✨Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh

nhỏ|Chân dung [[Chủ tịch Hồ Chí Minh]] Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn với các thời kì hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế vào đầu và giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý tưởng cộng sản Marx - Lenin, tư tưởng văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây và phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam cùng các quan điểm chính thống ở Việt Nam hiện nay đều thống nhất đánh giá Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và coi tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở tất cả các tầng lớp trong xã hội.

Phần lớn các giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh không phân tích các quan điểm của ông theo các thời kỳ lịch sử, không phân tích cụ thể các tác phẩm của ông theo chiều thời gian. Điển hình như năm 1930 khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ông cho rằng đấu tranh giải phóng dân tộc đi kèm đấu tranh giải phóng giai cấp. Khi thành lập Việt Minh thì gác lại chủ trương đấu tranh giai cấp mà thực hiện đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ và đoàn kết toàn dân chống phát xít theo đường lối Quốc tế Cộng sản (chủ trương này khá trùng lặp với đường lối của Nguyễn Văn Cừ khi làm Tổng bí thư). Đến giai đoạn năm 1945, khi cần tranh thủ sự ủng hộ của Đồng Minh cho nền độc lập của Việt Nam, ông tuyên bố "giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương" và tán dương nền dân chủ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ chính thức đưa vào Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991, sau khi công cuộc Đổi mới phát động, chấp thuận phân hóa giai cấp, nhiều lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin không có tính khả thi trong cơ chế thị trường phải gác lại như đạo đức xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, làm theo năng lực hưởng theo lao động trên toàn xã hội... (chủ nghĩa cộng sản đặt ra mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ giai cấp, bóc lột, xóa bỏ giàu - nghèo, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, công hữu trên nền tảng dân chủ, xóa bỏ giáo điều tôn giáo được xem là mị dân, xóa bỏ nhà nước đi đến dân chủ trực tiếp và bình đẳng, xóa bỏ các đường biên giới quốc gia, đưa các dân tộc đến cùng một lợi ích, xóa bỏ bất bình đẳng giữa các dân tộc trên phạm vi thế giới...). Các giáo trình của Việt Nam thường khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh theo chiều hướng trên.

Hoàn cảnh ra đời

Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, không mở ra cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Không phát huy được những thế mạnh của truyền thống dân tộc và đất nước, không chống lại được âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858 và đến năm 1883, triều đình Huế ký kết Hiệp ước Harmand với đế quốc Pháp, thừa nhận quyền bảo hộ của họ trên khắp An Nam. Từ sau Hiệp ước Patenôtre năm 1884, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Trong suốt quá trình thực dân Pháp cai trị, từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống thực dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu "Cần vương" do các văn thân, sĩ phu lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang này mang đậm tinh thần yêu nước và đầy dũng khí trước quân thù, nhưng đều dưới sự dẫn dắt của các tư tưởng phong kiến và tư sản và đều thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào cuộc khủng khoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa giai cấp-xã hội sâu sắc. Tạo tiền đề bên trong cho phong trào đấu tranh giải phóng đân tộc đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam tồn tại nhiều mâu thuẫn. Có thể kể ra các mâu thuẫn chính sau:

  • Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp.
  • Mâu thuẫn giữa người dân lao động và quan lại phong kiến.
  • Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp tư sản.

Đầu thế kỷ XX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả nước nhưng đều thất bại (chủ trương cầu viện, dùng vũ trang khôi phục độc lập của Phan Bội Châu; chủ trương "ỷ Pháp cầu tiến bộ" bằng cách chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh, trên cơ sở đó mà dần dần tính chuyện giải phóng của Phan Châu Trinh; khởi nghĩa nặng cốt cách phong kiến của Hoàng Hoa Thám; khởi nghĩa theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản của Nguyễn Thái Học).

Sự thất bại của phong trào chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vừa chứng tỏ sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến, sự yếu ớt và bất lực của hệ tư tưởng tư sản, vừa từng bước chuẩn bị tiền đề cho một phương hướng mới của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Theo Tạp chí Cộng sản, những điều này cho thấy, phong trào cứu nước của nhân dân Việt Nam muốn đi đến thắng lợi, phải đi theo con đường mới, đó là con đường cách mạng vô sản.

Thế giới

Thế giới trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cũng đang có những biến chuyển to lớn:

  • Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, xác lập quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc với bản chất của mình đã trở thành kẻ thù chung của tất cả các dân tộc thuộc địa.
  • Thực tế lịch sử: trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân, tại các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, sự bóc lột phong kiến trước kia vẫn được duy trì bên cạnh sự bóc lột thuộc địa mang tính tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các giai cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó có công nhân và tư sản.
  • Chiến tranh Thế giới I bùng nổ.

