✨Trận Chi Lăng – Xương Giang

Trận Chi Lăng – Xương Giang

Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 18 tháng 9 năm 1427 đến cuối tháng 10 năm 1427 giữa nghĩa quân Lam Sơn người Việt do Bình Định vương Lê Lợi cùng Lê Sát, Lưu Nhân Chú và nhiều tướng khác chỉ huy và 2 đạo quân gồm 15 vạn quân viện binh nhà Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy. Quân Lam Sơn đánh tan các cánh quân Minh, giết Liễu Thăng và nhiều tướng khác, Mộc Thạnh phải bỏ chạy.

Chiến thắng này khiến cho tướng nhà Minh là Vương Thông hết hy vọng, quyết định giảng hòa với Lê Lợi khi chưa được sự cho phép của triều đình nhà Minh.

Bối cảnh lịch sử

Tháng 11 năm 1426, quân khởi nghĩa Lam Sơn đại phá quân Minh trong trận Tốt Động – Chúc Động, 5 vạn quân Minh bị diệt, hơn 1 vạn quân bị bắt sống, chưa kể số chạy qua sông Ninh Giang bị chết đuối. Bản thân Vương Thông bị thương. Kế hoạch dùng 10 vạn quân để phản công của Vương Thông bị sụp đổ khiến viên tướng này phải cố thủ trong thành Đông Quan.

Vương Thông bí thế muốn đầu hàng, bèn viết thư xin giảng hòa để rút toàn bộ quân về. Lê Lợi đã bằng lòng cho, sai người đi làm giao ước. Tuy nhiên lúc đó các tướng người Việt là Trần Phong và Lương Nhữ Hốt sợ khi quân Minh rút về thì bản thân mình sẽ bị giết, bèn nói với Vương Thông: :Trước đây quân Ô Mã Nhi bị thua ở sông Bạch Đằng, mang toàn quân quy hàng, Hưng Đạo Vương bằng lòng cho, nhưng lại dùng kế lấy thuyền to chở quân cho về, rồi sai người bơi giỏi sung vào làm phu chở thuyền. Đang đêm ra đến ngoài biển, rình lúc quân Ô Mã Nhi ngủ say, lặn xuống đục thuyền, làm cho những người đã quy hàng chết đuối, không ai sống sót trở về được.

Vương Thông nghe vậy hoảng sợ, nghi ngờ Lê Lợi, bề ngoài tuy nói giảng hòa, nhưng bề trong lại sai người đào hào, rắc chông để phòng thủ và viết thư xin cầu viện vua Tuyên Đức (Minh Tuyên Tông) nhà Minh.

Lê Lợi liền sai các quân ra đánh các thành Điêu Diêu, Thị Cầu, Tam Giang, Xương Giang, Ôn Khâu, chỉ còn bốn thành Đông Quan, Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh là chưa bị hạ.

Theo sách Việt sử tiêu án, khi quân Minh thua trận ở Tốt Động - Chúc Động, Thượng thư Trần Hiệp tử trận, việc đến tai vua Minh, đình thần Minh tranh nhau nói: :Từ khi Hoàng Phúc bị triệu về, Trung quân Mã Kỳ sang thay, khích thành biến loạn ở Giao Chỉ, xin lại cho Hoàng Phúc sang nhậm chức cũ, thì loạn ở Giao Chỉ tự nhiên yên được.

Vua Minh nghe lời, sai Liễu Thăng đem quân cứu viện thành Đông Quan và sai Hoàng Phúc đi tòng quân, chia làm 2 đạo quân:Liễu Thăng đi ra cửa Pha Lũy (Lạng Sơn) là chính binh, Mộc Thạnh đi ra cửa Lê Hoa (Tuyên Quang) làm quân ứng cứu cho Liễu Thăng.

Lực lượng quân Minh

Trước nguy cơ hoàn toàn thất bại, và để cứu đạo quân Vương Thông đang bị vây hãm ở Đông Quan, đầu năm 1427 nhà Minh đã quyết định phái sang Việt Nam hai đạo quân cứu viện lớn, một đạo do Liễu Thăng chỉ huy, một đạo do Mộc Thạnh chỉ huy.

