✨Ngô Thì Sĩ

Ngô Thì Sĩ

Ngô Thì Sĩ hay Ngô Sĩ (chữ Hán: 吳時仕, 1726 - 1780), tự Thế Lộc, hiệu Ngọ Phong (午峰), đạo hiệu Nhị Thanh cư sĩ, là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng dưới thời chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Ông được Phan Huy Chú đánh giá là người có "học vấn sâu rộng, văn chương hùng vĩ, làm rạng rỡ cho tông phái nho gia, là một đại gia ở Nam Châu".

Tiểu sử

Ngô Thì Sĩ sinh ngày 20 tháng 9 năm Bính Ngọ (tức 15 tháng 10 năm 1726) tại làng Tả Thanh Oai (làng Tó), huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (sau thuộc tỉnh Hà Đông, và nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội).

Ông sinh ra trong một dòng họ lớn ở làng, có nhiều người nổi tiếng hay chữ...

Ông nội ông là Ngô Trân, hiệu Đan Nhạc, là một người nổi tiếng về sức học uyên bác và tài văn chương, được người đương thời liệt là một trong "bảy con hổ của kinh thành Thăng Long" (Trường An thất hổ).

Ông là con trưởng Ngô Thì Ức, cũng nổi tiếng hay chữ. Năm 14 tuổi, ông Ức đỗ thứ hai kỳ thi Hương nhưng sau đó hỏng liền hai khoa thi Hội, nên không để chí vào khoa cử nữa. Khi Ngô Thì Sĩ lên 10 tuổi thì ông Ức mất.

Từ 7 đến 11 tuổi, Ngô Thì Sĩ được ông nội rèn dạy. Sau đó ông được cho ra Thăng Long theo học các bậc danh nho như Nghiêm Bá Đĩnh, Nhữ Đình Toản. Năm Quý Hợi (1743), Ngô Thì Sĩ thi đỗ Hương tiến (Cử nhân), nhưng bị hỏng khoa thi Hội ngay sau đó.

Năm 1752, Ngô Thì Sĩ lại đi thi Hội, nhưng bị khảo quan Trần Tố đánh hỏng (vì "nhầm"). Chúa Trịnh Doanh rất tiếc, truất chức của Trần Tố và trao cho Ngô Thì Sĩ chức Thiêm tri Công phiên thẩm ứng vụ (trước đó ông giữ một chức nhỏ trong Binh tào).

Năm 1756, nhân đỗ đầu một kỳ thi tuyển người, Ngô Thì Sĩ trở thành một thành viên trong Văn ban của phủ chúa Trịnh, được giao trách nhiệm soạn thảo giấy tờ, và làm Tùy giảng cho con chúa là Thế tử Trịnh Sâm.

Năm 1761, ông được sai làm "bạn tiếp" tiếp sứ nhà Thanh sang sắc phong và điếu tang Lê Ý Tông.

Năm 1763, ông được cử làm Cấp sự trung Công khoa.

Năm 1764, ông làm Giám sát Ngự sử đạo Sơn Tây, rồi Đốc đồng Thái Nguyên (1765).

Năm Bính Tuất (1766) đời Cảnh Hưng, ông thi đỗ Hoàng giáp, năm sau (1767) được thăng Đông các Hiệu thư rồi đổi làm Hiến sát sứ Thanh Hoa (tức Thanh Hóa). Khi ở đây, ông khai thác núi Bàn A dựng chòi xem sóng biển và lập hội Quan lan sào, tự mình làm hội trưởng.

Năm 1769, ông được về triều; năm sau (1770) làm Tham chính Nghệ An.

Năm 1771, ông coi việc chấm thi ở trường thi Nghệ An, bị Nguyễn Văn Chu, người ở Hà Tĩnh, kiện vì ăn của đút của học trò, bị án "hoàn dân thụ dịch" (nghĩa là trả về làm dân chịu sai dịch) vào năm 1772.

Năm 1774, chúa Trịnh Sâm đi tuần phương Nam, biết ông bị oan, mới có ý cất dùng. Năm 1775, cho triệu ông vào kinh giữ chức Hiệu lý Viện Hàn lâm kiêm Hiệu chính quốc sử, sau đó thăng Thiêm đô ngự sử.