Nguồn gốc

Truyền thống dân tộc Việt Nam

Chủ nghĩa yêu nước với ý chí bất khuất, tự lực, tự cường để dựng nước và giữ nước tồn tại trong suốt lịch sử của dân tộc. Đồng thời, trong quá trình dựng nước, giữ nước, tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ cũng xuất hiện. Tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ làm cho mối quan hệ Cá nhân - Gia đình - Làng - Nước ngày càng trở nên bền chặt và nương tựa vào nhau để sinh tồn và phát triển. Giá trị truyền thống của người Việt là dũng cảm, cần cù, dẻo dai trong lao động sản xuất, chiến đấu để sinh tồn và phát triển trước thiên nhiên và kẻ thù xâm lược. Nhưng đồng thời, trong quá trình đó, dân tộc Việt Nam cũng tiếp nhận những giá trị văn hóa, văn minh của nhân loại. Người Việt có tư duy mở và mềm dẻo khiến họ dễ dàng tiếp nhận những tư tưởng bên ngoài. Trong khi là đảng viên Đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Lenin với mục tiêu giải phóng dân tộc trong lúc nhiều đồng chí Pháp của ông chọn con đường dân chủ xã hội với chủ trương cải cách xã hội nhưng chấp nhận nền dân chủ. Chủ nghĩa yêu nước là điểm xuất phát, là cơ sở để Hồ Chí Minh tiếp nhận chủ nghĩa Marx - Lenin; là một trong những nguồn gốc chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Khi học ở trường tiểu học Vinh và Huế, những tư tưởng tiến bộ của Đại cách mạng Pháp về “tự do, bình đẳng, bác ái” đã bắt đầu ảnh hưởng mạnh mẽ đến ông và là một trong những yếu tố tác động đến ông trong việc tìm hướng đi mới sang phương Tây để tìm đường cứu nước, cứu dân.

Ba mươi năm sống, lao động, học tập và hoạt động ở nước ngoài, đặc biệt là trong môi trường văn hóa phương Tây, ông đã có điều kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải nghiệm qua các hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội ở đây; đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng của các nhà khai sáng (Voltaire, Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu..) qua các tác phẩm của họ. Ông đã tới Pháp, Mỹ, Anh và trực tiếp thấy được đời sống xã hội tại những nơi khởi nguồn của ba cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ điển hình trên thế giới. Tư tưởng cách mạng tiến bộ của các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ tới Hồ Chí Minh. Đó là những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa dân tộc và nhân văn trong cách mạng tư sản Mỹ và Pháp với quyền dân tộc, quyền con người và tư tưởng dân chủ mà nội dung của nó là tự do, bình đẳng, bác ái. Đây là những điểm mới về tư tưởng trong tinh hoa văn hóa phương Tây đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ, hành động và tư tưởng của Hồ Chí Minh. Sống trong môi trường dân chủ và thông qua các hoạt động dân chủ trong làm việc, sinh hoạt ở các tổ chức lao động, xã hội và chính trị ở phương Tây, Hồ Chí Minh đã hiểu được các phương thức tổ chức xã hội dân chủ, cách làm việc dân chủ và hình thành phong cách dân chủ.

Chủ nghĩa Marx - Lenin

Hồ Chí Minh đã tiếp thu học thuyết giải phóng con người là chủ nghĩa Marx - Lenin. Khi tiếp nhận chủ nghĩa Marx - Lenin, ông từ người yêu nước trở thành người cộng sản khi trở thành người tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp.

Đến với chủ nghĩa Marx - Lenin từ đòi hỏi của thực tiễn giải phóng dân tộc và con người, từ nhu cầu chung của nhân loại về quyền dân tộc, quyền con người, Hồ Chí Minh đã vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Marx - Lenin để nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và thế giới và tự tìm ra con đường của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, chủ nghĩa Marx - Lenin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu có vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng chủ nghĩa Marx - Lenin trong hoàn cảnh của Việt Nam.

Cơ sở thực tiễn

Ở Việt Nam

Việt Nam có lịch sử và văn hiến lâu đời với truyền thống chống giặc ngoại xâm nhưng đến thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một quốc gia lạc hậu, kém phát triển. Đến giữa thế kỷ XIX, trước sự suy yếu của chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Sau khi đã hoàn thành về căn bản công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam cũng như ở Lào và Campuchia một cách quy mô và từng bước biến Việt Nam từ một nước phong kiến thành nước thuộc địa, nửa phong kiến với những biến đổi căn bản về chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội. Sự biến đổi đó làm xuất hiện trong xã hội Việt Nam những giai tầng mới với sự ra đời của giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản. Theo đó, bên cạnh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến là giữa nông dân với địa chủ phong kiến, sự xuất hiện các giai tầng mới đã làm nảy sinh thêm các mâu thuẫn mới: giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp.

Trước các biến đổi trên, phong trào cách mạng Việt Nam cũng từng bước có những phát triển mới đó là sự xuất hiện của phong trào yêu nước mới và phong trào công nhân ở Việt Nam.

Đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách ở Trung Quốc của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, gương Duy Tân của Nhật Bản, cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, phong trào yêu nước của Việt Nam chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Điển hình như các phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân, phong trào Đông kinh nghĩa thục... Nhưng tất cả những cố gắng cứu nước của trào lưu mới này ở Việt Nam đều bị thất bại bởi sự đàn áp của thực dân Pháp. Trường Đông kinh nghĩa thục bị đóng cửa (12-1907), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ bị đàn áp (1908); vụ Hà Thành đầu độc thất bại (6-1908). Phong trào Đông Du bị tan rã, Phan Bội Châu và các đồng chí bị trục xuất khỏi nước Nhật (2-1909). Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ bị đàn áp, các thủ lĩnh như Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi bị lên máy chém... Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn bị đày ra Côn Đảo... Dù thất bại nhưng các phong trào yêu nước này đã nối tiếp nhau duy trì ngọn lửa cứu nước tiếp tục cháy trong lòng dân tộc.

Cùng với phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân, sự ra đời và phong trào đấu tranh của giai cấp mới là giai cấp công nhân Việt Nam sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã làm cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam thêm những yếu tố mới. Đặc biệt, từ đầu những năm hai mươi của thế kỷ XX, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng đông lại chịu tác động của phong trào cách mạng thế giới đã làm phong trào đấu tranh mang đặc trưng riêng của giai cấp công nhân càng được thể hiện rõ nét. Đây là nguồn gốc thực tiễn xã hội cực kỳ quan trọng cho sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Như vậy, phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam là cơ sở thực tiễn trong nước cho sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trên thế giới

Vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền - giai đoạn đế quốc chủ nghĩa - đã chuyển từ mở thị trường buôn bán sang việc các nước đế quốc tiến hành tranh giành, đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa, nhằm khai thác nguyên liệu, bóc lột và nô dịch các dân tộc ở hầu hết các nước Á, Phi và Mỹ-latinh. Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn giữa các nước tư bản, đế quốc với nhau và làm nảy sinh mâu thuẫn giữa nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Yêu cầu giải phóng, đem lại độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi riêng của các dân tộc thuộc địa mà còn là yêu cầu chung của các dân tộc đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.    

Các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, chủ yếu là do tranh giành thị trường giữa các nước đế quốc, đã dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ nhất (8-1914 đến 11-1918) nhằm chia lại các khu vực ảnh hưởng làm xuất hiện phong trào của nhân dân thế giới đầu tranh đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh đế quốc và đó cũng là một trong những nguyên nhân bùng nổ Cách mạng Tháng Mười Nga. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, đã mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi quốc tế, đã cổ vũ và thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười, sự ra đời của nhà nước Xô viết, phong trào cách mạng thế giới của giai cấp công nhân phát triển với sự ra đời và dẫn dắt của Quốc tế III cũng như phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới là những nguồn gốc thực tiễn quốc tế cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Quá trình hình thành và phát triển

Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Hồ Chí Minh.

Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương nòi (trước năm 1911): thời kỳ này Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ham muốn học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại.

Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921 - 1930): thời kỳ này Hồ Chí Minh đã có hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi, phong phú ở Pháp (1921-1923), ở Liên Xô (1923-1924), ở Trung Quốc (1924-1927), ở Thái Lan (1928-1929)... Trong thời gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản. Hồ Chí Minh đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận, kết hợp với tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc và vận động tổ chức quần chúng đấu tranh, xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tác phẩm và bài viết của Hồ Chí Minh thời kỳ này đã thể hiện những quan điểm lớn về con đường cách mạng Việt Nam, có thể kể tên các tác phẩm như: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách mệnh (1927) và những bài viết khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận trung tâm của chuyên ngành "Hồ Chí Minh học" thuộc ngành Khoa học chính trị Việt Nam. Hồ Chí Minh đã xây dựng được hệ thống lý luận toàn diện về cách mạng Việt Nam phù hợp với thực tiễn của đất nước và dòng chảy thời đại. Hệ thống đó bao gồm một số nội dung cơ bản sau:

Nghiên cứu, giảng dạy và học tập

nhỏ|Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản

Hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra năm 1991 tại Hà Nội đã xác định: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Từ đây Tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa vào giảng dạy trong tất cả trường đại học như một bộ môn bắt buộc đối với tất cả các sinh viên thuộc mọi ngành học. Những lớp tập huấn - đồng thời thảo luận giữa các chuyên gia - chính thức cho môn học này bắt đầu từ năm 1997 tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Các nhà nghiên cứu trong nước và những đồng chí của Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm về Tư tưởng Hồ Chí Minh như Tìm hiểu một số vấn đề trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1982) do Lê Mậu Hãn chủ biên; Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh (1993) của tập thể tác giả Viện Hồ Chí Minh; Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi (1991), Về tư tưởng Hồ Chí Minh (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh quá trình hình thành và phát triển (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (1997) của Võ Nguyên Giáp; Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh (1998) của Phạm Văn Đồng; Sự hình thành về căn bản tư tưởng Hồ Chí Minh (1997) của Trần Văn Giàu; Từ tư duy truyền thống đến tư tưởng Hồ Chí Minh (1998) của Hoàng Tùng.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu và học tập

Mục đích nghiên cứu học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm áp dụng vào con đường xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đối với thế hệ trẻ nói chung, với học sinh, sinh viên trong các trường cao đẳng và đại học nói riêng, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh cần đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng, đặc biệt là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao lý luận, phương pháp tư duy biện chứng, góp phần đào tạo sinh viên thành những chiến sĩ đi tiên phong trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn và to đẹp hơn như Di chúc của Hồ Chí Minh để lại: "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".

