✨Lăng Thiệu Trị

Lăng Thiệu Trị

Lăng Thiệu Trị có tên chữ là Xương Lăng (昌陵) là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 11 tháng 12 năm 1993.

Vị trí

Lăng Thiệu Trị nằm dựa lưng vào núi Thuận Đạo, ở địa phận làng Cư Chánh, phường Thủy Bằng, quận Thuận Hóa, thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng 8 km. .

Xét về phong thủy, lăng Thiệu Trị ở vào vị thế "sơn chỉ thủy giao". Lăng quay mặt về hướng tây bắc, một hướng chưa bao giờ được dùng trong các công trình kiến trúc lớn thời Nguyễn bấy giờ. Phía trước, cách lăng khoảng 1 km có đồi Vọng Cảnh, bên trái có núi Ngọc Trản chầu về trước lăng theo vị thế "tả thanh long, hữu bạch hổ". Sông Hương làm minh đường. Ngọn núi Chằm cách đó khoảng 8 km đứng làm "tiền án" cho khu vực lăng, động Bàu Hồ ở gần hơn làm bình phong thiên nhiên cho khu vực tẩm. Ở đằng sau, ngoài ngọn núi Kim Ngọc ở xa, người xưa đã đắp một mô đất cao lớn làm "hậu chẩm" cho lăng. Trong phạm vi lăng có ba hồ bán nguyệt là hồ điện, hồ Nhuận Trạch, và hồ Ngưng Thúy cùng dòng khe từ hồ Thủy Tiên chảy ra bên phải, giao lưu với nhau bằng những đường cống xây ngầm dưới các lối đi. La thành bao bọc xung quanh (ngăn vượng khí thoát ra ngoài) không phải là tường thành mà là những cánh đồng, vườn cây.

Quá trình xây dựng Lăng

trái|nhỏ|300x300px|Toàn cảnh lăng Thiệu Trị đầu thế kỉ 20 nhỏ|Hồng Trạch Môn, lăng Thiệu Trị Sau khi ở trên ngai vàng được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh qua đời ngày 4 tháng 11 năm 1847, giữa lúc mới 41 tuổi. Trong khi hấp hối, nhà vua đã dặn người con trai sắp lên nối ngôi rằng: "Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân".

Vua Tự Đức lên nối ngôi đã lệnh cho các thầy địa lý tìm đất để xây lăng cho vua cha. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, cách Kinh thành không xa như hai lăng vua tiền nhiệm. Sau đó núi ấy được đặt là núi Thuận Đạo còn lăng được gọi là Xương Lăng.

Vào ngày 11 tháng 2 năm 1848, vua Tự Đức sai đại thần Vũ Văn Giai, sung chức Đổng lý, đứng ra trông coi công việc xây dựng lăng. Nhà vua dặn cứ 10 ngày một lần phải báo cáo cho vua biết tiến độ xây dựng lăng.

Theo lời dặn của vua cha, vua Tự Đức căn dặn Vũ Văn Giai phải bắt chước cách làm "toại đạo" giống như trên lăng Minh Mạng, công việc xây dựng các công trình mang tính thờ phụng ở lăng như điện, đình, các, viện... thì phải bắt chước theo quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm. Toại đạo, tức là đường hầm đưa quan tài nhà vua vào huyệt mộ, được xây vào ngày 24 tháng 3 năm 1848.

Quá trình xây cất Xương Lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút, nên chỉ sau ba tháng thi công, các công trình chủ yếu đã hoàn thành. Ngày 14 tháng 6 năm 1848, vua Tự Đức thân hành lên Xương Lăng kiểm tra lần cuối. Mười ngày sau, thi hài vua Thiệu Trị được đưa vào an táng trong lăng sau 8 tháng quàn tại điện Long An ở cung Bảo Định. Vua Tự Đức viết bài văn bia dài trên 2.500 chữ, cho khắc lên tấm bia "Thánh đức thần công", dựng vào ngày 19 tháng 11 năm 1848 để ca ngợi công đức của vua cha.

Trong một bài dụ của vua Tự Đức viết vào tháng 5 năm 1848, có đoạn nói: "Nay mọi việc đã đâu vào đấy, sớm báo cáo hoàn thành". Ngày 14 tháng 6 năm 1848, tức là 10 ngày trước khi làm lễ an táng vua cha, vua Tự Đức thân hành lên lăng để kiểm tra công việc một lần cuối. Mặc dù vua Thiệu Trị đã căn dặn là phải làm lăng như thế nào cho "kiệm ước", không nên quá tốn kém tiền của và sức dân, sức binh. Và trong bài văn bia ở Xương Lăng, vua Tự Đức đã nhắc lại điều đó và nói thêm rằng: "Lời vàng ngọc văng vẳng bên tai, con nhỏ này đâu dám trái chí"; nhưng hôm ấy khi lên xem công trình lăng, thấy "công trình có phần phiền phức to lớn", nhà vua vẫn tỏ ra thỏa mãn.

Riêng tấm bia "Thánh đức thần công" với bài bi ký dài hơn 2.500 chữ do vua Tự Đức viết, thì mãi đến 5 tháng sau, tức là ngày 19 tháng 11 năm 1848 mới dựng được.

Như vậy, tính từ ngày bắt đầu xây dựng (11 tháng 2 năm 1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công trong vòng chưa đầy 10 tháng.

Ngoài ra, ở gần lăng Thiệu Trị còn có 3 ngôi lăng mộ khác của những người trong gia đình vua. Nằm chếch phía trước là Lăng Hiếu Đông của mẹ vua - bà Hồ Thị Hoa; gần phía sau bên trái là Lăng Xương Thọ của vợ vua - bà Từ Dụ; phía trước bên trái là khu lăng "Tảo thương" là những ngôi mộ của con vua Thiệu Trị chết lúc còn nhỏ.

Kiến trúc

trái|nhỏ|Hồ Ngưng Thúy, cầu Tây Định, cầu Chánh Trung, lầu Đức Hinh, và Bi đình trên trục lăng mộ của Xương Lăng nhỏ|Hồ Ngưng Thúy, cầu Đông Hòa, cầu Chánh Trung và lầu Đức Hinh nhìn từ Bửu thành|trái trái|nhỏ|Đức Hinh lâu, lăng Thiệu Trị Lăng gồm hai khu vực: lăng (bên phải) và tẩm (bên trái) đặt song song cách nhau khoảng 100 mét, đều dựa lưng vào núi thấp, hướng mặt ra đồng ruộng, về phía tây bắc, không có la thành bao bọc. Tổng diện tích khu vực này khoảng 6 ha. Về quy mô và hình thức kiến trúc, các công trình tại Xương lăng gần tương tự với Hiếu lăng của vua Minh Mạng, nhưng nhỏ và đơn giản hơn. Cách xây Bửu thành, Toại đạo, các cầu bằng đá, nghi môn, nghê đồng và các hồ bán nguyệt tương tự với lăng Minh Mạng. Lăng Thiệu Trị khác lăng Minh Mạng là không xây La thành, nhưng giống lăng Gia Long là lợi dụng những dãy núi đồi chung quanh để làm nên một vòng La thành thiên nhiên rộng lớn. Lăng Thiệu Trị dựa lưng vào chân núi Thuận Đạo, gần trước mặt lăng là một vùng đất bằng phẳng cỏ cây xanh tươi, ruộng đồng mơn mởn trải dài từ bờ sông Hương đến tận cầu Lim.nhỏ|Hồng Trạch môn, cổng chính dẫn vào trục tẩm thờ của Xương Lăng nhỏ|Phía trước điện Biểu Đức, lăng Thiệu Trị

Khu lăng mộ

trái|nhỏ|Sân chầu, Bi đình, và phía sau là lầu Đức Hinh. Phần lăng nằm ở bên phải, phía trước có hồ Nhuận Trạch (潤澤湖) hình bán nguyệt rộng 3.300m2. Hồ này thông với hồ điện ở trước khu tẩm qua một hệ thống cống ngầm và nối với hồ Ngưng Thúy (凝翠池) hình bán nguyệt rộng 7.600m2, bọc trước Bửu thành, tạo thế "chi huyền thủy" chảy quanh co trong lăng.

Ngay sau hồ Nhuận Trạch là Nghi môn bằng đồng đúc theo kiểu "long vân đồng trụ" dẫn vào sân chầu lát gạch Bát Tràng, với hai bên là thạch tượng sinh (voi, ngựa, quan văn, quan võ). Hai hàng tượng đá ở hai bên tả, hữu của sân là tiêu biểu của nghệ thuật tạc tượng đầu thế kỷ XIX ở Huế.

Tiếp theo là tòa Bi đình dạng phương đình, đặt trên nền đài cao 2,65m, cấu trúc gần giống với Bi đình lăng Minh Mạng, bên trong đặt tấm bia Thánh Đức Thần Công do vua Tự Đức soạn. Tiếp theo Bi đìnhĐức Hinh lâu (德馨樓) ngự trên một quả đồi thấp hình mai rùa, có kiến trúc tương tự như Minh Lâu ở lăng Minh Mạng. Lầu Đức Hinh hiện chỉ còn lại nền móng (mặt nền 18,5m x 18,5m), hai bên có 2 trụ biểu xây gạch.

Hồ Ngưng Thúy như vầng trăng xẻ nửa án ngữ trước Bửu thành. Bên trên hồ có 3 chiếc cầu: Đông Hòa (東和橋) nằm bên phải, Chánh Trung (正中橋) nằm ở giữa và Tây Định (西定橋) ở bên trái, dẫn đến bậc tam cấp vào Bửu thành - nơi đặt thi hài của nhà vua. Bửu thành hình tròn với chu vi 260m xây bằng gạch, có cửa bằng đồng, bên trong trồng thông um tùm, tương tự bửu thành lăng Minh Mạng.

Xa hơn về phía phải của lăng có Hiển Quang các (顯光閣) - nơi nghỉ ngơi, suy tưởng của nhà vua ở cả cõi âm lẫn cõi dương.

Khu tẩm thờ

Khu vực điện thờ được xây dựng cách lầu Đức Hinh 100m về phía trái. Mở đầu trục tẩm điển là bình phong xây gạch, tiếp đó là hồ bán nguyệt rộng 2.400m2.

Ngay sau hồ điện là Nghi môn bằng đá cẩm thạch, bên trên là những liên ba và một bầu Thái cực hình nậm rượu bằng pháp lam, trang trí hoa lá vui mắt và sinh động. Bức hoành phi nằm giữa những hoa văn trang trí với 4 chữ Hán: "Minh đức viễn hỷ" (Đức sáng cao xa vậy!) như muốn ghi mãi vào không trung tài đức của nhà vua. Tiếp theo sân tế với 3 tầng, lát gạch Bát Tràng, lối giữa lát đá Thanh.

Khu vực tẩm điện có tường thành hình chữ nhật bao bọc, trổ cửa 4 phía. Mặt trước là Hồng Trạch môn (鴻澤門) một dạng vọng lâu như Hiển Đức môn (ở lăng Minh Mạng) và Khiêm Cung môn (ở lăng Tự Đức sau này). Tiếp theo là điện Biểu Đức (表德殿), có mặt nền 23,4m x 21,5m, cấu trúc nhà kép gần như điện Sùng Ân (ở lăng Minh Mạng), là nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu Từ Dụ. Trong chính điện, trên những cổ diêm ở bộ mái và ở cửa Hồng Trạch, có hơn 450 ô chữ chạm khắc các bài thơ có giá trị về văn học và giáo dục. Các công trình phụ thuộc như Đông, Tây Phối điện (trước), Tả, Hữu Tòng viện (sau) quây quần chung quanh điện Biểu Đức càng tôn thêm vẻ cao quý của chính điện. Cổng sau kiểu cửa vòm xây gạch.

Bên kia hồ điện, hòn Bàu Hồ làm bình phong cho khu vực điện thờ, rừng thông xanh mướt làm la thành tự nhiên cho khu vực lăng.

Cụm di tích lân cận

Xương Thọ lăng

Bên trái phía sau là Xương Thọ lăng (昌壽陵) của thái hậu Từ Dụ (vợ vua Thiệu Trị). Cấu trúc lăng khá đơn giản. Phía trước có hồ bán nguyệt, sau là 3 tầng sân tế. Bửu thành gồm 2 lớp hình chữ nhật lồng vào nhau. Lần tường ngoài cao 3,6m, chu vi 89,4m; lần tường trong cao 2,65m, chu vi 60,5m; trước sau đều có bình phong che chắn, cánh cửa làm bằng đồng. Bửu phong xây kiểu thạch thất như lăng Gia Long.

Đầu những năm 1980, khu lăng mộ của bà Từ Dụ bị đào trộm, lấy đi nhiều báu vật, gây ảnh hưởng đến di tích. Năm 2023, thông qua Quỹ Bảo tồn di sản Huế, con cháu của bà Từ Dụ đã tài trợ hơn 6,9 tỉ đồng để trùng tu lăng mộ Hoàng thái hậu Từ Dụ. Công trình hoàn thành trùng tu vào năm 2024.

Hiếu Đông lăng

Chếch về phía trước lăng gần bờ sông Hương là Hiếu Đông lăng (孝東陵) của bà Hồ Thị Hoa (thân mẫu vua Thiệu Trị) xây trong giai đoạn 1841-1843. Bố cục chia thành các phần: khu ngoại lăng, khu nội lăng, khu tẩm phụ thuộc.

Khu nội lăng bắt đầu bằng hồ bán nguyệt (rộng hơn 2.000m2) nay đã khô cạn, rồi đến sân tế 3 bậc nền; sân tế lát gạch Bát Tràng (lối giữa lát đá Thanh); rồi đến Bửu thành. Bửu thành có 2 lớp bao bọc lấy Bửu phong ở trong; lớp tường ngoài dài 26m, rộng 20,7m, cao hơn 3m; tường trong dài 16m, rộng 13,8m, cao 2,6m. Bửu phong xây đá Thanh, kiểu thức như lăng Thiên Thọ, dài 4m, rộng 3,12m, cao 1,3m; phía trước có hương án bằng đá; trước sau đều có bình phong che chắn.

Khu ngoại lăng gồm: Bến Ngự là bến thuyền bên sông Hương; Ngự lộ (御路) là con đường đất rộng 3m dẫn vào lăng xuất phát từ bờ sông Hương, từng là con đường dùng để đưa thi hài vua Thiệu Trị vào an táng trong lăng, sau đó các vua đời sau dùng để đi vào lăng trong các dịp tế lễ hằng năm; 2 trụ biểu xây gạch cao 15m cách bửu thành khoảng 300m; Công Sở đài (公所台) là tòa nhà dành cho binh lính canh trực, rộng 5 gian, nay đã bị hủy hoại.

Các lăng mộ phụ thuộc có lăng cố Hoàng Nữ, lăng Tảo Thươnglăng Chư Công; đây là tẩm mộ của những người con của nhà vua bị chết khi còn nhỏ.nhỏ|Nền móng còn sót lại của lầu Đức Hinh, phía sau là Bửu thành

Quá trình trùng tu

Năm 2006, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VH-TT-DL) đã có quyết định phê duyệt dự án đầu tư bảo tồn, tu bổ và phát huy giá trị tổng thể di tích lăng vua Thiệu Trị thuộc quần thể di tích Cố đô Huế, với tổng kinh phí dự kiến 106 tỉ đồng, dự kiến hoàn thành vào năm 2010. Tuy nhiên đến năm 2010 chỉ có một công trình đang được trùng tu là điện Biểu Đức.

Năm 2013, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế khởi công trùng tu Tả Tòng viện, Hữu Tòng viện tại lăng vua Thiệu Trị với kinh phí hơn 22 tỷ đồng. Công trình này hoàn thành vào đầu năm 2016.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lăng Thiệu Trị** có tên chữ là **Xương Lăng** (昌陵) là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận
**Thiệu Trị** (chữ Hán: 紹治 16 tháng 6 năm 1807 – 4 tháng 11 năm 1847), húy là **Nguyễn Phúc Dung** (阮福曧), sau cải thành **Nguyễn Phúc Miên Tông** (阮福綿宗), là vị hoàng đế thứ
Lăng Hiếu Đông (孝東陵) là lăng mộ của Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa (1791-1807), vợ đầu của vua Minh Mạng, thân mẫu vua Thiệu Trị. Lăng nằm trong quần thể lăng Thiệu
**Lăng Xương Thọ** (chữ Nho: 昌壽陵) hay **lăng Từ Dụ** là lăng mộ của Nghi Thiên Chương Hoàng hậu Phạm Thị Hằng (1810-1901), hay còn gọi là Từ Dụ thái hậu, vợ của vua Thiệu
Combo Sách kỹ năng sống làm thay đổi cuộc đời bạn Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh Nói chuyện là bản năng, giữ miệng là tu dưỡng, im lặng là trí
Combo Sách kỹ năng sống làm thay đổi cuộc đời bạn Nóng giận là bản năng, tĩnh lặng là bản lĩnh Nói chuyện là bản năng, giữ miệng là tu dưỡng, im lặng là trí
**Nguyễn Thiệu Tri** (1442 - 1522) là Hộ bộ thượng thư thời Lê sơ, đỗ tiến sĩ vào năm 1478. Theo _Lịch triều hiến chương loại chí_, ông phẫn uất và qua đời vì con
**Hồ Thiệu Trị** là một kiến trúc sư nổi tiếng tại Việt Nam, ông sinh năm 1945 tại Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Ông tốt nghiệp trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn
**Nghi Thiên Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 儀天章皇后; 20 tháng 6 năm 1810 - 22 tháng 5 năm 1901) là thuỵ hiệu (được truy tôn sau khi qua đời) của một mệnh phụ nhà Nguyễn
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Việt Trì** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Thành phố Việt Trì là đô thị trung tâm của các tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ và là
**Lăng tẩm Huế** gồm những nơi dùng để an táng các vị vua, chúa cũng như hoàng tộc của những triều đại đã chọn Huế làm trung tâm quyền lực. Một phần nội thất [[Lăng
**Trì hoãn** (hay còn có những cách gọi khác với nghĩa tương tự là **tính chần chừ**, hay **thói lề mề**, **sự lần lữa**, **thói rề rà**, **ù lỳ** hay **đình trệ** hoặc là **dây
Lăng Thiên Thọ Hữu là lăng tẩm của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang (1769 - 1846), vợ thứ hai của vua Gia Long, mẹ vua Minh Mạng. Lăng cách khu tẩm điện
**Lăng Minh Mạng** (hay còn gọi là **Minh Mệnh**) có tên chữ là **Hiếu lăng** (孝陵), do hoàng đế Thiệu Trị thời nhà Nguyễn cho xây dựng, nằm trên núi Cẩm Kê, ấp An Bằng,
**Làng Đông Sơn** là một địa danh trở nên nổi tiếng vào giữa thập niên 1920 khi những di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Đông Sơn lần đầu tiên được phát hiện tại
**Lê Cao Lãng** (chữ Hán: 黎高朗; ? - ?), tự **Lệnh Phủ** (令甫), hiệu **Viên Trai** (圓齋); là một danh sĩ đời Gia Long trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Về tên ông,
**Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt** (tên chữ: **Thượng Công Miếu**, chữ Hán: 上公廟, tục gọi là **Lăng Ông - Bà Chiểu**) là khu đền và mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) hiện
Lăng Kiên Thái Vương tọa lạc trên một ngọn đồi kế bên lăng Đồng Khánh thuộc phường Thủy Xuân, phía Nam kinh thành Huế, là lăng tẩm của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai
**Lăng Trường Diên **(tên Hán 長延陵), tức lăng Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Lan (sinh ngày 13 tháng 8 năm 1601, mất ngày 19 tháng 3 năm 1648, là vị Chúa
**Lăng Cơ Thánh**, còn gọi là **lăng Sọ** là một lăng tẩm hoàng gia của nhà Nguyễn, là nơi chôn cất cha ruột của hoàng đế Gia Long. Lăng được xây dựng trên nền lăng
**Lăng Mông Sơ** (chữ Hán: 凌濛初, 18 tháng 6, 1580 – 21 tháng 2, 1644), tên tự là **Huyền Phòng**, hiệu **Sơ Thành**, biệt hiệu **Tức Không Quán chủ nhân**, người Ô Trình, Chiết Giang,
SERUM TRỊ MỤN CHUYÊN SÂU HERRIN - TRỊ MỤN 24H HERRIN Đây là dòng sản phẩm trị mụn phục hồi tuyệt vời nhất mà shop từng biết đến, phục hồi nhanh và sạch mụn tận
** Làng cổ Long Tuyền** là một làng cổ ở Nam Bộ thuộc phường Long Tuyền, thành phố Cần Thơ, Việt Nam. ## Nguồn gốc Trước khi thành lập tỉnh Cần Thơ, trên bản đồ
:_Bài này viết về một môn võ thuật có nguồn gốc từ Trung Hoa. Các nghĩa khác về Thiếu Lâm khác được liệt kê tại Thiếu Lâm (định hướng)_ :_Xem thêm Thiếu Lâm thất thập
**Tam thiếu** (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo) là chức đứng sau Tam Thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo),; Thái úy; Thiếu úy; Nội ngoại hành điện đô tri sự (内外行殿都知事); Kiểm hiệu Bình
**Quảng Trị** là tỉnh ven biển gần cực nam của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, tỉnh Quảng Trị mới là sáp
**Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh**, còn gọi là **Lăng Hồ Chủ tịch**, **Lăng Bác**, là nơi gìn giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng được chính thức khởi công ngày 2 tháng
**Viên Thiệu** (chữ Hán: 袁紹; 154 - 28 tháng 6 năm 202), tên tự là **Bản Sơ** (本初), là một tướng lĩnh nhà Đông Hán và lãnh chúa quân phiệt vào đầu thời Tam Quốc
:thế=Sư trưởng Hà Dũng - Cao đồ của cụ Hà Châu biểu diễn Quan Âm chưởng; chặt bể gạch tuynel.|nhỏ|220x220px|Sư trưởng Hà Dũng - Cao đồ của cụ [[Hà Châu biểu diễn Quan Âm chưởng;
**Tự Đức** ( 22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là **Nguyễn Phúc Hồng Nhậm** (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành **Nguyễn Phúc Thì** (阮福時), là vị hoàng đế
**Chiến dịch Trị Thiên** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè
**Thiệu Trọng Hành** (; Tiếng Anh: **David Siu**) (sinh ngày 24 tháng 2 năm 1964) là một diễn viên truyền hình nổi tiếng của Hồng Kông trong những năm 1990. Anh là nam nghệ sĩ
**Pháp lam** (hay **đồ đồng tráng men**) là những sản phẩm được làm bằng đồng hoặc hợp kim đồng, trên bề mặt được tráng men trang trí để tăng giá trị thẩm mỹ. Bài viết
**Thi Lang** (, 1621 – 1696) tự là **Tôn Hầu**, hiệu là **Trác Công**, người thôn Nha Khẩu trấn Long Hồ huyện Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc, là danh tướng thời kỳ cuối
**Nguyễn Thị Nhậm** (về sau được đọc trại thành **Nhiệm**) (chữ Hán: 阮氏任; ? – ?), phong hiệu **Nhất giai Lệnh phi** (一階令妃), là một cung phi của vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch
**Vụ án cưỡng chế đất đai tại Tiên Lãng** là vụ án về tranh chấp đất đai giữa ông Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc, Vinh Quang cùng gia đình và Ủy ban nhân dân
**_Song lang_** là một bộ phim điện ảnh chính kịch âm nhạc của Việt Nam năm 2018 do Leon Lê đạo diễn kiêm dựng phim, đồng thời cũng là tác phẩm điện ảnh đầu tay
**Lăng Trường Thiệu** (tên Hán 長紹陵), tức lăng Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Thuần (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1754, mất ngày 1 tháng năm 1777), là vị Chúa thứ
**Mạc Thiếu Thông**, tên tiếng Anh là **Max Mok** hay **Benny Mok**, có biệt danh là **Đại Nhãn Tử** là một nam diễn viên kiêm ca sĩ người Hồng Kông trong thập niên 80 và
**Hải Lăng** (chữ Hán phồn thể: 海陵區, chữ Hán giản thể:海陵区) là một quận thuộc địa cấp thị Thái Châu, tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận Hải Lăng có diện tích
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**_Chuyện xứ Lang Biang_** là một bộ truyện dài gồm 4 phần (phát hành 28 tập) của nhà văn viết cho thiếu nhi nổi tiếng Nguyễn Nhật Ánh, được xuất bản những tập đầu tiên
**Thanh Thế Tổ** (chữ Hán: 清世祖; 15 tháng 3 năm 1638 – 5 tháng 2 năm 1661), họ Ái Tân Giác La, húy **Phúc Lâm**, là hoàng đế thứ hai của nhà Thanh và là hoàng
**Vườn Thiệu Phương** hay **Thiệu Phương viên** (chữ Hán: 紹芳園) là một vườn ngự uyển nằm trong Tử Cấm Thành, Hoàng thành Huế. Vườn Thiệu Phương là một trong bốn vườn Ngự uyển trong Hoàng
Đặng Lưu sinh năm Nhâm Dần (1842) thời Thiệu Trị, trong một gia đình nho học, từ người cha là một nho sĩ cáo quan về mở trường dạy học và làm thuốc chữa bệnh,
**Hành lang Kinh tế Trung Quốc–Pakistan** (tiếng Anh: _China–Pakistan Economic Corridor_, CPEC) là một loạt các dự án cơ sở hạ tầng đang được xây dựng trên khắp Pakistan kể từ năm 2013, dưới sự
**Làng** (chữ Nôm: 廊) là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ chức xã hội quan trọng của nông thôn ở Việt Nam. Suốt nhiều thế kỷ, làng là đơn vị tụ
**Trận Thành cổ Quảng Trị** () là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam với Quân đội
**Vương Lãng** (chữ Hán: 王朗, bính âm: Wang Lang; ?-228) tự là **Cảnh Hưng** là tướng cuối thời Đông Hán, công thần khai quốc nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.