Năm 1777, ông được bổ làm Đốc trấn Lạng Sơn. Trong thời gian ở đây, sau khi ổn định được tình hình địa phương, giúp dân an cư, ông đặt doanh Lộc Mã, dựng đình Kinh lược, sửa sang động Song Tiên, khai thác động Nhị Thanh làm cho nó trở thành một thắng tích.

Ngày 29 tháng 8 năm Canh Tý (tức 22 tháng 10 năm 1780), ông có việc đi tới Nam Quan. Trên đường về qua động Nhị Thanh, ông vào nghỉ trong động. Khi về đến nhà người mệt nặng và từ trần.

Sau này dân làng Vĩnh Trại thuộc huyện Thoát Lãng ở giáp động Nhị Thanh (Lạng Sơn) có lập đền thờ ông. Triều Tây Sơn cũng phong tặng ông là Lễ Thượng Thư Văn Dụ Hồng Liệt Đại Vương.

Ngô Thì Sĩ là cha của các danh sĩ Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Chí, Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hương và là cha vợ của Phan Huy Ích.

Tác phẩm

Sử học

*Việt sử tiêu án* (Những nghi án nêu lên trong sử Việt) Đại Việt sử ký tiền biên** *Đại Việt sử ký tục biên (soạn chung)

Văn học

Anh ngôn thi tập (Tập thơ chim vẹt học nói), quyển thượng và quyển hạ Anh ngôn phú tập (Tập phú chim vẹt học nói) Quan lan thi tập (Tập thơ xem sóng) Nhị thanh động tập (Tập thơ làm ở động Nhị Thanh) Khuê ai lục (Ghi nỗi buồn đau về chuyện phòng khuê) Ngọ phong văn tập (Tập văn Ngọ phong), quyển nhất và quyển nhị Hậu hiệu tần thi tập Bảo chương hoằng mô Sách chế khải tập Khoa sớ tập biên Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, ông còn có Hải Dương chí lược (hay Hải Đông chí lược).

Trích đánh giá

*Phan Huy Chú: Tổ tiên (ông) trước mấy đời theo nghiệp Nho. Lúc trẻ ông sẵn nề nếp gia đình, càng chăm học; do văn chương mà được nổi tiếng. Trong cuộc tuyển cử để lấy người, ông được đứng đầu, rất được Nghị tổ (Trịnh Doanh) yêu và chú ý... Nhà vốn nghèo mà chí không nhụt. Ông có bài văn trách ma nghèo...

Lúc tạm giữ chức Thiêm đô ngự sử, ông có điều trần 4 việc: Xin định rõ phép khảo xét (các quan), xin sửa sang luật lệ kiện tụng, xin truy tôn bậc tiên Nho, xin sửa lại thể thức làm văn. Ông lại điều trần về việc binh, việc dân, chúa đều khen ngợi và nghe lời. Qua một tháng, ông được sai ra trấn Lạng Sơn. Bấy giờ hạt Lạng Sơn đói vì mất mùa, dân 7 châu phần nhiều đi nơi khác và chết đói ngoài đường. Khi ông đến, tìm cách cấp cứu. Rồi chiêu dụ dân lưu tán về khai khẩn ruộng hoang, tự mình đôn đốc việc cày bừa để khuyến khích dân biên giới. Đến vụ gặt mùa lúa tốt lắm. Do đó trộm giặc tiêu tan, trong hạt yên ổn. Khi việc tuần phòng rỗi rãi, ông lại nhởn nhơ nơi núi khe, tìm chốn thanh u, dò nơi hiểm trở, không có chỗ nào ông không đến. Ở phía Bắc trấn thành cách sông, ông mở mang động Nhị Thanh làm cảnh trí rất lạ. Khi việc quan thong thả ông thả thuyền tới động, leo lên bậc đá ngâm thơ, uống rượu; thật là hứng thú, phóng khoáng... *Trần Thị Băng Thanh: Ngô Thì Sĩ vốn là một người hăng hái làm việc. Ông thấu được rằng quyền lợi kẻ ăn lộc nước gắn bó mật thiết với cuộc sống yên lành của "dân đen"... Ngô Thì Sĩ cũng là người đưa ra nhiều dự án, đề nghị sửa đổi về các mặt: thuế khoá khai hoang, chỉnh đốn văn thể, thay đổi chính sách, chấn chỉnh các cấp quan liêu... Ông mong muốn "vua làm hết phận vua, tôi làm hết phận tôi" để cứu vãn tình trạng bê bối của xã hội Bắc Hà đương thời, nhưng rất tiếc ở hoàn cảnh ấy, ý muốn hay tài năng một cá nhân không dễ gì xoay chuyển nổi cục diện...

Là một chính khách, một quan chức, nhưng bên cạnh đó, ở Ngô Thì Sĩ còn nổi bật lên một tư chất khác, đó là một tâm hồn nghệ sĩ, một con người đa cảm. Ở ông, mọi rung động đều mãnh liệt, sâu sắc. Ông luôn nhìn thấu tâm tư con người và cảm thông cùng họ, từ những bâng khuâng vì một duyên cớ mơ hồ đến những trăn trở, day dứt về số phận, cuộc sống...

Với nội dung và số lượng phong phú của hơn 2.000 trang tác phẩm, Ngô Thì Sĩ đã là một tác gia lớn không chỉ của dòng họ Ngô Thì. Ông đã đóng góp nhiều tư liệu quý qua hai bộ sử Tiền biên, Tục biên đồng thời còn là một ngòi bút bình luận sử, bình luận văn chương sắc sảo, nhiều ý kiến mới và giàu chất trữ tình qua Việt sử tiêu án.

Ngô Thì Sĩ sáng tác nhiều, nhưng tựu trung có thể quy vào bốn đề tài lớn: nông thôn; kẻ sĩ, quan chức; tình yêuhạnh phúc gia đình. Bốn mảng đề tài đó trong văn học các thế kỷ trước cũng đã được đề cập đến, nhưng đặc sắc riêng của Ngô Thì Sĩ là cách lý giải, nhìn nhận.

Tài năng Ngô Thì Sĩ được tạo thành từ nhiều nguồn... tuy nhiên, điều kiện quan trọng nhất để Ngô Thì Sĩ có được sự nghiệp trước tác phong phú là tinh thần lao động nghiêm túc, say mê và tính năng động, sáng tạo trong học tập. Tất cả những điều đó cũng xuất phát từ một tấm lòng yêu dân, yêu đất nước, một tấm lòng đôn hậu, giàu tinh thần nhân ái. Ngày nay xem xét toàn bộ cuộc đời hoạt động và trước tác của Ngô Thì Sĩ, xem xét những đóng góp của ông trên các lĩnh vực chính sự và trước tác, có thể khẳng định ông là một nhân cách đẹp, một nhà văn, một nhà sử học có nhiều cống hiến, lãnh tụ của Ngô gia văn phái và là một trong không nhiều nhân vật lớn, tiên phong của thế kỷ 18. *Nguyễn Lộc: Trong những công trình trước tác của Ngô Thì Sĩ, đáng chú ý hơn cả là quyển Việt sử tiêu án. Ông soạn sách này nhằm mục đích sửa chữa lại những sai lầm trong sử cũ. Trong sách, nhiều ý kiến của ông khá xác đáng, thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc, được các nhà sử học đời sau, trong đó có Phan Huy Chú trích dẫn lại.

Về sáng tác thơ văn, hầu hết viết bằng thể thơ Đường luật, thỉnh thoảng mới có bài theo thể cổ phong, thể phú... Nội dung phần lớn viết về những phong cảnh ở những nơi ông có dịp đặt chân tới, không có gì thật đặc sắc. Ngoài đề tài thiên nhiên, ông dành riêng tập Khuê ai lục để viết về nỗi đau khổ của ông trước cái chết của người vợ thứ. Lời thơ thống thiết, xúc động. Về văn, ông có bài Cách tệ sách (Sách trừ tệ nạn) cũng đáng chú ý. Trong bài này, ông trình bày rất rõ tình cảnh khổ cực, đói nghèo, lưu tán của nhân dân lúc bấy giờ do nhiều nguyên nhân gây ra như chiến tranh, nạn hà hiếp cướp bóc của cường hào, thiên tai mất mùa và đề nghị phương hướng giải quyết tình trạng ấy. *Tạ Ngọc Liễn: Qua hàng loạt các bài biểu, bài khải... chứng tỏ ông là nhà chính trị có tầm nhìn xa rộng, có tâm huyết và có nhiều ý tưởng cải cách nền chính sự đương thời với mong muốn làm cho xã hội ổn định, nhân dân được sống, lao động yên vui.

Trên lĩnh vực sử học, ông là một sử gia nổi tiếng, vì có tinh thần làm việc cẩn trọng, có ngòi bút sinh động, có nhiều phát hiện mới và có suy nghĩ riêng. Trong Ngô gia văn phái, có nhiều người viết sử tài ba, và ông chính là người mở đầu cho truyền thống ấy của dòng họ Ngô Thì. Về thơ cũng như văn xuôi, dù bàn chuyện chính sự hay bộc lộ tình cảm trữ tình, ngòi bút của ông thường khoáng đạt, đa dạng và hướng vào đời sống thực, ít dùng lối ước lệ, tượng trưng… Riêng ở văn, tính lạc quan, tính hài hước cũng là một phong cách văn chương của Ngô Thì Sĩ. Về quan niệm sáng tác, ông cho rằng văn chương phải thiết thực, hữu dụng, mới mẻ và có cốt cách riêng. Ông đả phá lối thơ chuộng hình thức, phù phiếm...

Đúc kết lại, Ngô Thì Sĩ là một tác giả có nhiều bài thơ trữ tình, ngâm vịnh cảnh thiên nhiên, ca ngợi lòng ưu ái nhân hậu. Ông còn là người đi trước trong loại văn hồi ức, tự truyện, đã đưa lại cho văn học trung đại Việt Nam một nét trữ tình mới. Ông cũng có nhiều trang điều trần, ghi chép sắc sảo, in đậm phong cách nghị luận và ý thức chấn chỉnh, đổi mới đất nước.

Tài liệu liên quan

Trịnh Doanh, và sau này cả Trịnh Sâm, đều quý trọng tài thơ văn của Ngô Thì Sĩ. Có lần Trịnh Doanh giao cho các quan trong ban Văn làm bài phú về Chu Công, riêng Ngô Thì Sĩ, chúa đã sai Trung sứ chờ lấy từng đoạn đem về phủ cho chúa đọc, lại sai người thỉnh thoảng đem hoa quả ban cho...

Tuy văn chương sắc sảo, nhiều ý tứ mới lạ nhưng vì phóng khoáng, không theo khuôn phép nên mấy lần đi thi, khảo quan đều nhận ra văn bài của ông, cố tìm ra lỗi dù rất nhỏ để truất bỏ. Chúa Trịnh Doanh một đôi lần bắt phúc khảo nhưng việc đã rồi nên không thể sửa chữa được. Về sự việc này Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút chép như sau: :Đầu đời Cảnh Hưng (1740-1786) có ông Ngô Thì Sĩ nổi tiếng là bậc hay chữ, bị bọn quan đương thời ghen ghét, khi đến thi Hội các khảo quan dò xét hễ thấy quyển nào giọng văn hơi giống thì bảo nhau: "Quyển này hẳn là khẩu khí Ngô Thì Sĩ", thế là họ hết sức bới móc đánh hỏng đi. Trịnh chúa Nghị Tổ (Trịnh Doanh) biết có thói tệ ấy nên khi thi cử xong rồi, truyền đem quyển hỏng của Ngô Thì Sĩ ra duyệt lại. Các khảo quan bấy giờ, nhiều người bị truất phạt, nhưng vẫn không cấm chỉ được cái tệ ấy. Khoa Bính Tuất (1766), Ngô công bị bệnh tả, vào trường đệ tứ, cố làm qua loa cho xong quyển. Khảo quan chấm quyển bảo nhau: "Quyển này làm văn thì luyện đạt lắm, đáng là văn Hội nguyên, nhưng văn khí hơi yếu, không phải giọng văn Ngô Thì Sĩ". Chấm đến quyển của ông Nguyễn Bá Dương lại bảo nhau: "Quyển này văn khí khác thường, giống giọng văn Ngô Thì Sĩ nhưng làm văn lại kém, Thì Sĩ tất không làm như thế". Vì họ hồ đồ không biết định quyển nào là văn Ngô Thì Sĩ mà đánh hỏng nên Thì Sĩ mới đỗ Hội nguyên".

