✨Thi Lang

Thi Lang

Thi Lang (, 1621 – 1696) tự là Tôn Hầu, hiệu là Trác Công, người thôn Nha Khẩu trấn Long Hồ huyện Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc, là danh tướng thời kỳ cuối Minh đầu Thanh. Ông từng là tướng lĩnh Minh Trịnh, sau về hàng nhà Thanh, được phong Tịnh Hải hầu, thụy Tương Trang, tặng chức Thái tử Thiếu phó. Về sau ra sức giúp nhà Thanh đánh dẹp chính quyền nhà Trịnh, thu hồi lại Đài Loan, chính thức sáp nhập hòn đảo này vào lãnh thổ của Đế quốc Đại Thanh.

Tiểu sử

Thuở ban đầu

Tổ tiên Thi Lang ngụ tại trấn Phương Tập huyện Cố Thủy tỉnh Hà Nam.

Thi Lang sinh vào năm Thiên Khải nguyên niên (1621) ở Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến trong gia đình một thương nhân kiêm cướp biển. Thuở ban đầu, ông là bộ tướng dưới quyền Tổng binh Trịnh Chi Long. Năm Thuận Trị thứ 3 (1646), quân Thanh dẹp xong loạn quân phản Thanh phục Minh ở tỉnh Phúc Kiến, Thi Lang đi theo Trịnh Chi Long đầu hàng nhà Thanh và tham gia đại quân nhà Thanh tiến xuống phía Nam đánh chiếm Quảng Đông, bình định các huyện Thuận Đức, Đông Quan, Tam Thủy, Tân Ninh.

Về sau, Trịnh Chi Long bị nhà Thanh đưa về kinh thành giam giữ. Con Trịnh Chi Long là Trịnh Thành Công chạy thoát ra biển, đánh chiếm các đảo nhỏ làm hậu cứ. Trịnh Thành Công kêu gọi Thi Lang cùng ra đảo mưu tính phản Thanh lâu dài. Thi Lang gia nhập lực lượng Trịnh Thành Công cùng kháng Thanh. Tuy nhiên, sau đó giữa Trịnh Thành Công và Thi Lang phát sinh mâu thuẫn. Trịnh Thành Công bèn cử người tìm bắt Thi Lang và người nhà của ông, Thi Lang dùng kế chạy thoát. Tuy nhiên cha và em của ông là Thi Đại Tuyên và Thi Hiển cùng con cháu trong gia tộc đều bị Trịnh Thành Công giết chết. Thi Lang thế cùng lực kiệt bèn dẫn đám thuộc hạ chạy sang đầu hàng nhà Thanh.

Quy thuận nhà Thanh

Năm Thuận Trị thứ 13 (1656), Thi Lang tháp tùng Giản Thân vương Tế Độ đánh bại quân Trịnh Thành Công tại Phúc Châu. Triều đình nhà Thanh phong chức cho ông làm Phó tướng Đồng An. Năm Khang Hy thứ 1 (1662), sau khi Trịnh Thành Công chiếm được Đài Loan, triều đình nhà Thanh cất nhắc Thi Lang lên làm Tổng binh Đồng An.

Năm Khang Hy thứ nhất (1662), Thi Lang được cất nhắc lên chức Thủy sư Đề đốc. Lúc này Trịnh Thành Công đã mất, con Trịnh Thành Công là Trịnh Kinh mưu tính việc xâm chiếm miền Hải Đăng ở Phúc Kiến. Thi Lang cử các tướng Ninh Bị, Uông Minh chỉ huy thủy quân đến cửa biển chống cự, giết mất tướng của quân Trịnh là Lâm Duy, thu được chiến lợi phẩm gồm nhiều chiến thuyền và quân cụ. Chẳng bao lâu sau, Tịnh Nam vương Cảnh Kế Mâu, Tổng đốc Lý Soái Thái tiến công và chiếm được Ma Cao khiến cho quân Trịnh hoang mang tán loạn. Thi Lang chiêu mộ thủy binh người Hà Lan, dùng thuyền ván đánh vào bên sườn quân Trịnh khiến cho quân Trịnh đại bại. Thi Lang thừa thắng truy kích và chiếm được hai đảo Ngô Dự và Kim Môn. Sau khi tâu trình chiến công lên trên, Thi Lang được gia phong Hữu Đô đốc. Năm Khang Hy thứ 3 (1664), ông được thăng chức Tịnh Hải Tướng quân.

