Lăng Khải Định, còn gọi là Ứng Lăng (應陵) là lăng tẩm của Hoàng đế Khải Định (1885-1925), vị Hoàng đế thứ 12 Triều Nguyễn. Lăng tọa lạc tại núi Châu Chữ, phường Thủy Bằng, quận Thuận Hóa, thành phố Huế. Công trình kiến trúc này nằm trong quần thể di tích cố đô Huế, di sản thế giới đã được UNESCO công nhận từ năm 1993.
Lịch sử xây dựng
left|thumb|Sân Bái Đình
trái|nhỏ|Bi Đình
nhỏ|Mặt tiền điện Khải Thành|trái
nhỏ|Nghệ thuật ghép sành sứ tại Khải Định lăng
left|thumb|Án thờ vua Khải Định trong điện Khải Thành
thumb|Huyệt Cung, bên dưới bức tượng đồng mạ vàng là mộ phần của nhà vua|trái
thumb|Nghệ thuật ghép sành sứ thủy tinh màu ở Ứng Lăng
Khải Định lên ngôi năm 1916 ở tuổi 31. Ngay sau khi lên ngôi, ông đã cho xây dựng nhiều cung điện, dinh thự, lăng tẩm cho bản thân và hoàng tộc như điện Kiến Trung, cung An Định, cửa Trường An, cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Đức, đặc biệt là Ứng Lăng.
Để xây dựng sinh phần cho mình, Khải Định đã tham khảo nhiều tấu trình của các thầy địa lý cuối cùng đã chọn triền núi Châu Chữ làm vị trí để xây cất lăng mộ. Ở vị trí này, lăng Khải Định lấy một quả đồi thấp ở phía trước làm tiền án; lấy núi Chóp Vung và Kim Sơn chầu trước mặt làm "Tả thanh long" và "Hữu bạch hổ"; có khe Châu Ê chảy từ trái qua phải làm "thủy tụ", gọi là "minh đường". Nhà vua đổi tên núi Châu Chữ - vừa là hậu chẩm, vừa là "mặt bằng" của lăng - thành Ứng Sơn và gọi tên lăng theo tên núi là Ứng Lăng.
Lăng khởi công ngày 4 tháng 9 năm 1920 do Tiền quân Đô thống phủ Lê Văn Bá là người chỉ huy và kéo dài suốt 11 năm mới hoàn tất. Tham gia xây dựng lăng có rất nhiều thợ nghề và nghệ nhân nổi tiếng khắp cả nước như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả, Ký Duyệt, Cửu Sừng... Để có kinh phí xây dựng lăng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng. Hành động này của Khải Định đã bị lịch sử lên án gay gắt.
Để xây lăng, Khải Định cho người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói Ardoise..., cho thuyền sang Trung Hoa, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh màu... để kiến thiết công trình trên ngọn đồi này.
trái|nhỏ|Tượng đồng vua Khải Định
Kiến Trúc
So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có diện tích khiêm tốn hơn nhiều nhưng cầu kỳ về kiến trúc và trang trí mỹ thuật. Về kiến trúc, lăng Khải Định được người đời sau thường đặt ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi cái mới, cái lạ, cái độc đáo, cái ngông nghênh, lạc lõng... tạo ra từ phong cách kiến trúc. Sự xâm nhập của nhiều trường phái kiến trúc như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique... đã để lại dấu ấn trên những công trình cụ thể:
*Những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ;
- Trụ biểu dạng phù đồ (stoupa) của Phật giáo;
- Hàng rào như những cây thánh giá khẳng khiu;
- Nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Roman biến thể...
Điều này là kết quả của hai yếu tố: sự giao thoa văn hóa Đông - Tây trong buổi giao thời của lịch sử và cá tính của Khải Định.
Mặt bằng lăng hình chữ nhật (117m x 48,5m) xung quanh là hàng rào cao 3m bảo vệ. Toàn bộ khu tẩm điện và lăng mộ hòa chung với nhau thành 1 trục thống nhất, bố trí trên 7 tầng sân với 127 bậc cấp xây gạch.
Tầng dưới cùng là con đường chạy qua trước mặt lăng, vượt qua 37 bậc cấp mới đến cửa chính. Hệ thống bậc cấp chia thành 3 lối đi, 2 bên thành bậc đắp nổi 4 con rồng rất lớn, tư thế bò từ trên xuống.
Qua khỏi cửa chính là tầng sân thứ 2, hình chữ nhật (47m x 24,5m) được lát gạch ca rô. Hai bên sân có 2 nhà Tả, Hữu tòng tự, đều 3 gian, xây vách, mái lợp ngói liệt; trong thờ bài vị các công thần.
Đi lên tiếp 29 bậc cấp nữa là sân Bái đình (47m x 40,5m) ở tầng thứ 3. Phía trước là Nghi môn kiểu tam quan đồ sộ. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng gồm quan văn, quan võ, binh lính, ngựa, voi tạc bằng đá, đứng chầu. Bi đình đặt ở giữa phía cuối sân, xây hoàn toàn bằng bê tông, chia hai tầng mái, lợp ngói ardoise. Phía trong bi đình có đặt bia làm bằng đá Thanh trên bệ đá kiểu chân quỳ. Bia cao 3,1m, rộng 1,2m, bệ bia cao 0,76m, rộng 0,85m, dài 2,1m, có khắc bài văn ca ngợi công đức vua Khải Định. Cả bia và bệ đều chạm khắc công phu, hình thức kiểu bia đá Huế truyền thống.
Tiếp theo sân Bái đình là 3 tầng sân cũng hình chữ nhật, lát gạch carô, mỗi tầng cách nhau 13 bậc cấp, thành bậc đều đắp 4 con rồng cùng tư thế bò từ trên xuống. Trên sân có các bồn hoa hình chữ nhật trồng các loại cây cảnh, đặc biệt ở tầng sân thứ 2 còn có 2 cột cờ bằng bê tông khá hiện đại dùng để treo cờ vào dịp lễ tết.
Ở tầng sân thứ 7, nằm ở cuối trục thần đạo và cũng là vị trí cao nhất của lăng là Cung Thiên Định (天定宮).****
Cung Thiên Định
Cung này ở vị trí cao nhất là kiến trúc chính của lăng, được xây dựng công phu và tinh xảo. Toàn bộ nội thất trong cung đều được trang trí những phù điêu ghép bằng sành sứ và thủy tinh. Đó là những bộ tranh tứ quý, bát bửu, ngũ phúc, bộ khay trà, vương miện... kể cả những vật dụng rất hiện đại như đồng hồ báo thức, vợt tennis, đèn dầu hỏa... cũng được trang trí nơi đây.
Mặt bằng cung Thiên Định có hình chữ nhật (34,5m x 26,4m), nền lát đá cẩm thạch, chia làm 5 phòng. Hai bên là Tả, Hữu trực phòng dành cho lính hộ lăng với tường được quét giả màu đá cẩm thạch. Ba phòng giữa xếp theo hình chữ tam gọi là điện điện Khải Thành (啟成殿).
Phòng phía trước trong điện Khải Thành có đặt án thờ đúc bằng bê tông, phía trên có bức hoành đề tên điện. Toàn bộ 4 mặt tường được trang trí hết sức công phu bằng mảnh sành sứ ghép nổi với các đề tài bát bửu, tứ thời, ngũ phúc ghép với các câu thơ. Phòng chính giữa là bửu tán, pho tượng nhà vua ở trên và mộ phần phía dưới. Phòng trong cùng là khám thờ bài vị của vua.
Bên dưới bửu tán là pho tượng đồng của Khải Định được đúc tại Pháp năm 1920, do 2 người Pháp là P. Ducing và F. Barbedienne thực hiện theo yêu cầu của vua Khải Định. Thi hài nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một toại đạo dài gần 30 m, bắt đầu từ phía sau Bi Đình. Phía sau ngôi mộ, vầng mặt trời đang lặn như biểu thị cái chết của vua. Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tánh, tác giả của 3 bức bích họa "Cửu long ẩn vân" lớn vào bậc nhất Việt Nam được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.
