✨Lăng tẩm Huế

Lăng tẩm Huế

Lăng tẩm Huế gồm những nơi dùng để an táng các vị vua, chúa cũng như hoàng tộc của những triều đại đã chọn Huế làm trung tâm quyền lực. Một phần nội thất [[Lăng Khải Định]]

Lăng mộ các chúa Nguyễn và cung phi

Lăng 9 đời chúa Nguyễn

Gồm 9 khu lăng mộ: lăng Trường Cơ (chúa Nguyễn Hoàng), lăng Trường Diễn (chúa Nguyễn Phúc Nguyên), lăng Trường Diên (chúa Nguyễn Phúc Lan); Lăng Trường Hưng (chúa Nguyễn Phúc Tần); lăng Trường Mậu (chúa Nguyễn Phúc Thái); Lăng Trường Thanh (chúa Nguyễn Phúc Chu); lăng Trường Phong (chúa Nguyễn Phúc Chú); lăng Trường Thái (chúa Nguyễn Phúc Khoát); lăng Trường Thiệu (chúa Nguyễn Phúc Thuần) đặt ở các thôn phía tây Huế dọc hai bờ sông Hương.

Lăng Tuyên Mục nhị vương

Năm 1809, hài cốt của Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương (được truy tôn là Cung Mẫn Anh Đoán Huyền Mặc Vĩ Văn Mục Vương, được xem như là chúa Nguyễn thứ 10) được vua Gia Long đem về cải táng thờ chung viên tẩm với cha là Nguyễn Phúc Hạo (1739-1760, được truy tôn là Duệ Tiềt Ôn Lương Anh Duệ Minh Đạt Tuyên Vương). Hiện lăng tọa lạc tại xóm Tẩm, phường Long Hồ, quận Phú Xuân, Huế. Lăng được Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc trùng tu năm 2022.

Lăng mộ cung phi của các chúa Nguyễn

Bên cạnh các lăng của mỗi chúa là lăng của các phi (vợ) của các chúa, lăng của các bà phi có khoảng 11 lăng.

Thời Tây Sơn các khu lăng tẩm này đã bị tàn phá khá nhiều hoặc núi Khuân Sơn ở Thừa Thiên Huế.

Lăng mộ các hoàng đế nhà Nguyễn

Các vua triều Nguyễn đều xây dựng lăng mộ cho mình ngay khi còn sống vì quan điểm "sinh ký tử quy" (sống gửi thác về) của nhà Nho và triết lý sắc không vô thưởng của nhà Phật. Các khu lăng mộ xây sẵn có hai chức năng: là nơi khi thỉnh thoảng còn sống các vua lui tới để vui chơi và nơi chôn cất khi họ mất. Tuy triều Nguyễn có 13 vua, nhưng vì nhiều lý do kinh tế chính trị chỉ 7 lăng được xây dựng.. Năm 1809, vua Gia Long đưa hài cốt của ông an táng tại núi La Khê, huyện Hương Trà, nay là làng La Khê, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Lăng nằm trong quần thể lăng chúa Nguyễn Hoàng (gồm lăng Trường Cơ, Trường Thái, Trường Thiệu và lăng Hải Đông Quận vương Nguyễn Phúc Đồng), được công nhận di tích cấp quốc gia QĐ số 2009/1998-QĐ/ BVHTT ngày 26/9/1998.

Lăng Hoàng Cô

Lăng Hoàng Cô nằm trong quần thể lăng Gia Long, là nơi an nghỉ của Thái Trưởng Công chúa Long Thành tức Nguyễn Phúc Ngọc Tú (1759 – 1823), chị ruột vua Gia Long. Nét khác biệt của lăng Hoàng Cô với các lăng mộ hoàng tộc Nguyễn khác là mộ phần hình tòa tháp nhiều tầng giống như tháp chứa di cốt của các nhà sư trong chùa Phật giáo, do Công chúa đã xuất gia vào những năm cuối đời.

Lăng Hoàng Tử Cảnh

Năm 1801, Hoàng tử Cảnh mất vì bệnh đậu mùa, được an táng ở Gia Định. Sau khi đã ổn định được đất nước, vua Gia Long cho đem về cải táng ở Dương Xuân (1809). Truy đặt tên thụy là Anh Duệ Hoàng Thái Tử (1805). Ngày nay lăng Hoàng tử Cảnh tọa lạc tại thôn Thượng Hai, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Từ ngoài đi vào, lăng nằm trên phía tay trái của Lăng Đồng Khánh.

Lăng Diên Khánh Vương

Lăng mộ này là nơi an nghỉ của Diên Khánh Vương Nguyễn Phúc Tấn (1799-1817), con trai thứ 7 của vua Gia Long và mẹ là Chiêu nghi Nguyễn Hữu Thị Điền. Sau khi mất, ông được an táng tại ấp Ngũ Tây, xã An Cựu, tổng An Cựu, huyện Hương Thủy; nay thuộc tổ 10, khu vực 5, phường An Tây, thành phố Huế. Lăng Diên Khánh Vương đã được sửa chữa, trùng tu và tôn tạo nhiều lần, gần nhất là vào cuối năm 2011. Đây là một trong những lăng mộ điển hình cổ kính, mang đậm nét kiến trúc lăng mộ triều Nguyễn và là một trong những công trình kiến trúc lịch sử văn hóa biêu biểu.

Lăng Kiên Thái Vương

Lăng của Kiên Thái Vương (1845-1876) tọa lạc trên một ngọn đồi kế bên lăng Đồng Khánh ở phía Nam kinh thành Huế. Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai là cha đẻ của ba vị vua triều Nguyễn: Đồng Khánh, Kiến Phúc và Hàm Nghi. Điểm đặc biệt của lăng mộ này là ở đây có hai bi đình (nhà bia) trong khi tất cả các lăng mộ khác chỉ có một bi đình. Hai bi đình nằm đối xứng ở hai bên trái và phải của lăng mộ.

Lăng công chúa Quy Đức và phò mã Thuật

Lăng tẩm của công chúa Quy Đức và phò mã Thuật hiện tọa lạc trên đường Lê Ngô Cát, phường Thủy Xuân, Huế; bên trong khuôn viên lăng có một ngôi mộ nhỏ của Uyển La, con gái của hai người. Lăng mộ đang trong tình trạng xuống cấp.

Lăng Vĩnh Tường Quận Vương

Lăng mộ của Vĩnh Tường Quận Vương Nguyễn Phúc Miên Hoành nằm tại tại xã Kim Ngọc (nay thuộc xã Hương Thọ, thành phố Huế). Ông là con trai thứ 5 của vua Minh Mạng.

Lăng Huy Thuận Học phi

Nằm ở phường Thủy Xuân, TP Huế, cách lăng vua Tự Đức không xa, là lăng Huy Thuận Học phi Nguyễn Văn Thị Hương, một phi tần nổi tiếng của vua Tự Đức. Trong vụ xâm hại lăng mộ để làm bãi đỗ xe tham quan lăng Tự Đức - Đồng Khánh tháng 6 năm 2017, lăng bà Học Phi bị máy xúc ủi sát tới chân mộ, nhưng may mắn là không bị tổn hại nhiều.

Lăng Thục Thuận Tài nhân

Tẩm mộ của Cửu giai Tài nhân họ Lê, thụy là Thục Thuận, vợ của vua Tự Đức hiện tọa lạc tại phường Thủy Xuân, Huế. Mộ của bà đã bị san ủi để làm bãi đỗ xe cho khách tham quan di tích. Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc đã gửi yêu cầu dựng lại ngôi mộ của bà ngay vị trí cũ đến chủ đầu tư và UBND Thừa Thiên Huế.

Lăng Đoan Thục Phu nhân

Đoan Thục Phu nhân Trần Thị Nga (1832 - 1911) là đệ nhất phủ thiếp của ngài Thụy Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y (con vua Thiệu Trị), sau khi bà mất thì được phong thụy là Đoan Thục phu nhân. Bà Trần Thị Nga là mẹ vua Dục Đức, là bà nội vua Thành Thái và là bà cố nội của vua Duy Tân. khu lăng bà Trần Thị Nga tọa lạc trên diện tích hơn 200 m2 ở đường Vũ Ngọc Phan (phường Thủy Xuân, TP Huế), được Ban lăng mộ của Hội đồng Nguyễn Phước tộc phát hiện ngày 5/7/2017 trong tình trạng bị bỏ hoang. Khu lăng này còn khá nguyên vẹn và có nhiều giá trị về mặt lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật cung đình nhà Nguyễn. Khu lăng được chia thành 2 vòng thành lăng, phía trước có cổng vòm. Phía sau khu vực phần mộ của mẹ vua Dục Đức là tấm bia lớn có khắc bài thơ chữ Hán dài hàng trăm chữ.

Lăng Quảng Thi Công Chúa

Nguyễn Phúc Thanh Cật sinh năm Kỷ Hợi (1839), là con gái thứ 21 của vua Thiệu Trị, mẹ là Lục giai Tiệp dư Nguyễn Đình Thị Loan, người Quảng Trị. Năm Tự Đức thứ 22 (1869), bà được sách phong làm Quảng Thi Công chúa (廣施公主). Năm Tự Đức thứ 32 (1879), Kỷ Mão, công chúa mất, thọ 41 tuổi, được ban thụy là Mỹ Thục (美淑). Tẩm mộ của công chúa hiện nay tọa lạc tại Khu vực 4, phường Thủy Xuân, Huế.

Xâm phạm lăng mộ

Dự án bãi đỗ xe lăng Tự Đức - Đồng Khánh

Dự án bãi đỗ xe tham quan lăng Tự Đức - lăng Đồng Khánh (tại Phường Thủy Xuân, TP.Huế) do UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế cấp phép đầu tư với diện tích gần 17.000 m2, trên cơ sở quy hoạch đã được thống nhất của Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch. Quá trình san ủi mặt bằng, tháng 6 năm 2017, đơn vị đầu tư là Công ty Chuỗi Giá Trị đã san phẳng một ngôi mộ cổ. Sau đó Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc tìm thấy bia đá và huyệt mộ, xác định đây là ngôi mộ của bà Tài nhân cửu giai họ Lê, phi tần vua Tự Đức. Dự án này sau đó bị đình chỉ và đến tháng 7 năm 2019, chủ đầu tư đã thỏa thuận Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc giữ lại diện tích cũ và xây dựng lại lăng mộ. Hơn 4 năm sau khi bia và huyệt mộ của bà Tài nhân họ Lê, phi tần của vua Tự Đức được phát hiện, lăng mộ vẫn chưa được xây cất lại.

Đào trộm mộ mẹ vua Dục Đức

Ngày 19/11/2017, nhiều người trong Hội đồng trị sự Nguyễn Phước tộc đến khu lăng mộ Đoan Thục Phu nhân Trần Thị Nga để thắp hương thì phát hiện tấm bia của lăng bị bứng đưa ra ngoài, đế bia và thân bia bị gãy đôi. Khu vực đặt tấm bia bị đào phá tan hoang, gạch đất vương vãi nhiều nơi.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lăng tẩm Huế** gồm những nơi dùng để an táng các vị vua, chúa cũng như hoàng tộc của những triều đại đã chọn Huế làm trung tâm quyền lực. Một phần nội thất [[Lăng
**Lăng** **Tiên Cung** (僊宮陵) hay **Tư Thông Lăng** (思聰陵), còn có tên dân gian là **lăng Vạn Vạn** là lăng mộ của Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục (1868 - 1944), vợ của
**Lăng Thoại Thánh** (瑞聖陵), còn gọi là **lăng Thụy Thánh**, nằm trên đồi thông cạnh chân dãy núi Thiên Thọ, trong quần thể lăng Gia Long (Định Môn, Hương Trà) là lăng mộ của Hiếu
Lăng Chiêu Nghi là lăng mộ của Từ Mẫn Chiêu Nghi phu nhân Trần Thị Xạ (1716-1750), phi tần của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765, vị chúa thứ 8 trong 9 đời Chúa Nguyễn).
Lăng Thiên Thọ Hữu là lăng tẩm của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang (1769 - 1846), vợ thứ hai của vua Gia Long, mẹ vua Minh Mạng. Lăng cách khu tẩm điện
Lăng Kiên Thái Vương tọa lạc trên một ngọn đồi kế bên lăng Đồng Khánh thuộc phường Thủy Xuân, phía Nam kinh thành Huế, là lăng tẩm của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai
**Lăng Minh Mạng** (hay còn gọi là **Minh Mệnh**) có tên chữ là **Hiếu lăng** (孝陵), do hoàng đế Thiệu Trị thời nhà Nguyễn cho xây dựng, nằm trên núi Cẩm Kê, ấp An Bằng,
**Lăng Gia Long ** hay **Thiên Thọ Lăng** (天授陵), là lăng tẩm của hoàng đế Gia Long (1762–1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng
**Lăng Tự Đức** (chữ Hán: 嗣德陵) là một quần thể Di tích công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất Tự Đức, tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân
**Lăng Đồng Khánh** hay **Tư Lăng** (思陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng hoàng đế Đồng Khánh, lăng tọa lạc giữa một vùng quê
**Lăng Khải Định**, còn gọi là **Ứng Lăng** (應陵) là lăng tẩm của Hoàng đế Khải Định (1885-1925), vị Hoàng đế thứ 12 Triều Nguyễn. Lăng tọa lạc tại núi Châu Chữ, phường Thủy Bằng,
**Lăng Cơ Thánh**, còn gọi là **lăng Sọ** là một lăng tẩm hoàng gia của nhà Nguyễn, là nơi chôn cất cha ruột của hoàng đế Gia Long. Lăng được xây dựng trên nền lăng
**Lăng Trường Cơ** (chữ Hán: 長基陵), tức lăng của Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế - Nguyễn Hoàng, là vị chúa Nguyễn đầu tiên của 9 đời Chúa Nguyễn. Gia Long hoàng đế đã truy
**Lăng Hiệp Hòa** là lăng mộ của vua Hiệp Hòa, hoàng đế thứ 6 của triều Nguyễn. Lăng nằm cách Kinh thành Huế 7 km về phía Tây Nam, tọa lạc ở khu vực đồi thông
**Lăng Xương Thọ** (chữ Nho: 昌壽陵) hay **lăng Từ Dụ** là lăng mộ của Nghi Thiên Chương Hoàng hậu Phạm Thị Hằng (1810-1901), hay còn gọi là Từ Dụ thái hậu, vợ của vua Thiệu
Lăng Quang Hưng (光興陵) là lăng mộ Từ Tiên Hiếu Triết Hoàng hậu Tống Thị Đôi, thứ phi của chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Thái. Lăng Quang
nhỏ|Tranh tường ở [[cung An Định, bên trái là Chấp Khiêm điện, ở giữa là Di Khiêm lâu và bên trái là cổng vào lăng mộ vua Kiến Phúc. ]] **Lăng Kiến Phúc,** hay **Bồi
Lăng Hiếu Đông (孝東陵) là lăng mộ của Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa (1791-1807), vợ đầu của vua Minh Mạng, thân mẫu vua Thiệu Trị. Lăng nằm trong quần thể lăng Thiệu
Lăng Quang Trung là nơi án táng hoàng đế Quang Trung (1753-1792) vốn bị vua Gia Long cho phá hủy là địa điểm không được ghi chép rõ ràng trong lịch sử vì sự tồn
**Minh Thập Tam lăng** () là tập hợp các lăng mộ được xây dựng bởi các Hoàng đế triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Lăng mộ của vị Hoàng đế đầu tiên
Lăng Vĩnh Hưng là lăng mộ Từ Mẫn Hiếu Triết Hoàng hậu Châu Thị Viên (1625-1684), chánh phi của Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, tọa lạc tại làng An Ninh, phường Thủy Bằng, quận Thuận
**Lăng Tư Minh** hay còn gọi là **lăng Thánh Cung** là nơi an nghỉ của Phụ Thiên Thuần Hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Nhàn (1870-1935), còn được gọi là Đức Thánh Cung, vợ cả của
Lăng Vĩnh Phong là nơi an nghỉ của Hiếu Ninh Hoàng hậu Trương Thị Thư, chánh phi Ninh vương Nguyễn Phúc Chú, tọa lạc tại làng Chầm, phường Long Hồ, quận Phú Xuân, Huế. ##
**Lăng Vĩnh Thanh** là lăng mộ của Hiếu Minh Hoàng hậu Tống Thị Được (1680-1716), chánh phi của Minh vương Nguyễn Phúc Chu. Lăng tọa lạc tại làng Chầm, phường Long Hồ, quận Phú Xuân,
Lăng Vĩnh Cơ (永基陵) tọa lạc tại thôn Hải Cát, phường Long Hồ, quận Phú Xuân, thành phố Huế, là nơi an nghỉ của Gia Dụ Hoàng hậu, vợ chúa tiên Nguyễn Hoàng, mẹ chúa
Lăng Khiêm Thọ (謙壽陵) là nơi chôn cất của Lệ Thiên Anh Hoàng hậu Võ Thị Duyên (1828–1902), chính thất của vua Tự Đức. Lăng nằm trong quần thể lăng Tự Đức (tức Khiêm lăng),
Lăng Vĩnh Mậu (永茂陵) là lăng mộ của Hiếu Nghĩa Hoàng hậu Tống Thị Lãnh (1653-1696), vợ chúa Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (1650-1725). Lăng Vĩnh Mậu nằm trong quần thể lăng Gia Long, phường
Lăng Vĩnh Thái là nơi an nghỉ của bà Hiếu Vũ Hoàng hậu Trương Thị Dung (1712-1736), chánh phi của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, mẹ của Nguyễn Phúc Luân, bà nội vua Gia Long.
**Quần thể di tích Cố đô Huế** hay **Quần thể kiến trúc cố đô Huế** là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
**Cố đô Huế**, còn gọi là **Phú Xuân**, là thủ phủ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn từ năm 1687 đến 1774, sau đó là thủ đô của triều đại Tây Sơn từ năm
**Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế** là một viện bảo tàng trực thuộc sự quản lý của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tàng bằng
**Lăng Thiệu Trị** có tên chữ là **Xương Lăng** (昌陵) là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Lăng Dục Đức** tên chữ **An Lăng** (安陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế, là nơi an táng vua Dục Đức, vị vua thứ năm của triều đại nhà
**Thanh Dụ lăng** (chữ Hán: 清裕陵), là một lăng tẩm tại Trung Quốc, nơi chôn cất Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế - vị Hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Thanh. ##
Hình vẽ đoàn tùy tùng, trên tranh tường trong mộ [[Lý Hiền (Nhà Đường)|Lý Hiền, niên đại 706; mỗi hình có chiều cao xấp xỉ .]] **Càn lăng** () là một công trình kiến trúc
**Làng Thanh Lương** được hình thành vào khoảng từ cuối thế kỷ XIV và đến đầu thế kỷ XV. Đầu tiên Làng được đặt tên là làng Thanh Kệ, cho đến khi chúa Nguyễn về
**Lăng Hoàng gia** là nơi yên nghỉ của những người quá cố thuộc dòng họ Phạm Đăng nổi tiếng ở Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang (Việt Nam). ## Giới thiệu ### Vị trí, tên
Công dụng Thần Kỳ Của Dầu xoa bóp Huế gia truyền Phước Quy (Massage Oil Huế Phước Quy)Nếu gia đình bạn có người lớn tuổi, người bị mắc các bệnh về xương khớp… hãy thủ
Dầu xoa Bóp Huế Gia Truyền Phước Quy® (Massage Oil Huế)Nếu gia đình bạn có người lớn tuổi, người bị mắc các bệnh về xương khớp… hãy thủ sẵn trong tủ thuốc một chai Dầu
**Lăng Trường Thái** (tên Hán 長泰陵), tức lăng Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Khoát (sinh ngày 26 tháng 9 năm 1714, mất ngày 7 tháng 7 năm 1765, là vị Chúa
**Tam Điệp** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Thành phố Tam Điệp là một địa danh cổ, nằm bên dãy núi Tam Điệp hùng vĩ, nơi có nhiều di chỉ
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Thanh Hiếu lăng** (chữ Hán: 清孝陵), ) là một lăng tẩm tại Trung Quốc, nơi chôn cất Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế - vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Thanh.
**Lăng Trường Thanh** (tên Hán 長清陵), tức lăng Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế - Nguyễn Phúc Chu (sinh ngày 11 tháng 6 năm 1675, mất ngày 1 tháng 6 năm 1725), là vị Chúa
**Lăng Trường Hưng **(tên Hán 長興陵), tức lăng của Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Tần (sinh ngày 18 tháng 7 năm 1620, mất ngày 30 tháng 4 năm 1687, là vị
**Lăng Trường Diên **(tên Hán 長延陵), tức lăng Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Lan (sinh ngày 13 tháng 8 năm 1601, mất ngày 19 tháng 3 năm 1648, là vị Chúa
Món Ngon Xứ Huế - HUE DELICACIES Song Ngữ Huế - mảnh đất cố đô không chỉ nổi tiếng với những lăng tẩm nguy nga, thiên nhiên non nước hữu tình mà đây còn là