Kỹ cũng muốn dò xét tình hình, bèn chiêu mộ người địa phương vào đội ngũ do thám. Vì thế toàn quân đều hăng hái, đàn ông chuẩn bị chiến đấu, đàn bà mài đao kiếm, tranh nhau hò reo nhảy nhót rằng: "Lúc thường người ta khi dễ Bát tự quân, hôm nay chúng ta sẽ vì quốc gia mà phá giặc lập công."

Lưu Kỹ tự lên thành coi sóc công việc: sắp chiến cụ, sửa tường lũy; bấy giờ việc phòng bị thiếu thốn nhân lực, Kỹ bèn lấy Si xa do nhà ngụy Tề chế tạo, đem thùng xe chôn trên mặt thành. Lưu Kỹ tháo gỡ cửa sổ nhà dân, lấy phên tre che kín. Ngoài thành có vài ngàn nhà dân, Lưu Kỹ sợ người Kim dùng làm sào huyệt, bèn mệnh cho đốt cả đi. Bên cạnh thành, Lưu Kỹ xây Dương mã viên , trên viên khoét cửa (tương tự lỗ châu mai).

Sau 6 ngày, mọi việc tạm xong, kỵ binh do thám của người Kim đã vượt sông Dĩnh đến dưới thành. Kỵ binh Kim đến gần để nghe ngóng, chỉ thấy trong thành im ắng, không có ngay cả tiếng gà chó.

Cuộc tấn công đầu tiên của quân Kim

Lưu Kỹ sớm đặt mai phục ở dưới thành, đợi kỵ binh do thám của Kim đến thì bắt được bọn Thiên hộ A Khắc Thuận Sát 2 người , tra hỏi mới biết tiền quân của Hàn Thường đóng trại ở Bạch Long Qua, cách thành 30 dặm . Lưu Kỹ trong đêm sai hơn ngàn người tấn công, giết địch rất nhiều.

Ngày 15 tháng 6, Tam lộ đô thống, Cát vương Hoàn Nhan Tụ cùng Long Hổ đại vương Đột Hợp Tốc đem hơn 3 vạn binh đến bao vây phủ Thuận Dương bao vây phủ thành Thuận Dương; Lưu Kỹ lệnh cho mở các cửa, khiến quân Kim nghi hoặc không dám đến gần.

Quân Tống bày trận ở phía sau Dương mã viên, tên của quân Kim nếu vượt qua nóc viên thì cũng cắm vào tường thành. Quân Tống dùng Phá Địch cung (một loại nỏ sàng) kèm theo Thần Tý cung (một loại nỏ), Cường nỗ (nỏ mạnh), từ trên thành hoặc cửa sổ của viên bắn ra, khiến quân Kim dần lùi lại. Lưu Kỹ tiếp tục lấy bộ binh đón đánh, khiến quân Kim chết đuối không đếm xuể. Quân Tống phá được vài ngàn thiết kỵ của Kim, lấy đi võ khí, áo giáp. Lưu Kỹ còn bắt được bé trai người Nữ Chân, người Hán trong quân Kim, sai họ đem ngân bài chạy đến Đông Kinh, cấp báo với Hoàn Nhan Tông Bật.

Bấy giờ Trần, Thái về phía tây đều không đánh mà hàng; còn có người tên Vương Sơn, khi xưa từng được nhà Kim dùng làm Tri Thuận Xương phủ, đến nay lại đến dưới thành, bởi Hoàn Nhan Tông Bật muốn hắn ta quay lại giữ chức ở Thuận Xương. Vì thế Lưu Kỹ lo lắng có kẻ muốn bảo toàn tính mạng sẽ bán đứng mình, nên không cho quan lại, quân dân của Thuận Xương lên thành, mà lấy binh sĩ bản bộ đảm nhiệm việc phòng thủ. Ngoài ra, Phu Duyên lộ Phó tổng quản Lưu Quang Viễn lấy cớ đường sá tắc nghẽn không thể đến nhiệm sở, tân Tri Thạch Tuyền quân Liễu Nghê được Lưu Kỹ mời gọi, đều ở trong quân Tống. Liễu Nghê đến cửa đông, bị tên bắn trúng tay trái; Nghê nhổ tên rồi bắn trả, lập tức có lính Kim ngã nhào.

Ngày 21 tháng 6, Lưu Kỹ được đặc thụ Đỉnh Châu quan sát sứ, Xu mật Phó đô thừa chỉ, Duyên Hoài chế trí sứ.

Vây thành được 4 ngày, quân Kim dời trại đến thôn Quải Lý ở phía đông thành, cách thành 20 dặm. Đến nay, Lưu Kỹ sai kiêu tướng Lư Sung đem theo 500 lính đánh thuê, chiêu mộ người địa phương làm hướng đạo, trong đêm cướp trại. Quân Tống đi qua mấy tầng lều rạp, đến cỗ Hề xa sơn đỏ , gặp một viên tướng mặc giáp nặng, cầu xin rằng: "Tha chết thì tôi sẽ im lặng!" Lính Tống không nghe, liền giết chết hắn ta. Đêm ấy trời muốn mưa, sấm chớp 4 bề nổi lên, quân Tống trông thấy người nào tết tóc thì đâm chết; quân Kim phải lui 15 dặm. Lưu Kỹ lại mộ trăm người đuổi theo, có kẻ xin hàm mai (ngậm hàm thiết), Kỹ cười nói: "Không cần mai." Lưu Kỹ mệnh cho chẻ tre làm Khiếu (嘂) – một món nhạc khí của trẻ con nơi phố thị, phát cho mỗi người cảm tử một cái, sai họ tiếp cận doanh trại Kim. Mỗi khi chớp lóe thì quân Tống hăng hái tấn công, chớp ngừng thì ẩn nấp bất động, khiến quân Kim rối loạn. Trăm lính Tống dựa vào tiếng Khiếu để phối hợp, người Kim không thể lần ra, cả đêm tự đánh lẫn nhau, thây phơi đầy doanh trại, phải lui quân về Lão Bà loan.

Hoàn Nhan Tông Bật đến Thuận Xương

Kim Đô nguyên soái Hoàn Nhan Tông Bật đang ngụ tại cung Long Đức ở Đông Kinh , nghe tin thất bại, lập tức xỏ giày lên ngựa, kêu gọi binh sĩ bản bộ ra trận, chốc lát đã tập hợp được họ. Đông Kinh cách Thuận Xương chừng 1,200 dặm, Tông Bật ghé Hoài Ninh nghỉ lại 1 đêm, để sửa chiến cụ, sắp lương khô; chỉ mất chưa đầy 7 ngày là đến nơi.

Hoàn Nhan Tông Bật tiến vào huyện Thái Hòa, trách chư tướng thua trận, mọi người đều nói: "Nam triều dùng binh không giống trước đây, quốc vương đến thành sẽ thấy." Tông Bật đến dưới thành, thấy thành nhỏ yếu, nói: "Thứ kia chỉ cần thúc mũi giày là đổ nhào." Quân Kim đóng trại ở bờ bắc sông Dĩnh, kéo dài 15 dặm; mỗi chiều, tiếng trống vang dội sơn cốc, còn tiếng huyên náo trong doanh trại kéo dài cả đêm. Trước trướng của Tông Bật, giáp binh xếp hàng, đuốc cháy thâu đêm, tướng sĩ thay nhau ngủ gật trên lưng ngựa.

Lưu Kỹ thi hành kế phản gián

Nghe tin Hoàn Nhan Tông Bật đã đến gần, Lưu Kỹ lên thành, hội họp chư tướng ở cửa đông, hỏi kế. Có người nói lúc này đã liên tiếp thắng lợi, nhân cơ hội này, bảo toàn quân đội mà quay về. Lưu Kỹ nói: "Triều đình nuôi binh 15 năm, chính là dùng khi cần thiết, huống hồ đã bẻ gãy được mũi nhọn của giặc, uy phong đã hơi phấn chấn, dù quân số nhiều ít khác biệt, nhưng có tiến không lui. Vả lại doanh trại của địch chỉ cách thành 30 dặm, mà Tứ thái tử đã đến tiếp viện, quân ta mà động, bị địch đuổi kịp, già trẻ loạn trước, rồi tất cả sẽ chịu khốn đốn, thì công lao trước đây đều bỏ phế cả; để cho kẻ địch thừa cơ xâm lấn Lưỡng Hoài, chấn động Giang, Chiết, thì cái chí bình sanh báo quốc, lại trở thành cái tội làm lỡ việc nước." Mọi người đều cảm động mà trở nên hăng hái, nói: "Chỉ nghe mệnh của Thái úy."

Lưu Kỹ mộ được bọn Tào Thành 2 người, dụ họ rằng: "Sai mày làm gián điệp, việc nên sẽ trọng thưởng. Cứ làm theo lời ta, địch sẽ không giết mày. Nay đặt mày vào nhóm kỵ binh tuần tiễu, mày gặp địch thì vờ ngã ngựa rồi bị địch bắt. Địch soái hỏi ta là người thế nào, thì đáp: 'Con trai của biên soái thời bình, ưa chơi bời; triều đình cho rằng hai nước giảng hòa, sai giữ Đông Kinh để được an nhàn đấy.'" 2 người quả nhiên bị quân Kim bắt, chịu Hoàn Nhan Tông Bật tra hỏi, rồi đáp như thế. Tông Bật vui mừng, nói: "Thành này dễ phá đấy." Tông Bật bèn hạ lệnh không dùng đến Nga xa , máy bắn đá (pháo cụ) không dùng. Ngày hôm sau, Lưu Kỹ lên thành, trông thấy bọn Tào Thành 2 người từ xa đến, thòng dây kéo lên, rồi mở trói cho họ, thì thấy trên dây trói có treo 1 cuộn văn thư; Kỹ sợ rối lòng quân, lập tức đốt đi.

Lưu Kỹ thi hành kế khích tướng

Lưu Kỹ sai Cảnh Huấn đem thư hẹn đánh, Hoàn Nhan Tông Bật giận nói: "Lưu Kỹ sao dám đánh với ta, lấy sức của ta phá thành của mày, cứ thúc mũi giày là đổ nhào mà thôi." Cảnh Huấn nói: "Thái úy chẳng những mời thái tử đến đánh, còn nói thái tử hẳn không dám vượt sông, xin tặng 5 cây nhịp cầu nổi, hãy vượt sông mà đại chiến." Hoàn Nhan Tông Bật nói: "Được." Rồi Tông Bật lập tức hạ lệnh: "Sáng mai ăn cơm trong phủ trị, ai bắt được ngọc lụa trai gái thì được phép giữ lại, đàn ông trưởng thành thì giết sạch." Còn bẻ tên mà thề, nhằm khích lệ tướng sĩ.

Sáng hôm sau, Lưu Kỹ quả nhiên dựng 5 nhịp cầu nổi trên sông Dĩnh, quân Kim bèn từ chỗ ấy vượt sông. Trước đó, Lưu Kỹ sai người hạ độc ở thượng lưu sông Dĩnh và các bãi cỏ, răn quân sĩ dù khát chết cũng không được uống nước sông, ai uống sẽ bị tru di cả họ.

Cuộc tấn công của Hoàn Nhan Tông Bật

Bình minh ngày 25 tháng 6, Hoàn Nhan Tông Bật đích thân chỉ huy quân Kim tấn công phủ thành Thuận Dương, chia ra nhắm vào cả hai cửa đông – tây. Quân Kim có hơn 10 vạn, 2 cánh trái – phải là Trường Thắng quân chưa từng nhận thất bại. Hoàn Nhan Tông Bật khoác áo trắng, cỡi ngựa trùm giáp (giáp mã), đem 3000 binh Thiết Phù Đồ đốc chiến, còn chư tướng Kim đều nắm quân riêng.

Quân Kim trước tiên đánh cửa đông, Lưu Kỹ điều quân ứng chiến, quân Kim bèn lui. Các tướng Tống xin đánh Hàn Thường trước (Hàn Thường là người Hán), Lưu Kỹ nói: "Đánh lui Hàn Thường, thì không còn sức chống lại tinh binh của Ngột Truật, theo binh pháp thì trước tiên hãy đánh Ngột Truật. Ngột Truật chịu thua, thì bọn còn lại không thể làm gì."

Hôm ấy trời nóng bức, quân Kim đường xa mệt mỏi, đêm ngày không cởi giáp, đến nay người ngựa đói khát, nhưng uống nước ăn cỏ liền phát bệnh, ngày càng khốn đốn. Quân Tống nhàn hạ chờ đợi, lúc này còn thay phiên ăn uống bên dưới Dương mã viên. Buổi sáng trời mát, Lưu Kỹ án binh bất động; đợi đến khoảng Thân (chừng 15 giờ chiều), quân Kim tỏ ra mệt mỏi, Kỹ bất ngờ sai vài trăm người từ cửa tây đánh ra; ít lâu sau Lưu Kỹ lại cho khoảng vài ngàn binh Tống ra cửa nam, lệnh cho họ không được la hét, đều dùng binh khí ngắn để tấn công kẻ địch. Tướng Tống là Thống chế quan Triệu Tỗn, Hàn Trực mình trúng vài mũi tên mà vẫn chiến đấu không nghỉ, khiến Lưu Kỹ phải hạ lệnh khẩn cấp dìu họ trở về. Binh Tống đều liều chết xông vào trận địa của quân Kim, dao – rìu chém loạn xuống, đến mức nhấc tay lên thì cùng lính Kim ngã nhào xuống sông hộ thành.

Quân Kim đại bại, bị giết 5,000 người, thây phơi khắp nơi. Hoàn Nhan Tông Bật dời trại sang phía tây thành, đào hào để tự vệ, ý đồ vây khốn Thuận Dương. Đêm ấy trời mưa lớn, mặt đất ngập sâu hơn thước, không còn chỗ nào khô ráo. Sáng hôm sau, Lưu Kỹ điều binh đánh trại, giao chiến từ giờ Thìn đến giờ Thân, quân Kim yếu thế, nhờ Thiết Phù Đồ bày Cự mã để che chắn, từ từ lui lại. Trên thành Thuận Dương, tiếng trống không dứt, người trong thành đem cơm canh ra, quân Tống ngồi tại chỗ mà ăn, quân Kim mệt mỏi không dám đến gần. Quân Tống ăn xong, phá dỡ Cự mã, xông vào chặt chém Thiết Phù Đồ. Binh Tống lấy lao dài (thương tiêu) nhắm vào mũ đâu mâu, lấy rìu lớn (đại phủ) chặt chân tay, đập vụn đầu của binh sĩ Thiết Phù Đồ; ngay cả Trường Thắng quân cũng bị giết chết. Quân Kim lần nữa đại bại, người chết lên đến hàng vạn, máu thịt vương vãi đầy đất, còn các thứ xe, cờ, vũ khí, áo giáp chất cao thành gò.

Kết quả

Ngày 28 tháng 6, Hoàn Nhan Tông Bật vượt cầu nổi trở về, giải vây cho thành Thuận Dương. Tông Bật nghỉ ngơi ở Thái Hòa 2 ngày, rồi quay lại Trần Châu, kể tội chư tướng, từ Hàn Thường trở xuống đều chịu phạt đòn. Sau đó Tông Bật cắt đặt chư tướng giữ các nơi Quy Đức, Hứa Châu, Trần Châu, còn ông ta quay về Đông Kinh.

Nghe báo tiệp, Tống Cao Tông rất hài lòng, thụ Lưu Kỹ làm Vũ Thái quân Tiết độ sứ, Thị vệ mã quân Đô ngu hầu, Tri Thuận Xương phủ, Duyên Hoài chế trí sứ.

Đánh giá

Trận Thuận Dương là một trong những chiến thắng lấy ít chống nhiều nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Trận này Tống soái Lưu Kỹ khéo léo đoàn kết quân dân, khích lệ tướng sĩ, khiến mọi người đồng tâm hiệp lực, kiên quyết kháng chiến. Bấy giờ có binh sĩ Hà Bắc trình cáo rằng: "Bọn tôi là Tả hộ quân, vốn không có đấu chí, mà có thể giết Lưỡng dực Quải tử mã đấy." Hơn nữa, Lưu Kỹ lựa chọn chiến thuật linh hoạt và đúng đắn: chủ động tấn công Hàn Thường, cướp trại của bọn Hoàn Nhan Tụ, dĩ dật đãi lao đối phó với Hoàn Nhan Tông Bật, giúp quân Tống giành được ưu thế trong suốt cuộc chiến.

Đây là cuộc chiến đầu tiên của Hoàn Nhan Tông Bật sau khi ông ta trở thành Đô nguyên soái của nhà Kim. Trận này Tông Bật bộc lộ tâm lý nóng vội, chủ quan và khinh địch, khiến quân Kim rơi vào trạng thái mệt mỏi, bệnh tật và bị động. Nhờ vậy, quân Tống giành được thắng lợi bất ngờ và vang dội. Kết quả bất ngờ ở Thuận Dương thật sự gây kinh sợ cho giới quý tộc Nữ Chân. Bấy giờ sứ Tống là Hồng Hạo đang bị giam lỏng ở Yên Kinh , đã mật tấu: "Chiến thắng Thuận Xương, người Kim sợ hãi mất vía, đồ vật quý giá ở Yên đều được dời lên bắc, ý muốn từ bỏ vùng đất từ Yên về phía nam."

Chiến thắng Thuận Xương dấy lên xu thế thắng lợi của quân đội Nam Tống trên khắp các chiến trường. Tiếp đó Ngô Lân ở Thiểm Tây, Nhạc Phi ở Kinh Tây, Hàn Thế Trung ở Hoài Đông trước sau đánh bại quân Kim, mở ra cục diện sáng sủa chưa từng thấy đối với quân Tống trong chiến tranh Kim – Tống. Vì thế người đương thời bàn rằng khi ấy nếu chư tướng đồng lòng, chia đường đuổi đánh, thì Hoàn Nhan Tông Bật có thể bắt được, Biện Kinh có thể giành lại; nhưng Tần Cối lần lượt gọi các đội quân Tống quay về, tự bỏ qua cơ hội, khá đáng tiếc vậy!

Năm 1166, Tống Hiếu Tông biểu dương chiến thắng Thuận Dương là 1 trong 13 chiến công trung hưng nhà Tống.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Thuận Xương** (chữ Hán: 顺昌之战: _Thuận Xương chi chiến_) là một trận đánh diễn ra vào năm 1140, thuộc chiến tranh Kim – Tống trong lịch sử Trung Quốc. Tướng Tống là Lưu Kỹ
**Trần Thuận Tông** (chữ Hán: 陳順宗 1377 – 30 tháng 4 năm 1400) là vị hoàng đế thứ 12 và cũng là hoàng đế áp chót của triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì
**Thuận Xương** (chữ Hán giản thể: 顺昌县, âm Hán Việt: _Thuận Xương huyện_) là một huyện của địa cấp thị Nam Bình, tỉnh Phúc Kiến. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Thuận Xương nằm
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Thuận Hóa** (順化) là địa danh hành chính cũ của vùng đất bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng và phía bắc Quảng Nam. Đây nguyên là đất các châu Bố Chính, Địa
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Hành chính Việt Nam thời Trần** hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Trần Khát Chân** (chữ Hán: 陳渴真; 1370–1399) là một tướng lĩnh Đại Việt cuối thời Trần. Ông nổi bật với việc chỉ huy quân đội Việt chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành,
**Trần Phế Đế** (chữ Hán: 陳廢帝; 6 tháng 3 năm 1361 – 6 tháng 12 năm 1388), hiệu **Giản Hoàng** (簡皇), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Trần nước Đại Việt. Ông ở
**Kinh tế Đại Việt thời Trần** phản ánh những vấn đề liên quan tới chính sách và hoạt động kinh tế vào thời nhà Trần (1225-1400) trong lịch sử Việt Nam. ## Nông nghiệp ###
**Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang** là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 18 tháng 9 năm 1427 đến cuối tháng 10 năm 1427 giữa nghĩa quân Lam Sơn người Việt do
**Huy Chân Công chúa** (輝真公主) hay **Trinh Thục phi** (貞淑妃) Trần Thị Ngọc Hiền (còn có tên khác là Ngọc Dung, Ngọc Huyên) (1377 - ?) là một vị Công chúa nhà Trần và là
**Trần Thiếu Đế** (chữ Hán: 陳少帝; 1396 - 1400?) là vị hoàng đế thứ 13 và là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Lúc Thiếu Đế
**Trần Hãng** (; ?-1399), đôi khi gọi là **Trần Nguyên Hãng** (), là một tông thất và đại thần nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là cháu gọi Trần Minh Tông là ông
**Tiền tệ thời Trần** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Trần (1225-1400) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế - xã
**Trần Ích Tắc** (chữ Hán: 陳益稷, 1254 – 1329), thường được biết đến với tước hiệu **Chiêu Quốc vương** (昭國王), là một hoàng tử nhà Trần. Ông là con của Trần Thái Tông, em cùng
**Trần Ngạc** (陳𩖃; 1357 - 1391) là một hoàng tử của triều đại nhà Trần tại Việt Nam, con trai của Trần Nghệ Tông, cha của Trùng Quang Đế. ## Cuộc đời Long Khánh nguyên
**Trận Tam giác sắt** diễn ra từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 20 tháng 11 năm 1974, khi Sư đoàn 9 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh chiếm Rạch Bắp và
**Trận Đồng Quan** hay **Chiến dịch Đồng Quan** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng
**Trận Quan Độ** là trận đánh diễn ra trong lịch sử Trung Quốc vào năm 200 tại Quan Độ thuộc bờ nam Hoàng Hà giữa Tào Tháo và Viên Thiệu – 2 thế lực quân
**Lý Thuấn Thần** (Hanja: , Hangul: 이순신, Romanja: **Yi Sun-sin**, 8 tháng 3 năm 1545 – 19 tháng 11 năm 1598) là nhà quân sự, đô đốc thủy quân, danh tướng kháng Nhật của nhà
**Trần Văn Đế** (chữ Hán: 陳文帝; 522 – 566), tên húy là **Trần Thiến** (), tên tự **Tử Hoa** (子華), là một hoàng đế của triều đại Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung
**Việc thuần hóa động vật** là mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa động vật với con người có ảnh hưởng đến sự chăm sóc và sinh sản của chúng. Thuần hóa động vật
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
**Trận Trường Bản** là trận đánh diễn ra năm 208 thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, giữa hai thế lực quân phiệt Lưu Bị và Tào Tháo. Trận đánh cũng được đề cập
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
**Trần Nguyên Hãn** (chữ Hán: 陳元扞, 1390–1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Trần - Lê sơ. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Trần, nổi bật với việc tham gia khởi nghĩa Lam
**Trận đồi C1**, mở màn ngày 31 tháng 3 năm 1954, là một trong những trận đánh quan trọng trong giai đoạn 2 và 3 của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của Quân
**Trận Agincourt** (; ) là một trận đánh tiêu biểu trong chiến tranh Trăm Năm giữa Anh với Pháp. Trận đánh diễn ra ngày 25 tháng 10 năm 1415 (Ngày Thánh Crispin) gần Azincourt, ở
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
**Trần Vũ Đế** (chữ Hán: 陳武帝), tên thật là **Trần Bá Tiên** (陳霸先; 503 - 559) là vị vua đầu tiên, người sáng lập ra nhà Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Trận Rạch Gầm – Xoài Mút** () là một trận chiến lớn trên sông diễn ra vào đêm 19 rạng sáng ngày 20 tháng 1 năm 1785 giữa liên quân Xiêm – Nguyễn và quân
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Trận đồi A1** là trận đánh mở màn ngày 31 tháng 3 năm 1954, là một trong những trận đánh quan trọng trong giai đoạn 2 và giai đoạn 3 của chiến dịch Điện Biên
**Hậu Trần** (chữ Nôm: 茹後陳, chữ Hán: 後陳朝, Hán Việt: _Hậu Trần triều_) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam từ 1407 đến 1414 mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách
**Trận Xích Bích** () là một trận đánh lớn cuối cùng thời Đông Hán có tính chất quyết định đến cục diện thời Tam Quốc. Trận đánh diễn ra vào mùa đông năm Kiến An
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**Trận Đại đồn Chí Hòa**, hay còn được gọi là **Trận Đại đồn Kỳ Hòa**, là một trận đánh xảy ra tại Sài Gòn, Nam Kỳ vào 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm
**Trận El Alamein thứ hai** diễn ra trong vòng 20 ngày từ 23 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1942 ở gần thành phố duyên hải El Alamein của Ai Cập, và chiến thắng
**Trận Ia Đrăng** là một trong những trận lớn đầu tiên giữa liên quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa-Quân đội Hoa Kỳ và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Trần Hữu Lượng** (chữ Hán: 陳友諒; 1316– 3 tháng 10 năm 1363) là một thủ lĩnh quân phiệt thời _"Nguyên mạt Minh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc, là người Miện Dương, Hồ Bắc, ông
**Trận Okinawa** (tiếng Anh: Battle of Okinawa, tiếng Nhật: 沖縄戦, Okinawa-sen), hay còn gọi là **chiến dịch Iceberg** (**chiến dịch Băng Sơn**) là trận đánh thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế
**Trận Tương Dương – Phàn Thành** là trận chiến thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa phe Lưu Bị (người sáng lập nước Thục Hán) và Tào Tháo (người sáng lập nước Tào