Lực lượng quân Minh theo Đại Việt sử ký toàn thư lên đến 15 vạn quân, trong đó đạo của Liễu Thăng gồm 10 vạn, đạo của Mộc Thạnh gồm 5 vạn. Theo Lam Sơn thực lục thì quân cứu viện đông tới 20 vạn. Trong khi đó, theo Minh sử, cánh quân của Liễu Thăng chỉ gồm 7 vạn. Cả hai viên tướng Liễu Thăng và Mộc Thạnh đều đã có kinh nghiệm chinh chiến ở Việt Nam trước đây. Ngoài ra còn có Lương Minh là viên tướng thiện chiến, Lý Khánh và Hoàng Phúc là 2 viên quan cấp Thượng thư làm tham mưu cho Liễu Thăng.

Lực lượng nghĩa quân Lam Sơn

Theo Lam Sơn thực lục, lúc ấy nghĩa quân có 5 vạn tinh binh, Lê Lợi điều tất cả những vị tướng giỏi nhất của mình tham gia chiến dịch.

Con số 35 vạn này có lẽ tính cả dân binh chứ không phải chỉ tính quân chính quy.

Lê Lợi chuẩn bị chống viện binh

Nghe tin viện binh nhà Minh xâm lấn, tháng 4, năm 1427

Lê Lợi cho rằng thành Xương Giang là con đường mà quân Minh hay đi về tất phải qua.

Lê Lợi sai đắp đê Vạn Xuân để làm chiến lũy. Các tướng sĩ nhiều người khuyên Lê Lợi nên đánh gấp thành Đông Quan, nhưng Lê Lợi cho rằng:

Lê Lợi sai các đạo quân Lạng Sơn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Tam Đới dọn quang cánh đồng để tránh viện binh của quân Minh, hạ lệnh cho các xứ Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên Quang, Quy Hóa dời vợ con của quân dân đi xa để tránh viện binh giặc tấn công.

Trận Chi Lăng

Ngày 18, tháng 9, năm 1427 đem 1 vạn quân tinh nhuệ, 5 thớt voi, bí mật mai phục trước ở ải Chi Lăng để đợi quân Minh.

Quân Minh tiến đến cửa Pha Lũy, Trần Lựu giữ cửa Pha Lũy, thấy quân Minh đến, lui giữ cửa Ải Lưu. Quân Minh tiến đánh, Trần Lựu lại bỏ cửa Ải Lưu lui về đóng ở Chi Lăng, Liễu Thăng thừa thắng đuổi theo, đi đến đâu cũng không ai dám kháng cự, càng tỏ ra mặt kiêu ngạo., có thuyết cho rằng Liễu Thăng bị quân Lam Sơn phóng lao đâm chết, hơn 1 vạn quân Minh bị giết.== Tì tướng quân Minh là Thôi Tụ, Hoàng Phúc thu nhập tàn quân, gượng tiến đến ải núi Mã Yên. Ngày 25 tháng 9, Lê Lợi sai Nguyễn Lý, Lê Văn An đem 3 vạn quân tới tiếp viện. Lê Sát, Lưu Nhân Chú tung hết quân ra đánh, chém tại trận Bảo Định bá Lương Minh, Binh bộ Thượng thư Lý Khánh tự tử...

Trận Phố Cát

Thôi Tụ nghĩ rằng thành Xương Giang chưa bị hạ, vẫn tiếp tục kéo quân về hướng thành Xương Giang. Lê Sát mở đường cho tiến, chờ đến chỗ phục binh, mới tung quân đón đánh.

Trong trận Phố Cát, Lê Sát, Lưu Nhân Chú lại đánh bại quân Minh, chém được hơn 2 vạn người, bắt được lừa ngựa, trâu bò, quân tư khí giới nhiều không kể xiết.

Trận Xương Giang

Mùa đông, tháng 10, Lê Lợi sai Nguyễn Lý và Lê Văn An đem 3 vạn quân bao vây bốn mặt, lại dựng rào lũy ở tả ngạn sông Xương Giang để ngăn chặn. Quân Minh tuy thua nhưng còn đông và mạnh. Thôi Tụ dự tính vào thành Xương Giang làm nơi trú quân để phối hợp với Vương Thông, nhưng khi tiến đến gần Xương Giang mới biết là thành đã bị quân Lam Sơn hạ. Thôi Tụ phải đóng quân ngoài cánh đồng Xương Giang tại nơi nay có thể là xã Tân Dĩnh (huyện Lạng Giang, Bắc Giang) và xung quanh, cách thành Xương Giang khoảng 3 km, đắp lũy đất để phòng thủ. Lại cho quân bắn pháo làm hiệu để quân ở Đông Quan đến ứng cứu.