Hình ảnh
Tập tin:Tượng đá ở sân chầu trước Lăng Khải Định (trái).JPG|Tượng đá ở sân chầu trước Lăng Khải Định (trái)
Tập tin:Tượng đá ở sân chầu trước Lăng Khải Định (phải).JPG|Tượng đá ở sân chầu trước Lăng Khải Định (phải)
Tập tin:Bi đình Lăng Khải Định.JPG|Bi đình nhìn từ tầng sân trên
Tập tin:Lăng Khải Định.JPG|Nghi môn
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lăng Khải Định**, còn gọi là **Ứng Lăng** (應陵) là lăng tẩm của Hoàng đế Khải Định (1885-1925), vị Hoàng đế thứ 12 Triều Nguyễn. Lăng tọa lạc tại núi Châu Chữ, phường Thủy Bằng,
**Làng chiếu Định Yên** là một làng nghề truyền thống chuyên sản xuất các loại chiếu bằng sợi lác tọa lạc tại xã Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Nghề dệt chiếu tại làng
nhỏ|Chân dung [[Hoàng đế Khải Định khi công du ở Pháp năm 1922.]] nhỏ|Khải Định khi ở [[Huế (thành phố thuộc tỉnh)|Huế]] **Khải Định Đế** (chữ Hán: 啓定帝; 8/10/1885 – 6/11/1925), tên khai sinh **Nguyễn
**Lăng Đồng Khánh** hay **Tư Lăng** (思陵) là một di tích trong quần thể di tích cố đô Huế đây là nơi an táng hoàng đế Đồng Khánh, lăng tọa lạc giữa một vùng quê
**Lăng tẩm Huế** gồm những nơi dùng để an táng các vị vua, chúa cũng như hoàng tộc của những triều đại đã chọn Huế làm trung tâm quyền lực. Một phần nội thất [[Lăng
Đền Vua Đinh ở Nam Định Vùng đất Nam Định từ thế kỷ X vốn là đồng bằng châu thổ sông Hồng nằm gần kinh đô Hoa Lư, (Ninh Bình) xưa, nơi Vua Đinh Tiên
**Làng nghề** là một đơn vị hành chính cổ xưa mà cũng có nghĩa là một nơi quần cư đông người, sinh hoạt có tổ chức, có kỷ cương tập quán riêng theo nghĩa rộng.
**Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế** là một viện bảo tàng trực thuộc sự quản lý của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tàng bằng
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp
**Đinh Nga** (thế kỷ X) là một vị tướng thời thời Đinh, được biết đến qua thần phả các đền thờ ở các xã Tân Sơn và Thụy Lôi (Kim Bảng, Hà Nam). Ông có
nhỏ|Cổng vào vườn quốc gia Mã An Sơn gần đường Mã An Sơn Thôn. nhỏ|Làng Thượng Mã An Sơn **Làng Mã An Sơn** (; ) hay **Mã Yên Sơn** là một ngôi làng khai thác
Cung An Định (安定宮) tọa lạc bên bờ sông An Cựu, xưa thuộc phường Đệ Bát, thị xã Huế (nay tại số 179 đường Phan Đình Phùng, phường Phú Nhuận, quận Thuận Hóa, thành phố
**Đinh Liễn** (chữ Hán: 丁璉; 945 - Tháng 10, 979) hay **Đinh Khuông Liễn** (丁匡璉), là một hoàng tử nhà Đinh, con trai cả của Đinh Bộ Lĩnh, vị Hoàng đế khai sáng ra triều
**Trường Đại học Văn Lang** (English:**_Van Lang University**,_ Latin: _Universitas Vanlangensis_), thường được gọi tắt là **VLU** là một trường đại học tư thục đa ngành ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Thành
nhỏ|Bố cục [[Đình Tây Đằng gồm hồ bán nguyệt, nghi môn, sân, đại đình và hai nhà tả hữu mạc.]] nhỏ|Cổng tam quan [[Đình So]] nhỏ|Nhà Tiền tế [[Đình Chèm]] nhỏ|Hậu cung [[Đình Trà Cổ]]
**Đình Bát Tràng** là một trong số những ngôi đình lớn của xứ Kinh Bắc xưa. Đình nằm tại làng Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Đình Bát Tràng
**Đình So** là một công trình kiến trúc đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Là đình của làng So bao gồm toàn bộ xã Cộng Hòa và xã
**Lăng Hoàng gia** là nơi yên nghỉ của những người quá cố thuộc dòng họ Phạm Đăng nổi tiếng ở Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang (Việt Nam). ## Giới thiệu ### Vị trí, tên
nhỏ|Cổng chính đình Tân Hoa hiện nay **Đình Tân Hoa** từng có tên là **Tân Hóa**, **Tân Hòa** (còn được gọi là **đình Cái Đôi** vì mặt tiền đình trước đây hướng ra vàm rạch
**Đình Hoa Vân Hải** là một ngôi đình lâu đời tại Việt Nam. Đình thuộc làng Vân Hải tổng Cổ Đạm, nay là xã Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; được xây dựng
**Đình Vĩnh Nguơn** có tên chữ là **Trung Hưng Thần Miếu** (chữ Hán: 中 興 神 廟), tọa lạc tại đầu vàm kênh Vĩnh Tế (chỗ giao nhau với sông Châu Đốc); nay thuộc phường
Phong cảnh đầm Cút và lối vào đền Thung Lá, nơi thờ Quốc Mẫu Đàm Thị Phong cảnh hồ Đàm Thị ở [[chùa Bái Đính nhìn từ trên cao]] **Đinh Triều Quốc Mẫu** (890 -
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Micae Ngô Đình Khả** (chữ Hán: 吳廷可; 1856 – 1923) là một quan đại thần nhà Nguyễn. Ông được biết đến như một đại thần đã cộng tác với Pháp để đàn áp cuộc khởi
**_Lộc Đỉnh ký_** (tiếng Trung: 鹿鼎記) là bộ phim truyền hình Trung Quốc do Trương Kỷ Trung và Hoa Nghị huynh đệ sản xuất, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Kim
**Đình Mai Xá** là một ngôi đình cổ ở vùng Bắc Bộ, nằm trên đất làng Mai Xá 梅舍 (là xã thời đầu thế kỷ 19) tổng Công Xá, huyện Nam Xang, phủ Lý Nhân
Đình Minh Hương Gia Thạnh tại [[quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh]] **Đình Minh Hương Gia Thạnh** (tên chính thức: 明鄉嘉盛會館, Minh Hương Gia Thạnh Hội Quán) do người Hoa sang định cư, rồi
**Lăng Tư Minh** hay còn gọi là **lăng Thánh Cung** là nơi an nghỉ của Phụ Thiên Thuần Hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Nhàn (1870-1935), còn được gọi là Đức Thánh Cung, vợ cả của
**Lăng** **Tiên Cung** (僊宮陵) hay **Tư Thông Lăng** (思聰陵), còn có tên dân gian là **lăng Vạn Vạn** là lăng mộ của Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương Thị Thục (1868 - 1944), vợ của
**Nam Định** là một tỉnh cũ nằm ở phía Nam Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2023, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam đứng thứ 13 về số dân, xếp thứ
Đình Mỹ Phước **Đình làng Nam Bộ** (người miền Nam hay gọi tắt là **đình thần**) là nơi thờ thần Thành hoàng, vị thần chủ tể trên cõi thiêng của thôn. Nhìn chung ở Nam
Trước đền [[Đinh Bộ Lĩnh trên quê hương Gia Viễn]] Các di tích thờ Vua Đinh ở Ninh Bình (màu đỏ) [[Đền Vua Đinh Tiên Hoàng ở cố đô Hoa Lư]] Ninh Bình là quê
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
nhỏ|Bức Tranh _Die Tafelrunde_ của họa sĩ [[Adolph von Menzel. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và các viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Berlin.]] **Phong trào Khai sáng**,
**Minh Định lăng** (), cũng được gọi tắt là **Định lăng**, là một lăng mộ tại Trung Quốc, nơi hợp táng Minh Thần Tông và Hiếu Đoan Hiển Hoàng hậu và Cung phi Vương thị.
nhỏ|Chân dung ông Đoàn Đình Duyệt **Đoàn Đình Duyệt** (段廷𧀲, 1862 - 1929) còn có tên là **Đoàn Đình Nhàn** , hiệu là **Đức Khê**, tên thụy là **Văn Ý,** Nam tước, Đại thần Cơ
nhỏ|Bản đồ hành chính tỉnh [[Nam Định]] **Nam Định** là một tỉnh cũ thuộc vùng nam đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. ## Lịch sử tổ chức hành chính ### Trước khi thành lập tỉnh
Hình vẽ đoàn tùy tùng, trên tranh tường trong mộ [[Lý Hiền (Nhà Đường)|Lý Hiền, niên đại 706; mỗi hình có chiều cao xấp xỉ .]] **Càn lăng** () là một công trình kiến trúc
**Phan Đình Phùng** (chữ Hán: 潘廷逢; 18471896), hiệu **Châu Phong** (珠峰), tự **Tôn Cát**, là một nhà cách mạng Việt Nam, lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống lại thực dân Pháp trong
**Tiêu Thập Nhất Lang** (chữ Hán: 蕭十一郎, bính âm: _Xiao Shi Yi Lang_, tên tiếng Anh: _The Eleventh Son_) hay còn gọi là **Tuyệt Tình Nương** là một tiểu thuyết võ hiệp, trinh thám của
**Thi Lang** (, 1621 – 1696) tự là **Tôn Hầu**, hiệu là **Trác Công**, người thôn Nha Khẩu trấn Long Hồ huyện Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc, là danh tướng thời kỳ cuối
**Hồ Thị Chỉ** (chữ Hán: 胡氏芷; 1902 - 1982), là Nhất giai **Ân phi** (一階**恩妃**) của hoàng đế Khải Định thuộc triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Khi Hoàng quý phi Trương
**Làng Thanh Lương** được hình thành vào khoảng từ cuối thế kỷ XIV và đến đầu thế kỷ XV. Đầu tiên Làng được đặt tên là làng Thanh Kệ, cho đến khi chúa Nguyễn về
[[Caspar David Friedrich, _Kẻ lãng du trên biển sương mù,_ 38.58 × 29.13 inches, 1818, tranh sơn dầu, Kunsthalle Hamburg]] [[Eugène Delacroix, _Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân_ 1830]] Théodore Géricault, _[[Chiếc bè
**Hoàng Cao Khải** (chữ Hán: 黃高啟; 1850–1933), là nhà văn, nhà sử học và là đại thần thân Pháp dưới triều vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là cộng sự
thumb|Một phân phối sản xuất dầu thế giới vào năm 1956, hiển thị dữ liệu lịch sử và sản xuất trong tương lai, được đề xuất bởi M. King Hubbert - nó có mức cao
**Nguyễn Đình Tuân** (阮廷詢, 1867-1941; thường gọi là ông **Nghè Sổ**) người xã Trâu Lỗ, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình,
**Đình thần Hưng Long** tọa lạc tại Khu phố 4, phường Hưng Long, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Với lịch sử hơn 150 năm hình thành và phát triển, đình thần Hưng Long
**Từ Cung Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 慈宮皇太后; 28 tháng 1 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1980), phong hiệu chính thức là **Đoan Huy Hoàng thái hậu** (端徽皇太后), là phi thiếp của Hoằng
Tượng Phật [[A-di-đà do vua Gia Long dâng cúng năm 1804]] **Chùa Khải Tường** là một ngôi cổ tự, trước đây tọa lạc trên một gò cao tại ấp Tân Lộc, thuộc Gia Định xưa;