Chính sách ưu đãi của Nhà nước

Hiện nay bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh tại các trường đại học đang thiếu giáo viên nhưng ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh lại có số lượng thí sinh đăng ký dự thi ít, tỷ lệ chọi và điểm chuẩn thấp so với các ngành còn lại. Do đó Chính phủ Việt Nam có Nghị định 74 miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập trong các cơ sở giáo dục quốc dân cho một số đối tượng học sinh, sinh viên; trong đó sinh viên chuyên ngành Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh được miễn học phí. Mặc dù có miễn giảm học phí, nhưng chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn không phải lựa chọn của nhiều sinh viên.

Nội dung cơ bản

Về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc

Về vấn đề dân tộc

Dân tộc là một vấn đề rộng lớn. Karl Marx, Friedrich Engels không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc, vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản; hơn nữa, các ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh.

Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20), cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, nhờ đó V.I. Lênin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Tuy cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp. Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi đặt ra yêu cầu cần vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam; chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng yêu cầu đó. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc chịu ảnh hưởng của lý luận Mác-Lênin, đặc biệt là lý luận của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa

Báo L’Humanité số ra hai ngày 16 và 17-7-1920 đăng toàn văn bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I.Lênin dưới đầu đề chạy suốt trang một. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã đọc đi đọc lại nhiều lần và "qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân". Từ đó Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Mục đích của việc dành độc lập dân tộc là đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng "Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì".

  • Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của đất nước. Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"
  • Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế: "Các dân tộc ở đó (ở phương Đông) không bao giờ có thể ngẩng đầu lên được nếu không gắn bó với giai cấp vô sản thế giới... Ngày mà hàng trăm triệu người châu Á bị nô dịch và áp bức sẽ thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một nhóm bọn thực dân tham tàn và chính họ sẽ hình thành được một lực lượng đồ sộ vừa có thể thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, vừa giúp đỡ những người anh em phương tây trong sự nghiệp giải phóng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời quả quyết và phủ nhận quan điểm cho rằng mình theo chủ nghĩa dân tộc: Nói rằng lúc còn thanh niên, tôi theo chủ nghĩa dân tộc, có lẽ không đúng. Vì hồi đó tôi chỉ biết thương đồng bào tôi, chứ chưa biết chủ nghĩa gì cả. Khi đi sang châu Phi, tôi thấy nhân dân thuộc địa ở đây cũng cực khổ, cũng bị áp bức, bóc lột như nhân dân Đông Dương. Khi sang các nước châu Âu, tôi thấy ở đó cũng có một số người rất giàu, “ngồi mát ăn bát vàng”, và lớp người nhân dân lao động rất nghèo khổ. Tôi suy nghĩ nhiều lắm. Trong lúc đó thì Cách mạng Tháng Mười vĩ đại thành công ở Nga. Lênin tổ chức Quốc tế Cộng sản. Rồi Lênin phát biểu Luận cương cách mạng thuộc địa. Những việc đó làm cho tôi thấy rằng: Nhân dân lao động Đông Dương, nhân dân các thuộc địa và nhân dân lao động muốn tự giải phóng thì phải đoàn kết lại và làm cách mạng. Vì vậy, tôi trở nên người theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ". Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là luận điểm trung tâm, nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chủ trương sách lược chống đế quốc "Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế". Nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”, "chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc".

Về cách mạng giải phóng dân tộc

Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản đã không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của những nhà cách mạng tiền bối, nhưng ông không tán thành các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.

Sau khi tiếp cận lý luận của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước, đó là con đường cách mạng vô sản. Như vậy là, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Hồ Chí Minh quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.

  • Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Ông coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi.
  • Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Các nhà nghiên cứu trong nước đánh giá, đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
  • Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực. Trong đó có hai vấn đề: Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông chủ trương, yêu nước, thương dân, yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập tự do. Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc. Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Hồ Chí Minh nói, muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh sinh. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
  • Định nghĩa tổng quát, xem xét chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản như là một chế độ xã hội hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống, là con đường giải phóng nhân loại cần lao, áp bức.

  • Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra một mặt nào đó của nó (kinh tế, chính trị, văn hóa...).

  • Định nghĩa bằng cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, chỉ rõ phương hướng, phương tiện để đạt được mục tiêu đó.

  • Định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách xác định động lực xây dựng nó: "Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy". Marx cho rằng chủ nghĩa cộng sản là một bước tiến hóa của xã hội loài người dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra chứ không phải là kết quả của việc áp đặt một mô hình kinh tế - chính trị lên xã hội. Theo ông "Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại". Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp hoặc các nước tiền tư bản với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh này, toàn xã hội phải nỗ lực dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời phải học tập kinh nghiệm xây dựng Chủ nghĩa xã hội và tận dụng mọi sự giúp đỡ của những nước xã hội chủ nghĩa tiên tiến như Liên Xô và các nước Đông Âu.

;Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại. Do những đặc điểm và tính chất quy định, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình dần dần, khó khăn, phức tạp và lâu dài. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm hai nội dung lớn:

  • Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
  • Kinh tế: nhấn mạnh việc tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương nghiệp làm cầu nối giữa các ngành sản xuất xã hội. Phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh chỉ ra 6 thành phần kinh tế ở vùng kháng chiến, để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần như trên, Hồ Chí Minh đưa ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ gồm bốn điểm mấu chốt: Một là, công tư đều lợi; Hai là, chủ thợ đều lợi; Ba là, công nông giúp nhau; Bốn là Lưu thông trong ngoài. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị. Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ, nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân, đến năm 1959 ông chủ trương vẫn cho phép những nhà tư sản công thương sở hữu tư liệu sản xuất, tiến dần đến việc xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa bằng cách khuyến khích những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ tổ chức hợp tác xã theo nguyên tắc tự nguyện, khuyến khích và giúp đỡ những nhà tư sản công thương cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác. Có quan điểm cho rằng Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam.

:Đối với những người lao động cá thể và các nhà tư bản, cũng tại báo cáo nói trên, Hồ Chí Minh viết:

  • Văn hóa - xã hội: nhấn mạnh vấn đề xây dựng con người mới.

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố thành lập, giai đoạn 1945 - 1946, tình thế đất nước ở vào hoàn cảnh vô cùng hiểm nghèo, được ví như ngàn cân treo sợi tóc. Chính trong hoàn cảnh này, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc của ông, giúp đất nước vượt qua cơn hiểm nghèo, giữ vững được nền độc lập non trẻ. Hồ Chí Minh đã gạt bỏ các bất đồng chính trị giữa các phe phái sang một bên, tập hợp các đảng phái chính trị để thành lập Chính phủ với mục tiêu phụng sự quốc gia, dân tộc. Trong đó mục tiêu độc lập dân tộc được đặt lên hàng đầu.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc bao gồm:

  • Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công của cách mạng.
  • Đại đoàn kết là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
  • Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
  • Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong tác phẩm "Nên Học Sử Ta", Hồ Chí Minh đã viết: "Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào nhân dân ta đoàn kết muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi…"

Về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

Hồ Chí Minh là một trong những người Việt Nam đầu tiên tham gia phong trào cộng sản quốc tế tại thời điểm Việt Nam chưa có bất cứ tổ chức chính trị nào theo Chủ nghĩa Cộng sản. Ông là thành viên của tổ chức Quốc tế Cộng sản III, là người đã thống nhất các tổ chức đảng cộng sản riêng rẽ ở Việt Nam thành một chính đảng duy nhất theo chỉ thị của Quốc tế III. Chính Hồ Chí Minh là người kết nối phong trào cách mạng vô sản Việt Nam và phong trào cách mạng vô sản quốc tế. Thông qua Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng vô sản ở Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ to lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Rất nhiều lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam quan trọng đã được Hồ Chí Minh tổ chức sang Liên Xô hoặc Trung Quốc đào tạo về chính trị và quân sự.

Qua khảo sát thực tế, từ kinh nghiệm bản thân, Hồ Chí Minh đã nhận thức được rằng: chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động ở cả chính quốc và thuộc địa. Muốn đánh thắng chúng, phải thực hiện khối liên minh chiến đấu giữa lao động ở các thuộc địa với nhau và giữa lao động ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc; nếu tách riêng mỗi lực lượng thì không thể nào thắng lợi được. Điểm vượt lên của Hồ Chí Minh so với các lãnh tụ yêu nước và chí sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX chính là ở đó, nó nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về sức mạnh của phong trào cộng sản trên thế giới và nhu cầu liên kết với phong trào đó để giành độc lập dân tộc.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự liên kết giữa phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng tại các nước khác cũng là phương châm cơ bản của phong trào cộng sản quốc tế thể hiện qua khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại". Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một cách diễn đạt sự liên kết đó. Nội dung của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại bao gồm:

  • Đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới.
  • Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
  • Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
  • Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng là bạn với tất cả mọi nước dân chủ.

Theo Hồ Chí Minh, "phải làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản"

Về Đảng Cộng sản Việt Nam; về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân

Về Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: "Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi", giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được. Trong cuốn sách Đường Kách mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh viết: "Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy". Hồ Chí Minh cho rằng: "Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng. Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực lượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền. Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo" Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước** *Đảng Cộng sản Việt Nam phải biết thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó.

::Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" viết năm 1947 Hồ Chí Minh cho rằng:

Về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân

Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân của Hồ Chí Minh thể hiện qua những quan điểm sau: *Hồ Chí Minh cho rằng Nhà nước là đày tớ chung của dân, cán bộ làm việc không phải là để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ.

*Nhà nước phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết; phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân; phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình; phải làm kiểu mẫu: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Về nông dân

Xem giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất của phong trào dân tộc, là cơ sở cho các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, có gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, chịu áp bức bởi thực dân Pháp và tay sai (phong kiến và địa chủ), sẵn sàng đứng lên cùng công nhân trong cuộc cách mạng vô sản đang phát triển. Trong Sách lược cách mạng của Đảng, Người viết: " Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông".

Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trải qua các thời kỳ, Đảng ta đã nắm vững và giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân, củng cố được liên minh công nông. Đảng ta đấu tranh chống những xu hướng "hữu khuynh" và "tả khuynh" đánh giá thấp vai trò của nông dân là quân chủ lực của cách mạng, là bạn đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công nhân, là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng chủ nghĩa xã hội".

Về công nhân

Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, bất kỳ họ lao động trong công nghệp hay là trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc giai cấp công nhân. Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân tại các xí nghiệp như nhà máy, hầm mỏ, xe lửa v.v. Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông v.v. cũng thuộc giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân công nghiệp là hoàn toàn đại biểu cho đặc tính của giai cấp công nhân.

Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, kỷ luật. Công nhân là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, có trách nhiệm đánh đổ chế độ của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, xây dựng một xã hội mới. Vì những lẽ đó, giai cấp công nhân có thể lĩnh hội và thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất: chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và làm gương cho các tầng lớp khác. Do đó, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.

Về quân sự

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là quan điểm và lý thuyết của Hồ Chí Minh về việc xây dựng nền quốc phòng, lực lượng vũ trang, về những vấn đề có tính quy luật của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, về chính trị và quân sự. Đó là sự áp dụng lý thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, kết hợp truyền thống quân sự, nghệ thuật binh pháp cổ truyền của dân tộc Việt Nam, tiếp thu khoa học quân sự cổ kim của nhân loại.

Một trong các cơ sở quân sự của tư tưởng Hồ Chí Minh là lấy dân làm gốc theo phương châm "quân với dân như cá với nước", tất cả sức mạnh đều từ dân mà ra. Cơ sở tiếp theo của quân sự là chính trị. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quân sự phục vụ cho chính trị là một quan điểm cơ bản, đấu tranh chính trị và chiến tranh quân sự luôn gắn bó với nhau. Do đó, trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn có những chính trị viên và chính ủy, họ có nhiệm vụ giáo dục chính trị trong quân đội.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chiến tranh ở Việt Nam là cuộc chiến của toàn dân chống ngoại xâm, bao gồm cả ba thứ quân: quân chủ lực, quân địa phương và dân quân tự vệ. Nguyên tắc "ba thứ quân" này là kế thừa từ truyền thống tổ chức quân sự cổ truyền trong lịch sử Việt Nam, khi đó các thành phần hương binh, quân các lộ và quân triều đình đều tham gia chiến sự. Chiến tranh du kích là nền tảng, kết hợp với chiến tranh chính quy, lấy nhỏ quấy phá lớn, lấy thế thắng lực, áp dụng cơ sở tinh thần chính trị khi cần, ứng dụng quân sự tiên tiến.

Chiến lược cơ bản chống đối phương xâm lược là bước đầu tiến hành quấy rối, làm hao mòn lực lượng, đánh vào tâm lý, sau đó gây sức ép chính trị để đối phương tự rút quân. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu về Chiến tranh Đông Dương như sau:

Phương pháp chiến tranh của tư tưởng này nhấn mạnh vào việc vận dụng hợp lý việc xây dựng lực lượng và đánh tiêu hao đối phương, trong đó việc xây dựng lực lượng, tích trữ lương thảo, vũ khí, và trường kỳ mai phục vào mùa khô, ẩn nấp vào ban ngày, đánh tiêu hao địch vào mùa mưa và ban đêm.

Về dân chủ

Theo bài hướng dẫn chính trị của ông về dân chủ, đăng trên mục Thường thức chính trị năm 1953, theo ông đặc điểm dân chủ tại Việt Nam là:

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân, trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng dân chủ nhân dân chuyên chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính với thế lực phản động. Tư tưởng của giai cấp công nhân (tư tưởng Marx-Lenin) là tư tưởng lãnh đạo, ngày càng phát triển và củng cố. *Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng này, nhân dân có đoàn thể cách mạng chắc chắn của nó như: Công đoàn, Nông hội, Hội thanh niên, Hội phụ nữ,... thực hiện dân chủ, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Ông quan niệm dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân vì thế "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc.".

Dân chủ là "của báu" vì đó không phải là thứ tự nhiên có sẵn mà đó là thành quả của cách mạng, nhân dân Việt Nam đã phải đấu tranh, hy sinh gian khổ mới giành được. Dân chủ là "làm sao cho dân mở miệng, đừng để cho dân sợ không dám mở miệng, nhưng điều đáng lo hơn nữa là khiến dân không thiết mở miệng. Khi người dân không còn niềm tin để tham gia vào công việc chung nữa là khi khoảng cách giữa Đảng và dân đã quá xa." Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Thực hành dân chủ có tác dụng giải phóng tiềm năng sáng tạo của người dân và trở thành động lực của sự tiến bộ và phát triển. Trái lại, ông cho rằng, nếu trong cán bộ, nhân dân "ít sáng kiến, ít hăng hái là vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì cách lãnh đạo của ta không được dân chủ". Nhân dân là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng vì thế Đảng viên phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, gần dân, chịu khó đi sâu đi sát cơ sở, nắm vững tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng của nhân dân đồng thời phải gương mẫu, làm đúng chính sách, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe ý kiến quần chúng.