Nghi vấn

Theo Trần Văn Giáp và Trần Thị Băng Thanh, thì Ngô Thì Sĩ mất sau lần đi công cán trên ải Nam Quan trở về vào nằm nghỉ trong động Nhị Thanh, có lẽ là do bị cảm lạnh. Nhưng có sách lại cho rằng Ngô Thì Sĩ đã uống thuốc độc chết.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: :Trước khi Ngô (Thì) Nhậm tố cáo cơ mưu của Trịnh Khải, có đem bàn với cha là Ngô (Thì) Sĩ. Ngô (Thì) Sĩ cố sức ngăn... Đến khi hay tin Ngô (Thì) Nhậm đã tố cáo, Ngô (Thì) Sĩ buồn bực mà uống thuốc độc tự tử. Ngô (Thì) Nhậm, vì có công tố giác, được thăng làm Hữu Thị lang bộ Công, nhưng thiên hạ lúc ấy lại có câu rằng: "Sát tứ phụ nhi Thị lang", nghĩa là "giết bốn người cha mà làm Thị lang".

Sách Lê quý dật sử chép tương tự: :...(Ngô Thì) Sĩ thấy con bè đảng xu phụ Tuyên phi (Đặng Thị Huệ), vu khống Thế tử, ông bất bình, ra sức khuyên ngăn, nhưng (Ngô Thì) Nhậm không nghe, ông phẫn uất uống thuốc độc tự tử... (Sau vụ án) cất nhắc Ngô Thì Nhậm làm Công bộ Tả Thị lang, vì tố cáo Thế tử (Trịnh Khải) nên được ban thưởng, thăng vượt cấp bảy lần. Chép khác có Hoàng Lê nhất thống chí. Theo sách này, chỉ có một mình Nguyễn Huy Bá đứng ra tố giác, còn Ngô Thì Nhậm thì đã có lời khuyên Nguyễn Khắc Tuân phải hỏa tốc về kinh can ngăn Trịnh Khải dừng lại cơ mưu, nhưng không được nghe. Đến khi ông Tuân bị bắt giam, ông Nhậm định tìm cách gỡ tội, nhưng vì việc tang (cha mất) nên phải về.

Để sáng tỏ vấn đề này cần phải nghiên cứu thêm.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngô Thì Sĩ** hay **Ngô Sĩ** (chữ Hán: 吳時仕, 1726 - 1780), tự **Thế Lộc**, hiệu **Ngọ Phong** (午峰), đạo hiệu **Nhị Thanh cư sĩ**, là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
**Ngô Thì Trí** (1766-?) là một danh sĩ thời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Thì Trí** là người ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh
**Ngô Thì Nhậm** hay **Ngô Thời Nhiệm** (chữ Hán: ; 25 tháng 10 năm 1746 – 1803) là một tu sĩ Phật giáo, danh sĩ, nhà văn đời Hậu Lê và Tây Sơn, có công
**Ngô Thì Ức** (; 1709-1736), hiệu: _Tuyết Trai cư sĩ_; là danh sĩ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là tác giả đầu tiên có tên trong Ngô gia văn phái.
**Ngô Thì Đạo** (1732-1802), hiệu: _Ôn Nghị_ và _Văn Túc_; là danh sĩ và là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Thì Đạo** sinh năm Nhâm Tý
**Ngô Thì Du** (chữ Hán: 吳時悠, 1772-1840) là nhà văn và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Thì Du** tên tự là _Trưng Phủ_, hiệu là _Văn Bác_,
**Ngô Thì Hoàng** (1768-1814), còn có tên là **Tịnh**, hiệu là **Huyền Trai**, biệu hiệu là **Thạch Ổ cư sĩ**; là một danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 trong
**Ngô Thì Hương** (; 1774-1821) còn có tên là **Vị** (位), tự **Thành Phủ** (成甫), hiệu **Ước Trai** (箹齋); là nhà văn Việt Nam ở cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. ##
**Ngô Thì Chí** (吳時俧, 1753 - 1788) là nhà văn Việt Nam ở thế kỷ 18 thời Lê trung hưng ## Tiểu sử **Ngô Thì Chí** tên chữ là **Học Tốn**, hiệu là **Uyên Mật**,
**Ngô Thị Liễu** (30 tháng 5 năm 1905 – 6 tháng 6 năm 1984) là một nghệ sĩ tuồng Việt Nam. Bà là Giám đốc đầu tiên của Nhà hát Tuồng Việt Nam, một trong
**Ngô Thị Mận** (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1948) là một sĩ quan cấp Trung tá của Công an nhân dân Việt Nam, bà là phu nhân của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí
**Ngô Thì Điển** (吳時典), tự **Kính Phủ**, hiệu **Tĩnh Trai**; là nhà thơ Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19. ## Tiểu sử **Ngô Thì Điển** là người
**Ngô Thị Hoàng Yến** là nữ sĩ quan cấp cao, tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Bà hiện giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Hồ sơ
**Ngô Thị Minh** (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1964) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nguyên là Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. ## Xuất thân Bà quê
**Ngô Thị Thanh Hằng** (sinh ngày 27 tháng 4 năm 1960) là một chính khách Việt Nam. Bà nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, nguyên Phó
**Ngô** (chữ Hán phồn thể: 吳; chữ Hán giản thể: 吴; Hangul: 오; Latin: "Ng", "Wu", "O", "Oh") là một họ người phổ biến tại Trung Quốc, Việt Nam, và Triều Tiên. Tại Việt Nam
**Ngô gia văn phái** (, thế kỷ XVIII - thế kỷ XIX) có 2 nghĩa: # Là một nhóm các nhà văn Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện
**Đại Việt sử ký tiền biên** là bộ sử biên niên gồm 17 quyển, viết bằng chữ Hán do Ngô Thì Sĩ biên soạn, Ngô Thì Nhậm hiệu đính. Bộ sử này được khắc in
**_Khuê ai lục_** (_Ghi nỗi đau buồn về chuyện phòng khuê_) là một sáng tác văn học của nhà sử học, nhà văn, nhà thơ Việt Nam Ngô Thì Sĩ. ## Giới thiệu sơ lược
**Ngô Xương Văn** (chữ Hán: 吳昌文; 934 – 965) là một vị vua nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ 950 đến 965, trong đó khoảng từ 951 – 954 ông
**Ngô Xương Xí** (chữ Hán: 吳昌熾), còn gọi là **Ngô Sứ quân** (吳使君), được chính sử ghi nhận là một trong những thủ lĩnh thời 12 sứ quân thế kỷ X. Nhiều tài liệu cho
THÔNG TIN THƯƠNG HIỆU SIÊU THỊ SỈ là Nhà phân phối chuyên sỉ & lẻ các mặt hàng thời trang và phụ kiện với giá gốc. Chúng tôi hân hạnh và luôn cố gắng để mang đến
THÔNG TIN THƯƠNG HIỆU SIÊU THỊ SỈ là Nhà phân phối chuyên sỉ & lẻ các mặt hàng thời trang và phụ kiện với giá gốc. Chúng tôi hân hạnh và luôn cố gắng để mang đến
**Ngô Thị Thanh Lịch** (sinh 6 tháng 8 năm 1938) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IV. ## Tiểu sử Ngô Thị Thanh Lịch quê ở thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện
**Ngô Thị Huệ** hay **Bảy Huệ** (sinh ngày 11 tháng 2 năm 1918 - mất ngày 5 tháng 6 năm 2022) là một trong 10 đại biểu nữ của Quốc hội Việt Nam khóa đầu
**Ngô Thị Doãn Thanh** (sinh năm 1957) là một chính khách Việt Nam. Bà từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Phó Trưởng Ban Dân vận
Vào thời nhà Lý, một vị tướng kiệt xuất trong lịch sử nước ta xuất hiện, đó là Lý Thường Kiệt. Là bậc võ tướng kỳ tài, ông đã thống lĩnh quân đội, bình Chiêm,
Vào thời nhà Lý, một vị tướng kiệt xuất trong lịch sử nước ta xuất hiện, đó là Lý Thường Kiệt. Là bậc võ tướng kỳ tài, ông đã thống lĩnh quân đội, bình Chiêm,
- Phủ biên tạp lục là một công trình sử học - địa chí về vùng đất Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn, từ 1558-1775. Đó là một khảo cứu có giá trị của
- Phủ biên tạp lục là một công trình sử học - địa chí về vùng đất Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn, từ 1558-1775. Đó là một khảo cứu có giá trị của
**_Việt Sử Tiêu Án_** (chữ Hán: 越史標案) là bộ sử viết bởi Ngô Thì Sĩ ở Đàng Ngoài, hoàn thành năm 1775. Tác phẩm đề cập đến lịch sử Việt Nam từ thời thượng cổ
**Sĩ Nhiếp** hoặc **Sĩ Tiếp** (chữ Hán: 士燮; 137 - 226) là Thái thú Giao Chỉ vào cuối đời nhà Hán. Qua giai đoạn Tam Quốc, ông cát cứ và cai trị Giao Châu như
**Ngô Tất Tố** (, 1893 – 20 tháng 4 năm 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn
**Nghệ sĩ chèo ở Việt Nam** là những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu chèo, gồm những nghệ sĩ chuyên nghiệp trong các nhà hát chèo và các nghệ nhân không
**Ngô Đạo Tử** (chữ Hán: 吴道子; 685-758) là họa sĩ lớn của Trung Quốc thời nhà Đường, người Dương Cù thuộc huyện Vũ, Hà Nam, Trung Quốc. Ông là một trong Mười vị thánh trong
**Nguyễn Thị Lộ** (chữ Hán: 阮氏路; 1400 (?) – 1442), là một nữ quan triều Lê sơ và là người vợ lẽ của Nguyễn Trãi, một danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
**Ngô Thị Mai Trang** (hay còn được biết đến với nghệ danh **Kiwi Ngô Mai Trang**, ## Sự nghiệp Kiwi Ngô Mai Trang tốt nghiệp ngành marketing tại Đại học Kinh tế. Năm 2004, cô
**Nguyễn Thị Ngọc Diễm** (chữ Hán: 阮氏玉琰, 1721-1784), là thứ phi của chúa Trịnh Doanh, mẹ Trịnh Sâm, bà nội của Trịnh Khải và Trịnh Cán. ## Tiểu sử ### Thân thế Bà có tên
**Quách Thị Hồ** (11 tháng 6 năm 1909 – 4 tháng 1 năm 2001) là một bậc thầy về ca trù và là danh ca ca trù nổi tiếng. Bà là người đầu tiên đưa
**Trần Thị Băng Thanh** (sinh 1938) là một nhà nghiên cứu văn học người Việt Nam. Bà được mệnh danh là "Bà đồ nho" với rất nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, viết sách,
**Ngô Thị Quắm** (sinh năm 1950), còn được biết tới với nghệ danh **Thanh Hoài** là nghệ sĩ chèo Việt Nam. Ngoài chèo, bà còn biểu diễn một số loại hình nghệ thuật dân gian
**Trần Quyết Lập** (12 tháng 12 năm 1974 – 17 tháng 3 năm 2016), thường được biết đến với nghệ danh **Trần Lập**, là một ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Việt Nam. Là trưởng
**Ngô Thế Linh** (1928-1999) là đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa, phó giám đốc Nha Kỹ thuật, là một nhân vật chính yếu của guồng máy tình báo Việt Nam Cộng hòa. ##
**Núi Tô Thị** (còn gọi là **núi Vọng Phu**) là một ngọn núi tại phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Trên đỉnh núi có tảng đá tự nhiên giống hình người
**Ngô Giáp Đậu** (1853-1929), hiệu **Tam Thanh**, biệt hiệu **Sự Sự Trai**, là nhà văn, nhà giáo và là sử gia đời vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Giáp
**Sĩ vọng** là một khoa thi nằm trong chế độ thi cử thời phong kiến, xuất hiện vào thời Lê Trung Hưng. Theo Lê Quý Đôn, khoa sĩ vọng còn được còn được gọi là
**Ngô Thiến** (, sinh ngày 26 tháng 9 năm 1992) là một nữ diễn viên người Trung Quốc. Cô tốt nghiệp Đại học Vũ Hán chuyên ngành diễn xuất năm 2010 và được biết đến
**Oh Se-hun** (, Hanja: 吴世勋, Hán-Việt: Ngô Thế Huân; sinh ngày 12 tháng 4 năm 1994), thường được biết đến với nghệ danh **Sehun**, là một nam ca sĩ, nhạc sỹ, diễn viên, người mẫu
**Ngô Thanh Vân** (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1979), hay còn được biết đến với nghệ danh **Veronica Ngo**, là một nữ diễn viên, ca sĩ, vũ công, người mẫu, nhà làm phim kiêm
**Ngô Chi Lan** (吳芝蘭; 1434 - 1497), biểu tự là **Quỳnh Hương** (瓊香), thường được gọi là **Kim Hoa nữ học sĩ** (金華女學士) hoặc **Phù Gia nữ học sĩ** (苻家女學士), là một nữ sĩ dưới