Năm Khang Hy thứ 7 (1668), Thi Lang mật tấu với triều đình nhà Thanh đề nghị đưa quân tiến đánh Trịnh Kinh, thu hồi Đài Loan, nhưng không được chấp nhận. Triều đình bãi chức Thủy sư Đề đốc của Thi Lang, nhưng phong chức Nội đại thần, thuộc Tương Hoàng kỳ Hán quân.

Năm Khang Hy thứ 20 (1681), Trịnh Kinh tạ thế, con là Trịnh Khắc Sảng kế vị chức Duyên Bình Quận vương, vì tuổi còn nhỏ nên bộ tướng Lưu Quốc Hiên và đại thần Phùng Tích Phạm thay nhau nắm giữ công việc triều chính và quốc quân đại sự, thêm vào đó, nội bộ họ Trịnh lại phát sinh nhiều mâu thuẫn, đấu đá lẫn nhau, thế lực suy yếu dần. Nội các học sĩ nhà Thanh Lý Quang Địa trình báo về khả năng đưa quân đánh chiếm Đài Loan. Vì vậy, lại tiến cử Thi Lang lên Hoàng đế Khang Hy. Nhà vua ưng thuận, phong Thi Lang làm Thủy sư Đề đốc Phúc Kiến, gia phong Thái tử Thiếu bảo, dặn dò ông cố gắng huấn luyện binh sĩ, chuẩn bị đầy đủ lương thực, đồ quân dụng, hỏa khí, cấp tốc đóng hạ tàu chiến, chờ đợi thời cơ xuất binh.

Năm Khang Hy thứ 21 (1682), Khang Hy dự định phát động chiến dịch đánh chiếm Đài Loan trong năm này nhưng vẫn còn trù trừ không quyết vì bị các quan trong triều đình phản đối dữ dội. Cấp sự Trung Tôn Huệ dâng sớ tâu xin hoãn việc đánh chiếm Đài Loan. Tháng 7 cùng năm, Thượng thư bộ Hộ Lương Thanh Tiêu dâng sớ nói lại kế hoạch đánh chiếm Đài Loan, nhà vua định tạm hoãn việc đánh chiếm Đài Loan nhưng bị Thi Lang cự tuyệt, ông khẩn khoản đề nghị Hoàng đế đồng ý, sau một hồi thuyết phục lâu dài. Cuối cùng Hoàng đế Khang Hy cũng hạ chiếu, chấp nhận ý kiến của Thi Lang, bài trừ ý kiến phản đối trong triều đình, quyết định tiến đánh Đài Loan. Lệnh cho Tổng đốc Phúc Kiến Diêu Khải Thánh được quyền điều động binh mã toàn tỉnh Phúc Kiến, cùng với Thi Lang chuẩn bị tiến đánh Bành Hồ, Đài Loan, trao cho Vạn Chính Sắc làm Bộ binh Đề đốc, lĩnh 12 vạn quân đồn trú tại Phúc Kiến nhằm tiếp ứng cho Thủy sư Đề đốc đại tướng quân Thi Lang, đều nhận tiết chế của Diêu Khải Thánh.

Xâm chiếm Đài Loan

Tháng 6 năm Khang Hy thứ 22 (1683), Thi Lang xuất phát từ Đồng Sơn tiến đánh một vài đảo nhỏ như Đảo Hoa, Đảo Miêu và Đảo Thảo làm căn cứ hậu cần. Nhân có gió nam, Thi Lang thừa cơ chỉ huy hạm đội chiến thuyền tiến tới Bát Trác. Tướng nhà Trịnh là Lưu Quốc Hiên đồn trú tại Bành Hồ, để đảm bảo việc bố phòng vững chắc đã cho xây tường men theo ven bờ, sai người cắm chông nhọn, trải dài hơn 20 dặm, hình thành tuyến phòng thủ kiên cố. Thi Lang lệnh cho phó tướng Lý Lam dùng thuyền tiến công quân Trịnh trú đóng ở đó. Bên Trịnh cũng nhân lúc thủy triều đang lên, cho chiến thuyền từ bốn phía đánh ập vào quân Thanh. Thi Lang đi thuyền lầu, đột nhập vào trận địa quân Trịnh, do dẫn đầu hạm đội nên bị quân Trịnh nã tên vào, không may một mũi tên vô tình bắn trúng vào một mắt của Thi Lang, dù đang bị trọng thương nhưng ông vẫn vững vàng chỉ huy đốc chiến, liên tục nâng cao sĩ khí binh sĩ.

Tổng binh Ngô Anh lên thay Thi Lang tiếp tục kiên trì đốc thúc quân sĩ tử chiến, sau mấy ngày chiến đấu ác liệt, quân Thanh cũng chiếm được hai đảo Hổ Tịnh và Thùng Bàn. Tiếp đến, Thi Lang đưa 100 chiến thuyền, chia làm hai cánh đông tây, cử các Tổng binh là Trần Mãng, Ngụy Minh, Đổng Nghĩa, Khang Ngọc chỉ huy quân lính. Phía đông tiến đánh đèo Kê Lộng, núi Tứ Giác. Phía tây, tiến đánh vịnh Ngưu Tâm, nhằm phân tán lực lượng quân Trịnh. Thi Lang đích thân chỉ huy sáu chiến thuyền, chia làm tám đoàn, phía sau còn có 80 chiếc khác theo sát, giương buồm xông tới. Quân Trịnh xông trận chống cự, Tổng binh Lâm Hiền, Chu Thiên Quý đích thân đưa quân đi tiên phong. Không may, Chu Thiên Quý tử trận giữa trận tiền, Lâm Hiền bị trọng thương. Quân Thanh xuất kích từ phía giữa, chiến đấu liên tục từ giờ Thìn cho đến giờ Thân, phóng lửa đốt cháy hàng trăm chiến thuyền khiến cho hàng vạn binh sĩ quân Trịnh phải bỏ mạng dưới nước. Cuối cùng quân của Thi Lang cũng chiếm được Bành Hồ, bộ tướng nhà Trịnh là Lưu Quốc Hiên đột phá vòng vây dẫn đám tàn quân rút chạy về Đài Loan.

Trịnh Khắc Sảng nhận được tin Bành Hồ thất thủ, hết sức kinh hoàng, nhận thấy lực lượng còn lại khó có thể chống cự nổi, liền cử sứ giả đến chỗ trú đóng quân Thanh của Thi Lang đề nghị xin hàng. Thi Lang dâng sớ xin ý kiến của Hoàng đế, Khang Hy đồng ý tiếp nhận lời đầu hàng của quân Trịnh. Tháng 8 cùng năm, Thi Lang chỉ huy thủy quân tiến vào cửa Lộc Nhĩ và đến thẳng Đài Loan. Trịnh Khắc Sảng cùng gia thần thuộc hạ và bá quan văn võ bước ra khỏi thành giao nộp ấn tín Duyên Bình vương cho Thi Lang. Vương triều họ Trịnh cáo chung sau 38 năm thống trị Đài Loan, hòn đảo chính thức nội thuộc nhà Thanh kể từ đó.

Sau khi dẹp yên Đài Loan, Thi Lang báo tin đại thắng về triều đình. Tấu sớ của ông được chuyển đến kinh thành vừa đúng dịp Trung Thu. Hoàng đế Khang Hy làm thơ ca ngợi chiến công của Thi Lang, phong ông làm Tịnh Hải tướng quân, tấn phong hầu tước Tịnh Hải, cha truyền con nối, không bao giờ bị phế truất; lại còn ban áo bào và các vật phẩm y phục khác. Thi Lang bẩm tấu không dám nhận hầu tước, tâu xin được giữ chức Nội đại thần như cũ và ban cho đội mũ lông chim. Khang Hy hạ chiếu chấp nhận thỉnh cầu của ông.

Xây dựng và ổn định

Triều đình nhà Thanh cử quan Thị lang Tố Bái đến Phúc Kiến, bàn bạc với quan Đốc phủ và Thi Lang về việc xử lý những vấn đề phát sinh sau khi chiếm được Đài Loan. Một số quan viên trong triều có đề xuất ý kiến di dời dân chúng ở Đài Loan về đại lục và từ bỏ hòn đảo này. Thi Lang dâng sớ cực lực phản đối, yêu cầu triều đình phải ra sức chốt giữ Đài Loan, tiến hành thành lập phủ huyện để yên dân. Khang Hy cho họp đình thần để luận bàn về việc này, Đại học sĩ Lý Úy dâng sớ tâu rằng nên thực hiện theo đúng thỉnh cầu của Thi Lang. Tiếp đó, Tô Bái và văn võ bá quan cũng dâng sớ xin chấp nhận kiến nghị của Thi Lang. Hoàng đế Khang Hy hạ chiếu cho phép thực thi kế hoạch đó.

Về mặt hành chính, trước hết nhà Thanh cho lập 3 huyện, 3 phủ và 1 tuần đạo, số dân di cư và lưu dân ở các nơi trên Đài Loan đều được cho phép cư trú như cũ. Về mặt quân sự, thuyên chuyển một phần quan binh từ nội địa vào, chia ra phòng thủ Bành Hồ và Đài Loan. Ở Đài Loan, bố trí một Tổng Binh, một Phó tướng thủy sư,hai Tham tướng lục quân và 8.000 quân trú đóng. Ở Bành Hồ thì cho bố trí một Phó tướng thủy sư và 2.000 quân trú đóng. Các Tổng binh, Phó tướng, Tham tướng và Du kích cứ sau 2-3 năm phục dịch tại các đảo, sẽ được thăng cấp và chuyển về nội địa. Ngoài ra triều đình còn ra lệnh tạm thời miễn thuế tại các đảo trên, quân đội đóng quân tại các đảo, lúc đầu được hưởng toàn bộ quân lương. Sau đó ba năm, sẽ trưng thu lương thực để tiếp tế cho quân lính, không cần phải vận chuyển lương thực từ đại lục sang.

Cùng lúc đó Trịnh Khắc Sảng cùng họ hàng đồng tộc và chư tướng gia thần như Lưu Quốc Hiên, Phùng Tích Phạm và hậu duệ nhà Minh như Chu Hoàn bị Thi Lang áp giải tới kinh đô triều kiến Hoàng đế. Toàn bộ ruộng đất, sổ sách, công văn của họ Trịnh đều phải giao nộp hết lại cho triều đình quản lý. Nhằm yên ổn lòng người, thu phục nhân tâm họ Trịnh. Khang Hy hạ chiếu ban cho Trịnh Khắc Sảng tước công, Lưu Quốc Hiên và Phùng Tích Phạm tước bá, đều quy thuộc kỳ thượng tam, số quan chức còn lại và Chu Hoàn đều được cấp một số kinh phí đưa đến các tỉnh lân cận khai hoang. Thi Lang lại tiếp tục dâng sớ xin tăng cường các lệnh cấm trên biển, kiểm tra tàu thuyền qua lại buôn bán. Ý kiến của ông đều được triều đình chuẩn y.

Qua đời

Năm Khang Hy thứ 27 (1688), Hoàng đế Khang Hy triệu hồi Thi Lang đến yết kiến. Lấy lý do già cả ốm yếu nên nhân dịp này ông xin được từ quan về quê dưỡng bệnh. Nhưng Hoàng đế không đồng tình, ban lệnh cho ông tiếp tục giữ chức làm việc.

Năm khang Hy thứ 35 (1696), Thi Lang lâm trọng bệnh, mất khi đang tại chức, thọ 76 tuổi. Sau khi ông mất, Hoàng đế Khang Hy hạ chiếu truy phong chức Thái tử Thiếu phó, cho cử hành tang lễ, lại còn ban hiệu Tương Tráng cho Thi Lang. Mộ của ông nằm ở dốc đất cách 500 m về hướng tây bắc làng Hổ Quật trấn Hoàng Đường huyện Huệ An tỉnh Phúc Kiến, là Đơn vị bảo hộ văn vật tỉnh Phúc Kiến thuộc Đơn vị bảo hộ văn vật trọng điểm Trung Quốc.

Các con

Con trưởng ông là Thi Thế Luân, từng nhậm chức Tào vận Tổng đốc, con thứ là Thi Thế Phiếu, từng lĩnh quân Thanh tới Đài Loan bình định Chu Nhất Quý.

Trong văn hóa

Trong tiểu thuyết Lộc Đỉnh ký của nhà văn Kim Dung viết năm 1969, Thi Lang được Khang Hy phái đi giúp nhân vật chính Vi Tiểu Bảo tấn công Thần Long giáo. Thi Lang dùng hỏa pháo Tây dương phá tan được Thần Long giáo, nhưng Vi Tiểu Bảo bị giáo chủ Hồng An Thông bắt và bị công chúa Sofia Alekseyevna đưa sang Nga. Một thời gian sau đó Thi Lang mang quân tấn công và bình định được Đài Loan.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thi Lang** (, 1621 – 1696) tự là **Tôn Hầu**, hiệu là **Trác Công**, người thôn Nha Khẩu trấn Long Hồ huyện Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc, là danh tướng thời kỳ cuối
nhỏ|Ngôi làng cổ [[Hollókő, tỉnh Nógrád, Hungary (Di sản thế giới)]] nhỏ|Làng Bogolyubovo ở Vladimir oblast, [[Nga|nước Nga.]] nhỏ|Kippel - Một ngôi làng ở thung lũng Lötschental, [[Thụy Sĩ]] nhỏ|Làng Hybe ở [[Slovakia với dãy
nhỏ|phải|Dấu ấn triện Lại bộ hữu thị lang quan phòng (吏部右侍郎關防) của quan [[Doãn Uẩn]] **Thị lang** (侍郎, Vice Minister) là chức quan đứng thứ ngay sau Thượng thư (thời kỳ trước triều Nguyễn, tương
**Thi Lãng Chiếu** (, ?~794) là một bộ lạc tại Vân Nam hình thành vào thời kỳ đầu nhà Đường và là một trong Lục Chiếu. Lãnh địa của Việt Thác Chiếu nay thuộc huyện
phải|Cổng làng Thổ Hà, Bắc Giang **Cổng làng** là một loại công trình kiến trúc có tính cách phòng thủ nhưng sang thời hiện đại thì phần lớn nặng phần tượng trưng với giá trị
**Lăng mộ của Cyrus Đại Đế** là lăng tẩm của Cyrus Đại đế - một vị "Vua của các vị vua" trong lịch sử Ba Tư. Theo nguồn của Hy Lạp, lăng mộ có từ
**Lăng Đồng Khánh** hay **Tư Lăng** (思陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng hoàng đế Đồng Khánh, lăng tọa lạc giữa một vùng quê
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Tư Lăng** (chữ Hán: 思陵) là nơi an táng Minh Tư Tông (hay **Sùng Trinh**) – Hoàng đế thứ 17 và cuối cùng của nhà Minh cùng hai người vợ ông là Chu Hoàng hậu
**Ngô Thì Sĩ** hay **Ngô Sĩ** (chữ Hán: 吳時仕, 1726 - 1780), tự **Thế Lộc**, hiệu **Ngọ Phong** (午峰), đạo hiệu **Nhị Thanh cư sĩ**, là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
**Làng Cót** hay **Kẻ Cót** là tên Nôm của hai làng Yên Quyết có từ lâu đời, là Thượng Yên Quyết (ở phía Bắc) và Hạ Yên Quyết (ở phía Nam), đều nằm bên bờ
Nếu bạn đang tìm kiếm một điểm đến độc đáo và đầy màu sắc để khám phá trong hành trình du lịch miền Tây Nam Bộ, thì làng nổi cá bè Châu Đốc, tỉnh An
Chính diện lăng xưa, có bình phong án ngữ trước nếp bái đường. Sau bình phong là phần chính của lăng với mái cao nhô lên, trên đỉnh có thánh giá Lăng Cha Cả nay
**Lăng Trường Diên **(tên Hán 長延陵), tức lăng Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Lan (sinh ngày 13 tháng 8 năm 1601, mất ngày 19 tháng 3 năm 1648, là vị Chúa
nhỏ|Toàn cảnh Minh Dụ Lăng **Dụ Lăng** (裕陵) là nơi an táng Minh Anh Tông – Hoàng đế thứ sáu của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Vị trí Tư lăng nằm ở
**Lăng Trường Diễn** (tên Hán 長衍陵), tức lăng Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Nguyên (sinh ngày 16 tháng 8 năm 1563, mất ngày 19 tháng 11 năm 1635, là vị Chúa
**Lăng Trường Phong** (tên Hán 長豐陵), tức lăng Túc Tôn Hiếu Ninh Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Chú (Thụ) (sinh ngày 14 tháng 1 năm 1697 - mất ngày 7 tháng 6 năm 1738), là
**Ngô Thì Trí** (1766-?) là một danh sĩ thời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Thì Trí** là người ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh
nhỏ|Bản đồ khu vực Szczecin, không bao gồm các khu hành chính **Chùm đô thị Szczecin** hay **chùm đô thị Stettin** là một chùm đô thị của thành phố Szczecin và các thị trấn lân
**Văn An** (chữ Hán giản thể: 文安县) là một huyện thuộc địa cấp thị Lang Phường, tỉnh Hà Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 980 ki-lô-mét vuông, dân số
**Vĩnh Thanh** (chữ Hán giản thể: 永清县) là một huyện thuộc địa cấp thị Lang Phường, tỉnh Hà Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 774 ki-lô-mét vuông, dân số
Đại Thành (chữ Hán giản thể: 大城县) là một huyện thuộc địa cấp thị Lang Phường, tỉnh Hà Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 910 ki-lô-mét vuông, dân số
nhỏ|320x320px|Bá Châu **Bá Châu** (chữ Hán giản thể: 霸州市) là một thành phố cấp huyện thuộc địa cấp thị Lang Phường, tỉnh Hà Bắc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố này có diện
thumb|Nam diễn viên [[Charlton Heston đã từng tham gia diễn xuất trong nhiều phim sử thi kinh thánh như _The Ten Commandments_ và sử thi lịch sử như _El Cid_]] **Phim sử thi** là một
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh**, còn gọi là **Lăng Hồ Chủ tịch**, **Lăng Bác**, là nơi gìn giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng được chính thức khởi công ngày 2 tháng
**Tịnh Biên** là một thị xã miền núi biên giới thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam. phải|Trên đỉnh [[núi Cấm thuộc xã An Hảo]] ## Địa lý ### Vị trí địa lý Thị xã Tịnh
**Quế Võ** là một thị xã thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. ## Địa lý Thị xã Quế Võ nằm ở phía đông của tỉnh Bắc Ninh, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp
**Làng** (chữ Nôm: 廊) là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ chức xã hội quan trọng của nông thôn ở Việt Nam. Suốt nhiều thế kỷ, làng là đơn vị tụ
**Lăng tẩm Huế** gồm những nơi dùng để an táng các vị vua, chúa cũng như hoàng tộc của những triều đại đã chọn Huế làm trung tâm quyền lực. Một phần nội thất [[Lăng
**Việt Yên** là một thị xã nằm cửa ngõ phía tây nam tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Thị xã Việt Yên nằm ở phía tây nam tỉnh Bắc Giang, ven sông Cầu,
**Thuận Thành** là một thị xã nằm ở phía nam sông Đuống thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Trung tâm thị xã nằm tại phường Hồ. Trên địa bàn thị xã có Chùa Dâu là
**An Nhơn** là một thị xã cũ thuộc tỉnh Bình Định, Việt Nam. ## Địa lý Thị xã An Nhơn có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện Tuy Phước *Phía tây giáp huyện
**Vụ án cưỡng chế đất đai tại Tiên Lãng** là vụ án về tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vinh Quang cùng gia đình và Ủy ban nhân dân
**Lang Gia Vương thị** (琅琊王氏), là thế tộc họ Vương tại quận Lang Gia (琅邪郡). Lang Gia Vương thị hưng khởi lúc thời Hán, thời Đông Tấn phát triển thành gia tộc cao nhất trong
**Lang** (郎, Court Gentleman) là một thuật ngữ nguyên được dùng để chỉ các chức vụ thị vệ tại triều đình, nhưng sau này được dùng để chỉ các chức quan cao cấp trong các
Đình Mỹ Phước **Đình làng Nam Bộ** (người miền Nam hay gọi tắt là **đình thần**) là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn. Nhìn chung ở Nam
**Lăng Thiệu Trị** có tên chữ là **Xương Lăng** (昌陵) là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận
**Lăng Gia Long ** hay **Thiên Thọ Lăng** (天授陵), là lăng tẩm của hoàng đế Gia Long (1762–1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng
[[Caspar David Friedrich, _Kẻ lãng du trên biển sương mù,_ 38.58 × 29.13 inches, 1818, tranh sơn dầu, Kunsthalle Hamburg]] [[Eugène Delacroix, _Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân_ 1830]] Théodore Géricault, _[[Chiếc bè
**Sơn Tây** là một thị xã thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. Thị xã nguyên là thành phố Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Tây. Đây là thị xã trực thuộc thành phố đầu
**Lăng Cô** là một thị trấn thuộc huyện Phú Lộc, thành phố Huế, Việt Nam. ## Địa lý Thị trấn Lăng Cô nằm ở phía đông nam huyện Phú Lộc, có vị trí địa lý:
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Dấu lặng** là ký hiệu thuộc hệ thống ký hiệu nhạc phương Tây, được sử dụng nhằm thể hiện một khoảng dừng (nghỉ) trong tác phẩm. Có nhiều loại dấu lặng ứng với nhiều biểu
**Thanh Dụ lăng** (chữ Hán: 清裕陵), là một lăng tẩm tại Trung Quốc, nơi chôn cất Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế - vị Hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Thanh. ##
**Quảng Trị** là một thị xã nằm ở phía nam tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Hiện nay, thị xã Quảng Trị không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, thị xã lại
**Lăng Dục Đức** tên chữ **An Lăng** (安陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế, là nơi an táng vua Dục Đức, vị vua thứ năm của triều đại nhà
**Trường Đại học Văn Lang** (English:**_Van Lang University**,_ Latin: _Universitas Vanlangensis_), thường được gọi tắt là **VLU** là một trường đại học tư thục đa ngành ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Thành
Bình hoa gốm Phù Lãng hiện đại **Làng gốm Phù Lãng** là một làng nghề cổ truyền chuyên sản xuất gốm thuộc vùng Kinh Bắc. ## Địa lý Làng gốm Phù Lãng thuộc xã Phù
**Vàm Láng** là một thị trấn cũ thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. Sau Ngày 1.7.2025 sáp nhập với xã Kiểng Phước và xã Gia Thuận thành xã Gia Thuận mới