Hồ Chí Minh có quan điểm không khoan nhượng với những hành vi lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân danh dân chủ để chống phá cách mạng. Theo ông thì dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để phòng kẻ phá hoại. Dân chủ và chuyên chính đi đôi với nhau. Muốn dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự vì nếu không chuyên chính thực sự thì "bọn thù địch sẽ làm hại dân chủ của nhân dân". Dân chủ và chuyên chính quan hệ mật thiết với nhau. Hồ Chí Minh cho rằng dưới chế độ tư bản, phong kiến, chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ dân chủ, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ dân chủ của nhân dân.

Về vấn đề giai cấp

Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Song đa số người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người không lao động thì lại hưởng thụ thành quả lao động đó. Đó là do một số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Họ có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm lụng, họ bắt buộc người khác làm cho họ hưởng. Do đó mà có giai cấp. Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm mà hưởng, là giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản. Những người lao động mà không được hưởng giá trị thặng dư và thành quả lao động là giai cấp bị bóc lột hay giai cấp công nhân.

Về văn hóa

Theo Hồ Chí Minh: “Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá” và "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Văn hoá có vị trí, vai trò, tính chất và chức năng quan trọng. Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi, phải làm cho ai cũng có lý tưởng độc lập, tự chủ và có ý thức đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, lười biếng, xa xỉ. Ông chỉ rõ ba lĩnh vực chính của văn hoá là văn hoá giáo dục, văn hoá văn nghệ và văn hoá đời sống. Người cách mạng cần cải tạo, sửa đổi văn hóa cũ đồng thời xây dựng, sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới.

Về đạo đức

Tổng quan

Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Ông không những để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn cố gắng trở thành một hình mẫu đạo đức cho cấp dưới noi theo. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ quan điểm đạo đức Nho giáo kết hợp với những quan điểm đạo đức cách mạng của Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông. Theo ông, đạo đức là nền tảng của con người. Chính vì thế người cách mạng phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp. Đức cũng cần đi đôi với tài. Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức biểu hiện tập trung thông qua ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Ông thường xuyên nhắc nhở cấp dưới nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

Theo PGS.TS Lê Văn Tích, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên kết hợp thành công sức mạnh trong nước và quốc tế - dân tộc và thời đại, yếu tố khách quan và chủ quan để tìm ra lời giải cho "Bài toán thế kỷ" đã đặt ra cho dân tộc từ đầu thế kỷ XX. Mặc dù Luận cương của Lenin cũng như những quan điểm của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp có vị trí quan trọng trong "con đường cứu nước" mà Hồ Chí Minh tìm đến; song đó chưa phải là con đường cứu nước Hồ Chí Minh, bởi lẽ đó chỉ là những nguyên tắc lý luận, định hướng mang tính phổ biến. Con đường cứu nước Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc, quan điểm ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Theo Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, đã vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, đưa ra nhiều kiến giải mới nhằm bổ sung vào lý luận Mác - Lênin. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh cho rằng Hồ Chí Minh đã làm phong phú cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, có những cố

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Chân dung [[Chủ tịch Hồ Chí Minh]] **Tư tưởng Hồ Chí Minh** là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng
Ngoài Tư tưởng Hồ Chí Minh về công nhân, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân cũng rất quan trọng. Theo chủ nghĩa cộng sản, trong đó vấn đề nông dân và ruộng đất
Trong các hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến giai cấp công nhân. Vì là người theo chủ nghĩa Marx, trong đó xem lãnh đạo cách mạng là giai
**Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng** là cơ quan trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, có chức năng nghiên cứu về cuộc đời và tư tưởng
Giáo trình do tập thể tác giả là những nhà nghiên cứu, nhà giáo dục có nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu, giảng dạy về tư tưởng Hồ Chí Minh, PGS.TS. Mạch Quang Thắng làm
Chủ Nghĩa Mác - Lênin, Tư Tưởng Hồ Chí Minh Với Công Cuộc Đổi Mới Của Việt Nam Nội dung cuốn sách đề cập đến cách mạng Việt Nam và công cuộc đổi mới về
Một Số Vấn Đề Về Xây Dựng Đảng Theo Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nghiên cứu Hồ Chí Minh, tôi thấy đây là con người đặc biệt, rất đặc biệt. Là con quan, lại là
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Education_ – **HCMUE**) được thành lập ngày 27 tháng 10 năm 1976 theo Quyết định số 426/TTg
**Ban Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh** (còn được gọi **Ban Thường vụ Trung ương Đoàn)** là cơ quan thường trực của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn giữa
**Hồ Chí Minh** là một nhà cách mạng Việt Nam trong thế kỷ 20. Hồ Chí Minh còn có thể là: ## Địa danh *Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam *Đường mòn Hồ Chí
**_Thư gửi các học sinh_** hay **_Thư gửi cho các học sinh_** là một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho các học sinh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; là đơn vị tài chính cấp I; là trung
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
Giải phóng phụ nữ là mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.Bác Hồ với đại biểu dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III,
**Tâm linh Hồ Chí Minh** hay **đạo Bác Hồ** là một hình thức tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam xuất phát từ việc thờ cúng Hồ Chí Minh, Chủ tịch đầu tiên của nước
**Hoạt động của** **Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh** **giai đoạn 1911–1941** hay còn được gọi là **Thời kỳ Bôn ba Hải ngoại** kéo dài 30 năm (từ 5
**Trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh** là một trong những công trình kiến trúc cổ điển ở Thành phố Hồ Chí Minh, được xây dựng từ năm 1898 đến 1908,
**Danh sách bài hát về Hồ Chí Minh** là tuyển tập các ca khúc lấy nguồn cảm hứng từ hình tượng Hồ Chí Minh, các sáng tác này tập trung ca ngợi về Hồ Chí
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt ra mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Đó là khát vọng
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt ra mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Đó là khát vọng
Loạt sách Hồ Chí Minh bàn về gồm trích đoạn rất ngắn những phát biểu của Bác. Đây là những phát biểu vẫn còn mang tính thời sự trong thời điểm hiện tại, và dễ
Loạt sách Hồ Chí Minh bàn về gồm trích đoạn rất ngắn những phát biểu của Bác. Đây là những phát biểu vẫn còn mang tính thời sự trong thời điểm hiện tại, và dễ
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
nhỏ|265x265px|Trụ sở Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh **Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh**, thường được gọi ngắn gọn là **Đoàn**, là một tổ chức chính trị – xã hội của thanh
**Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh** (, viết tắt là **VNUHCM**), mã đại học **QS**, là một trong hai hệ thống đại học quốc gia của Việt Nam bên cạnh Đại học
**Câu lạc bộ bóng đá Công an Thành phố Hồ Chí Minh** là một câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đội bóng này là hậu thân của
**Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh**, còn gọi là **Lăng Hồ Chủ tịch**, **Lăng Bác**, là nơi gìn giữ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng được chính thức khởi công ngày 2 tháng
**Thành phố Hồ Chí Minh** hiện nay hình thành trên cơ sở sáp nhập nhiều đơn vị hành chính do chính quyền qua các thời kỳ trước đây thành lập. Do đó, tổ chức hành
**Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh** hay còn gọi gọn là Bộ Tư lệnh Thành phố là một đơn vị phòng thủ cấp chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm
**Huân chương Hồ Chí Minh** là huân chương bậc cao thứ nhì của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), được đặt ra lần
**Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh** là một bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, lạc tại số 65 Lý Tự Trọng, thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên
**Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh** là đơn vị sự nghiệp báo chí trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đài truyền hình đầu tiên ở Việt
**Nhà hát Sài Gòn** (tiếng anh: **Saigon Opera House**), thường được gọi ngắn gọn là **Nhà hát Thành phố**, là một nhà hát có mặt tiền hướng ra Công trường Lam Sơn và đường Đồng
**Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh** (_Ho Chi Minh University of Banking_) là trường đại học công lập trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trường được thành lập năm
**Trường Đại học Ngoại ngữ _–_ Tin học Thành phố Hồ Chí Minh** (tiếng Anh: _Ho Chi Minh City University of Foreign Languages – Information Technology_, tên viết tắt: **HUFLIT**) là một đại học tư
nhỏ|[[Chợ Bến Thành về đêm, nơi đây là biểu tượng không chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Thành phố Hồ Chí Minh **là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật được trao cho tác giả của các lĩnh vực âm nhạc, văn học, sân khấu, mỹ thuật, nhiếp ảnh, múa, điện ảnh, văn nghệ dân
**Bộ Tư lệnh Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ** hay còn gọi là **Đoàn 969 **trực thuộc Bộ Quốc phòng, là tổ chức chuyên trách phối thuộc của Ban Quản lý Lăng Chủ tịch
Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh (tiếng Anh: Ho Chi Minh City University of Industry and Trade; HUIT) là một là một cơ sở giáo dục đại học công lập trực
Đại dịch COVID-19 do virus SARS-CoV-2 gây ra xuất hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23 tháng 1 năm 2020. Đây cũng là nơi có ca mắc COVID-19 đầu tiên tại Việt
**Hồ Chí Minh**, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, vị chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), sinh ra trong
**Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh** là người đứng đầu Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan hành chính của Thành phố Hồ Chí Minh. Chủ
**Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh** (, tên viết tắt là _HCMC Metro_) là hệ thống đường sắt đô thị đang xây dựng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Dự án là
Ngày 30 tháng 8 năm 2005, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký quyết định số 971/2005/QĐ-CTN trao **giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 3** cho 12 công trình, cụm công trình khoa học
nhỏ|Bút tích di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. **Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh**, hay còn gọi là **Di chúc của Hồ Chủ Tịch** hoặc **Di chúc của Bác Hồ**, là
**Xe buýt nội đô Thành phố Hồ Chí Minh** là hệ thống giao thông công cộng tại Thành phố Hồ Chí Minh, do Trung tâm Quản lý Giao thông công cộng trực thuộc Sở Giao