Quân Minh đóng quân trong một vị trí mà phía nam là thành Xương Giang kiên cố; phía tây bắc, tây và tây nam là sông Thương; phía đông nam có sông Lục Nam; phía bắc, quân của Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Lý, Lê Văn An, sau trận Phố Cát tiếp tục bám lưng đối phương. Quân Lam Sơn còn cử các đơn vị thủy quân lên bố trí trên sông Thương và sông Lục Nam.

Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đứng đường vận chuyển lương thực của giặc, sai Lê Vấn, Lê Khôi đem 3 nghìn Thiết đột quân, 4 thớt voi chiến cùng với quân của Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Nguyễn Lý, Lê Văn An tấn công. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Lê Trung, Lê Khuyển cầm cự nhau ở Lê Hoa. Lê Lợi liệu tính rằng Mộc Thạnh tuổi đã già, từng trải việc đời đã nhiều, lại biết tiếng nghĩa quân từ trước, nhất định còn đợi xem Liễu Thăng thành bại ra sao chứ không nhẹ dạ tiến quân, bèn gởi thư mật, bảo Trịnh Khả, Lê Khuyển cứ đặt mai phục chờ đợi, chớ giao chiến vội. Khi quân Liễu Thăng đã bị thua, Lê Lợi sai lấy 1 chỉ huy và 3 thiên hộ của quân Minh mà ta bắt được, cùng những sắc thư, phù ấn của Liễu Thăng đưa đến chỗ quân Mộc Thạnh.

Mộc Thạnh trông thấy rất hoảng sợ, trong phút chốc quân tan vỡ tháo chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả thừa thắng tung quân ra đánh, phá tan quân giặc ở Lãnh Câu và Đan Xá, chém hơn 1 vạn thủ cấp, bắt sống hơn 1 nghìn người và hơn 1 nghìn con ngựa, còn bị chết đuối ở khu vực thì nhiều không kể xiết. Mộc Thạnh thì chỉ còn một mình một ngựa tháo chạy. Nghĩa quân thu được chiến khí, của cải, xe cộ nhiều hơn hẳn trận thành Xương Giang. nghĩa là "Mộc Thạnh kéo quân đến Thủy Vĩ, làm thuyền bè, sửa soạn để chực tiến quân. Được tin Thông đã nghị hòa, Thạnh cũng rút lui. Địch thừa thắng đổ ra đánh. Thạnh thua to". Theo Minh thực lục, ngày 14 tháng 12 năm 1427, Mộc Thạnh cùng thuộc hạ chạy tới Cao Trại, Thủy Vĩ thì bị quân Lam Sơn phục kích cả trên sông lẫn trên bờ, phải vất vả làm lại thuyền mới đi tiếp được.

Lê Lợi đưa Hoàng Phúc đến thành Đông Quan, Vương Thông lo sợ, tập họp tướng sĩ bàn rằng: Thành không thể giữ được, mà đánh không thể thắng, không gì bằng toàn quân trở về Bắc. Bèn sai Sơn Thọ đưa thư cầu hòa, xin mở cho con đường về nước, Lê Lợi chấp thuận.

Kết quả

Chỉ trong vòng chưa đầy 1 tháng, đạo quân viện binh đông tới 10 vạn quân của nhà Minh đã bị tiêu diệt hoàn toàn ở Xương Giang. Bộ chỉ huy quân Minh bị chết trận hay bị bắt gần hết. Trong khi bao vây Xương Giang, quân Lam Sơn đưa tù binh của cánh quân Liễu Thăng lên báo tin cho Mộc Thạnh. Mộc Thạnh vội vàng cho quân rút chạy. Nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đã truy kích tiêu diệt trên 1 vạn quân Minh, làm tan rã hoàn toàn cánh quân này. Như vậy, toàn bộ lực lượng viện binh của quân Minh đã bị đại bại. Kết quả này là một trong những nhân tố quan trọng khiến Vương Thông phải chấp nhận nghị hòa và không xin phép triều đình Minh đã tự ý rút quân về nước.

Trong văn học

Tác phẩm Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) viết rằng: :Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế, :Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu. :Ngày hăm lăm, Bá tước Lương Minh bại trận tử vong, :Ngày hăm tám, Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. :... :Đánh một trận, sạch không kình ngạc, :Đánh hai trận, tan tác chim muông. :... :Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, :Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. :Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường, :Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước...

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang** là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 18 tháng 9 năm 1427 đến cuối tháng 10 năm 1427 giữa nghĩa quân Lam Sơn người Việt do
**Trận Di Lăng** (chữ Hán: 夷陵之戰 _Di Lăng chi chiến_) hay còn gọi là **trận Khiêu Đình** (猇亭之戰 _Khiêu Đình chi chiến_) hoặc **trận Hào Đình**, là trận chiến giữa nước Thục Hán và nước
**Thành Xương Giang** là một thành cổ hiện chỉ còn lại phế tích tại tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. Đây là thành được nhà Minh xây dựng vào đầu thế kỷ XV sau khi xâm
**Lịch sử hành chính An Giang** được xem là bắt đầu từ cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1832, khi thành lập 12 tỉnh từ các dinh trấn ở miền Nam. Sau
**Trận Xương Giang** là trận đánh giữa quân khởi nghĩa Lam Sơn và quân đội Đại Minh tại thành Xương Giang năm 1427. Trận đánh kéo dài gần 1 năm và kết thúc bằng thắng
**Trần Nguyên Hãn** (chữ Hán: 陳元扞, 1390–1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Trần - Lê sơ. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Trần, nổi bật với việc tham gia khởi nghĩa Lam
Dãy núi Cai Kinh phía tây và cánh đồng Chi Lăng **Chi Lăng** (支棱) là một cửa ải nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Nơi đây vốn là một thung lũng có sông Thương
**Bắc Giang** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Bắc Giang nằm ở phía tây của tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà
**An Giang** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, An Giang có diện tích: 9.889 km², xếp thứ 13; dân
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
**Tiếu ngạo giang hồ** được coi là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của Kim Dung, với nhiều thành công về nội dung, cốt truyện, thủ pháp văn học. _Tiếu ngạo giang hồ_
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
**Trận Trường Bản** là trận đánh diễn ra năm 208 thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, giữa hai thế lực quân phiệt Lưu Bị và Tào Tháo. Trận đánh cũng được đề cập
**Giang Tô** (江苏) là một tỉnh ven biển ở phía đông Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng của Giang Tô là "Tô" (苏, sū), tức chữ thứ hai trong tên tỉnh. Năm 2018,
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trận Tương Dương – Phàn Thành** là trận chiến thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa phe Lưu Bị (người sáng lập nước Thục Hán) và Tào Tháo (người sáng lập nước Tào
**Lạng Giang** là một huyện thuộc tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Lạng Giang nằm ở phía bắc của tỉnh Bắc Giang, nằm cách thành phố Bắc Giang khoảng 10 km về phía
**Trận Giang Lăng** (chữ Hán: 江陵之戰 _Giang Lăng chi chiến_) là trận đánh thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa các phe quân phiệt: liên minh Tôn Quyền – Lưu Bị giao tranh
**Trần Đông** (chữ Hán: 陈东, 1086 – 1127), tự Thiếu Dương, người Đan Dương, Trấn Giang , nhân vật yêu nước cuối đời Bắc Tống. Ông là người lãnh đạo phong trào vận động của
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
Bài viết này nói về các nhân vật trong truyện tranh võ hiệp dài tập của Hàn Quốc có tên Hiệp Khách Giang Hồ của các tác giả _Jeon Keuk Jin_ và _Yang Jae Hyun_
**Bắc Giang** là một tỉnh cũ thuộc trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang chiếm phần lớn diện tích
**Hải Lăng** (chữ Hán phồn thể: 海陵區, chữ Hán giản thể:海陵区) là một quận thuộc địa cấp thị Thái Châu, tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận Hải Lăng có diện tích
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Giang Tây** (; tiếng Cám: ) là một tỉnh nằm ở đông nam Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Giang Tây là tỉnh đông thứ mười ba về số dân, đứng thứ mười
**Hậu Trần** (chữ Nôm: 茹後陳, chữ Hán: 後陳朝, Hán Việt: _Hậu Trần triều_) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam từ 1407 đến 1414 mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách
**Nhà Trần** () (557-589), đôi khi gọi là **Nam triều Trần** (南朝陳), là triều đại thứ tư và cuối cùng trong số các triều đại thuộc Nam triều thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc,
phải|nhỏ|243x243px|Một thập tự giá được dựng gần [[Ypres, Bỉ năm 1999 để ghi nhớ địa điểm cuộc Hưu chiến đêm Giáng sinh năm 1914]] **Hưu chiến đêm Giáng sinh** (tiếng Anh: _Christmas truce_; ; )
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**_Tam quốc chí_** (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: _Sanguo Chih_; bính âm: _Sānguó Zhì_), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ
**Trận Tốt Động – Chúc Động** hay **Trận Tụy Động** là một trận đánh diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426 giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân đội nhà
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Trần Nhân Tông** (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là **Trần Khâm** (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại
**Văn học đời Trần** là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400). ## Tổng quan văn học thời Trần Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều
**Chiến dịch Xuân Lộc** hay **Trận Xuân Lộc**, tên đầy đủ là **_Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch
**Lưu Mục Chi** (刘穆之), tên tự là **Đạo Hòa**, tên lúc nhỏ là Đạo Dân , là kiều dân ở Kinh Khẩu , mưu sĩ thân cận của quyền thần Lưu Dụ cuối đời Đông
**Quân sự nhà Trần** phản ánh việc tổ chức quân đội của vuơng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài
nhỏ|phải|348x348px|Cổng vào Nhà Lớn Long Sơn **Ông Trần** hay **Ông Nhà Lớn**, tên thật là **Lê Văn Mưu** (1855 –1935) là một nghĩa quân chống Pháp, người khai sáng _đạo Ông Trần_ trên nền tảng
**Thi Lang** (, 1621 – 1696) tự là **Tôn Hầu**, hiệu là **Trác Công**, người thôn Nha Khẩu trấn Long Hồ huyện Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc, là danh tướng thời kỳ cuối
**Tống Giang** (chữ Hán: 宋江), tự Công Minh (公明) , là một nhân vật có thật sống vào thế kỷ 12 dưới triều Tống ở Trung Quốc. Tuy nhiên, cuộc đời thật của ông chỉ
**_Lang Gia Bảng_** (, , bính âm: Lángyá Bǎng; thường bị nhầm là _Lang Nha Bảng_ do lỗi phiên âm) là một bộ phim cổ trang - lịch sử Trung Quốc phát sóng năm 2015,
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trần Phế Đế** (chữ Hán: 陳廢帝; 554?- 570), tên húy **Trần Bá Tông** (陳伯宗), tên tự **Phụng Nghiệp** (奉業), tiểu tự **Dược Vương** (藥王), là một hoàng đế của triều đại Trần trong lịch sử
**Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đài truyền hình đầu tiên ở Việt
**Tiếu ngạo giang hồ** (tiếng Trung: 笑傲江湖, tiếng Anh: State of Divinity) là một bộ phim truyền hình Hồng Kông do Đài truyền hình TVB sản xuất và phát hành vào năm 1996 dựa theo
**Trần Khát Chân** (chữ Hán: 陳渴真; 1370–1399) là một tướng lĩnh Đại Việt cuối thời Trần. Ông nổi bật với việc chỉ huy quân đội Việt chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành,
**_Tiếu ngạo giang hồ_** (, tiếng Anh: **The Smiling, Proud Wanderer**, hoặc **State of Divinity**) là một tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, lần đầu tiên được phát hành trên Minh báo từ ngày
**Trần thư** (chữ Hán giản thể: 陈书; phồn thể: 陳書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_) do Diêu Tư Liêm đời
nhỏ|[[Chợ Bến Thành về đêm, nơi đây là biểu tượng không chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Thành phố Hồ Chí Minh **là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi