✨Lăng Minh Mạng

Lăng Minh Mạng

Lăng Minh Mạng (hay còn gọi là Minh Mệnh) có tên chữ là Hiếu lăng (孝陵), do hoàng đế Thiệu Trị thời nhà Nguyễn cho xây dựng, nằm trên núi Cẩm Kê, ấp An Bằng, phường Long Hồ, quận Phú Xuân, thành phố Huế, gần ngã ba Bằng Lãng là nơi hội lưu của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế 12 km. Lăng Minh Mạng được xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 thì hoàn thành, huy động tới mười nghìn thợ và lính.

Lịch sử

trái|nhỏ|[[Minh Mạng, vị vua thứ nhì của triều Nguyễn]] Toàn cảnh lăng nhìn từ trên không, hình chụp vào đầu thế kỷ 20 Tháng 2 năm 1820, vua Gia Long qua đời, hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm được đưa lên ngai vàng, lấy niên hiệu là Minh Mệnh (hay Minh Mạng) . Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình.

Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng.

Nhưng phải ròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên.

Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu lăng bắt đầu. Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc.

Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào ngày 28 tháng Chạp năm Canh Tý (tức 20-01-1841).

Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại.

Ngày 20-8-1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào an táng ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất. Từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động và óc sáng tạo của con người đã hình thành một khu lăng tẩm uy nghiêm, vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với thiên nhiên lại vừa sâu sắc bởi giá trị tư tưởng.

Kiến trúc

thumb|Mặt bằng tổng thể lăng của Hoàng đế Minh Mạng

thumb|Đại Hồng Môn, cổng chính dẫn vào lăng Minh Mạng thumb| Bi đình ở lăng Minh Mạng, [[Huế.|alt=]] thumb|Hiển Đức môn|trái trái|nhỏ|Điện Sùng Ân nhỏ|Hoằng Trạch Môn Lăng có diện tích 18 ha (nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành dài 1.750 m bao bọc. Từ ngoài vào trong, là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên ba trục song song với nhau mà Thần đạo là trục trung tâm dài hơn 700m. Trên mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm này. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước ngát hương sen và những quả đồi phủ mượt bóng thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu tình vừa ngoạn mục. Bố cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh... làm cho toàn bộ quần thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và duyên dáng tráng lệ. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên.

Khu Bi đình

Mở đầu trục Thần đạo là Đại Hồng môn (大紅門), cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn 9 m, rộng 12 m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án trang trí cá chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn.

Sau Đại Hồng Môn là Bái đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45 x 45 m), hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu.

Cuối sân là Bi đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn, bên trong có bia "Thánh đức thần công" bằng đá Thanh ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Một khoảng sân rộng tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ.nhỏ|Minh lâu|trái

Khu tẩm thờ

nhỏ|Cầu Thông Minh Chính Trực bắc qua hồ Tân Nguyệt dẫn đến Bửu thành|tráiKhu tẩm thờ nằm trong vòng tường thành kép kín hình vuông, trổ cửa 4 mặt. Cổng chính của khu tẩm là Hiển Đức môn (顯德門), là cổng tam quan bằng gỗ, có cổ lâu.

Trung tâm khu tẩm là điện Sùng Ân (崇恩殿), phía trước hai bên có Đông, Tây Phối điện (東西陪殿) và phía sau Tả, Hữu Tòng viện (左右從院). Điện Sùng Ân làm kiểu nhà kép (mặt nền 23,45m x 22,05m), bên trong thờ bài vị của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu.

Hoằng Trạch môn (弘澤門) có kiểu cửa vòm xây bằng gạch, là công trình kết thúc khu vực tẩm điện. Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như dừng lại ở khu vực tẩm điện.

Hồ Trừng Minh (澄明湖) gồm hai nửa nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống như hai lá "phổi xanh", bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc khu tẩm điện trên trục thần đạo.

Khu lăng mộ

Tiếp sau khu tẩm điện, bắt đầu một thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và vô biên. 17 bậc thềm đá Thanh đưa du khách vào khoảng trời xanh mát bóng cây và ngát thơm mùi hoa dại. Ba chiếc cầu: Tả Phù (左輔橋), Trung Đạo (中道橋) và Hữu Bật (右弼橋) bắc qua hồ Trừng Minh nối đến Minh lâu (明樓), một tòa nhà hai tầng đặt trên ngọn đồi đắp 3 tầng, gọi là Tam Tài Sơn (三才山). Minh lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát, là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu hạn; là "bộ ngực kiêu hãnh" của "con người" được ví bởi hình dáng của khu lăng. Minh Lâu là sự thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông. Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình SơnThành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã "bình thành công đức" trước khi về cõi vĩnh hằng.

Tiếp đến hồ Tân Nguyệt (新月湖) hình trăng non ôm lấy Bửu thành. Đây là hình ảnh của thế giới vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố "Âm" bao bọc, che chở cho yếu tố "Dương" là Bửu thành - biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố tác thành vũ trụ.

Cầu Thông Minh Chính Trực (通明正直橋) bắc ngang hồ Tân Nguyệt và tiếp đến là 33 bậc tầng cấp dẫn vào nơi yên nghỉ của nhà vua, nằm giữa tâm đồi thông có tên là Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu thành (寶城) hình tròn, có vòng tường xây gạch, cao 3,5m, chu vi 273m. Bên dưới là Huyền cung (玄宮) xây ngầm trong lòng đất. Phía sau Bửu thành là rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch.

Các công trình phụ

Đối xứng qua trục Thần đạo về bên trái, mở đầu là Tả Hồng môn (左紅門), sau đó là các công trình nằm rải dọc ven hồ Trừng Minh (澄明湖), như Truy Tư trai (追思齋); Quan Lan sở (關蘭所) nằm trên ngọn đồi gọi là Đạo Thống Sơn là nơi dành cho vua hóng mát, ngắm cảnh hồ Trừng Minh; Linh Phương các (靈芳閣) nằm trên đồi Khải Trạch Sơn; Tả Tùng Phòng (左從房) và Nghênh Lương quán (迎涼館).

Bên phải trục Thần đạo, mở đầu là Hữu Hồng môn (右紅門), rồi đến Hư Hoài tạ (虛懷榭) nằm trên Trấn Thủy Đảo; Thần khố (神庫) là nhà kho cất giữ đồ dùng trong việc cúng tế; Hữu Tùng phòng (右從房); Tuần Lộc hiên (馴鹿軒) nằm trên Đức Hóa Sơn và Điếu Ngư đình (釣魚亭).

Hầu hết các công trình ở hai trục tả, hữu này đã bị đổ nát, nay chỉ còn nền móng.

Bên cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao còn có gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi đình, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân và Minh lâu cũng là những tuyệt tác vô giá. Đó là một "bảo tàng thơ" chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.

Tình trạng

Kiến trúc lăng có phần đổ nát nhưng mức độ nhẹ hơn so với số phận của những lăng khác, một phần nhờ vào việc lăng có giá trị về nhiều mặt.

Những cây Sứ nhiều năm tuổi cộng với vẻ hoang toàn mặc cho rêu phong theo chủ ý của Ban bảo vệ di tích cố đô Huế và quy tắc bắt buộc của UNESCO nhằm không trùng tu các di sản cố ý để tạo nét nguyên sơ làm cho di tích càng có giá trị. Hiện nay lăng thu hút du khách đông nhất sau Lăng Tự Đức.

Hình ảnh

Tập tin:Lăng Minh Mạng-001.JPG|Tượng quan chầu trên Bái đình Tập tin:Bia đá ở Lăng Minh Mạng.JPG|Bia đá ở Bi đình Tập tin:Lăng Minh Mạng-022.JPG|Án thờ bên trong điện Sùng Ân Tập tin:Hue Vietnam Tomb-of-Emperor-Minh-Mang-03.jpg|Phía trước điện Sùng Ân Tập tin:Hồ nước trước Lăng Minh Mạng.JPG|Hồ nước Trước Lăng Minh Mạng Tập tin:Trụ biểu Lăng Minh Mạng (trái).JPG|Trụ biểu lăng Minh Mạng
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lăng Minh Mạng** (hay còn gọi là **Minh Mệnh**) có tên chữ là **Hiếu lăng** (孝陵), do hoàng đế Thiệu Trị thời nhà Nguyễn cho xây dựng, nằm trên núi Cẩm Kê, ấp An Bằng,
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
Hoàng đế **Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (明命, 25 tháng 5 năm 1791 - 20 tháng 1 năm 1841), là con trai thứ tư của Hoàng đế Gia Long và là vị vua thứ hai
**Lăng Thiệu Trị** có tên chữ là **Xương Lăng** (昌陵) là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. Đây là một di tích trong Quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận
Lăng Hiếu Đông (孝東陵) là lăng mộ của Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa (1791-1807), vợ đầu của vua Minh Mạng, thân mẫu vua Thiệu Trị. Lăng nằm trong quần thể lăng Thiệu
nhỏ|Tranh tường ở [[cung An Định, bên trái là Chấp Khiêm điện, ở giữa là Di Khiêm lâu và bên trái là cổng vào lăng mộ vua Kiến Phúc. ]] **Lăng Kiến Phúc,** hay **Bồi
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
**Lăng Gia Long ** hay **Thiên Thọ Lăng** (天授陵), là lăng tẩm của hoàng đế Gia Long (1762–1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng
Lăng Thiên Thọ Hữu là lăng tẩm của Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang (1769 - 1846), vợ thứ hai của vua Gia Long, mẹ vua Minh Mạng. Lăng cách khu tẩm điện
**Làng Cót** hay **Kẻ Cót** là tên Nôm của hai làng Yên Quyết có từ lâu đời, là Thượng Yên Quyết (ở phía Bắc) và Hạ Yên Quyết (ở phía Nam), đều nằm bên bờ
**Lăng Cơ Thánh**, còn gọi là **lăng Sọ** là một lăng tẩm hoàng gia của nhà Nguyễn, là nơi chôn cất cha ruột của hoàng đế Gia Long. Lăng được xây dựng trên nền lăng
nhỏ|[[Chợ Bến Thành về đêm, nơi đây là biểu tượng không chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Thành phố Hồ Chí Minh **là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi
Đình Minh Hương Gia Thạnh tại [[quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh]] **Đình Minh Hương Gia Thạnh** (tên chính thức: 明鄉嘉盛會館, Minh Hương Gia Thạnh Hội Quán) do người Hoa sang định cư, rồi
**Lăng Trường Diên **(tên Hán 長延陵), tức lăng Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Lan (sinh ngày 13 tháng 8 năm 1601, mất ngày 19 tháng 3 năm 1648, là vị Chúa
**Hội quán Ôn Lăng** (chữ Hán: 溫陵會館, hay Ôn Lăng hội quán) còn được gọi là **chùa Ôn Lăng**, **chùa Quan Âm** hay **chùa Ông Lào**; là một ngôi chùa của người Việt gốc Hoa,
**Lăng Tả quân Lê Văn Duyệt** (tên chữ: **Thượng Công Miếu**, chữ Hán: 上公廟, tục gọi là **Lăng Ông - Bà Chiểu**) là khu đền và mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) hiện
**Lăng tẩm Huế** gồm những nơi dùng để an táng các vị vua, chúa cũng như hoàng tộc của những triều đại đã chọn Huế làm trung tâm quyền lực. Một phần nội thất [[Lăng
**Hành Thiện** (行善) là tên một làng cổ, nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đây là một trong những ngôi làng cổ nổi tiếng có truyền thống văn hóa được
thumb|Lăng [[Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm trong Làng cổ Đường Lâm, thuộc thị xã Sơn Tây (Hà Nội, Việt Nam).]] **Lăng Ngô Quyền** (898 - 944) hay **Tiền Ngô Vương Lăng** (前吳王陵) là quần
thumb|Cổng vào làng gốm Bàu Trúc Các sản phẩm gốm Bàu Trúc đang phơi **Làng gốm Bàu Trúc** (tiếng Chăm: _Paley Hamu Trok_) thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
**Trương Minh Giảng** (chữ Hán: 張明講; 1792-1841) là một danh thần nhà Nguyễn. Ông được đánh giá là một người "văn võ song toàn", là công thần bậc nhất của nhà Nguyễn, vừa là một
nhỏ|Chân dung [[Chủ tịch Hồ Chí Minh]] **Tư tưởng Hồ Chí Minh** là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng
**Cách mạng Hồi giáo** (hay còn được biết với tên **Cách mạng Iran** hoặc **Cách mạng Hồi giáo Iran**, Tiếng Ba Tư: , _Enghelābe Eslāmi_) là cuộc cách mạng đã biến Iran từ một chế
**Thiệu Trị** (chữ Hán: 紹治 16 tháng 6 năm 1807 – 4 tháng 11 năm 1847), húy là **Nguyễn Phúc Dung** (阮福曧), sau cải thành **Nguyễn Phúc Miên Tông** (阮福綿宗), là vị hoàng đế thứ
**Phương tiện truyền thông mạng xã hội** (tiếng Anh: _social media_) là các ứng dụng hoặc chương trình được xây dựng dựa trên nền tảng Internet, nhằm tạo điều kiện cho việc tạo mới hoặc
**Dịch vụ mạng xã hội** (tiếng Anh: **social networking service** – **SNS**) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác nhau không
**Cách mạng Cuba** (tiếng Tây Ban Nha: Revolución cubana) là một cuộc nổi dậy vũ trang được lãnh đạo bởi đảng cách mạng _Phong trào 26 tháng 7_ (viết tắt M-26-7) của Fidel Castro và
Mô hình [[động cơ hơi nước của James Watt. Sự phát triển máy hơi nước khơi mào cho cuộc cách mạng công nghiệp Anh.]] **Cuộc cách mạng công nghiệp** hay còn gọi là **Cách mạng
nhỏ|Lược đồ khu vực [[Lưỡi liềm Màu mỡ khoảng năm 7500 trước Công nguyên với các di chỉ đồ đá mới Tiền đồ gốm được tô đỏ.]] **Cách mạng Đá mới** () hay **Cách mạng
**Tiền đề của Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga** - một tập hợp phức tạp các biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa trong và ngoài nước có mối
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
[[Caspar David Friedrich, _Kẻ lãng du trên biển sương mù,_ 38.58 × 29.13 inches, 1818, tranh sơn dầu, Kunsthalle Hamburg]] [[Eugène Delacroix, _Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân_ 1830]] Théodore Géricault, _[[Chiếc bè
**Cách mạng 1989**, hay còn được gọi là **Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu** (còn được gọi bằng nhiều tên gọi khác như là **Mùa
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
thumb|Nguyên bản của [[Quốc kì Đức: Cổ vũ cho cuộc cách mạng ở Berlin, ngày 19 tháng 3, 1848]] **Cách mạng 1848 – 1849** tại các bang nói tiếng Đức, giai đoạn mở đầu còn
**Văn minh Maya** là một nền văn minh Trung Bộ châu Mỹ của người Maya, nổi bật với hệ chữ tượng hình ký âm—hệ chữ viết tinh vi bậc nhất ở Châu Mỹ thời tiền
**Hồ Chí Minh**, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, vị chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), sinh ra trong
**Chiến tranh Cách mạng Mỹ** (1775 - 1783), còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Mỹ**, là một cuộc chiến vào thế kỷ 18 giữa Vương quốc Đại Anh và Mười ba xứ
**Bình Minh** là một thị xã thuộc tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam. ## Địa lý Thị xã Bình Minh nằm ở phía tây nam của tỉnh Vĩnh Long, nằm cách thành phố Vĩnh Long khoảng
**Cách mạng Tân Hợi** () còn được gọi là **Cách mạng Trung Quốc** hay **Cách mạng năm 1911** là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc do những người trí
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Tùng Thiện vương** (chữ Hán: 從善王, 11 tháng 12 năm 1819 – 30 tháng 4 năm 1870), biểu tự **Trọng Uyên** (仲淵), lại có tự khác là **Thận Minh** (慎明), hiệu **Thương Sơn** (倉山), biệt
Một nông dân [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập cổ đang cày ruộng bằng cày có bò kéo]] nhỏ|300x300px|[[Ai Cập cổ đại là một ví dụ điển hình của một nền văn hóa sơ khai được
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Cách mạng Dân tộc Indonesia** hoặc **Chiến tranh Độc lập Indonesia** là một xung đột vũ trang và đấu tranh ngoại giao giữa Indonesia và Đế quốc Hà Lan, và một cách mạng xã hội
nhỏ|Marketing qua mạng xã hội. **Marketing qua mạng xã hội** hay còn gọi với thuật ngữ _social media marketing_, là hình thức thực hiện các hoạt động marketing trên mạng internet thông qua việc sử
thumb|Những sinh viên tại Praha biểu tình (với [[Václav Havel ở giữa) kỷ niệm ngày Sinh viên Quốc tế, ngày 17 tháng 11 năm 1989]] nhỏ|Người dân Praha biểu tình tại Quảng trường Wenceslas trong
**Tá Thiên Nhân hoàng hậu** (chữ Hán: 佐天仁皇后, 1791 - 29 tháng 6 năm 1807), tên thật **Hồ Thị Hoa** (胡氏華) hoặc **Hồ Thị Thật** (胡氏實), là vợ đầu của Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng,