✨Sĩ Nhiếp
Sĩ Nhiếp hoặc Sĩ Tiếp (chữ Hán: 士燮; 137 - 226) là Thái thú Giao Chỉ vào cuối đời nhà Hán. Qua giai đoạn Tam Quốc, ông cát cứ và cai trị Giao Châu như một quốc gia độc lập từ 187 đến 226.
Do ông đã thực thi nhiều chính sách tiến bộ nên được hậu thế tôn làm Nam Giao học tổ (南交學祖), đến Nhà Trần lại sắc phong mỹ tự Thiện cảm Gia ứng Linh vũ Đại vương (善感嘉應靈武大王), một số các sử quan đánh giá cao gọi là Sĩ vương (士王).
Tên gọi
Tên gọi của ông trong thư tịch Hán văn cổ được ghi dưới hai dạng là "士燮" và "士爕". Hai chữ 燮 và 爕 có cùng âm đọc và ý nghĩa, chỉ khác nhau về tự dạng. 爕 là tục tự (thể chữ viết trái quy phạm và được lưu hành trong dân gian) của chữ 燮. Chữ 爕 khác với chữ 燮 ở chỗ nửa bên dưới của nó là chữ "hỏa" 火 chứ không phải là chữ "hựu" 又.
Xuất thân
Sĩ Nhiếp có tên biểu tự là Uy Ngạn (威彥), tổ tiên là người Vấn Dương nước Lỗ. Khi Vương Mãng thay ngôi Nhà Hán, tổ tiên Sĩ Nhiếp mới tránh loạn sang tỵ nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời.
Cha ông tên là Sĩ Tứ (士賜), làm thái thú quận Nhật Nam thời Hán Hoàn Đế, cho Sĩ Nhiếp về du học ở kinh sư, theo học Lưu Tử Kỳ người Dĩnh Xuyên, chuyên trị sách Tả Thị Xuân Thu. Sĩ Nhiếp đỗ hiếu liêm, được bổ Thượng thư lang, vì việc công bị miễn chức, rồi về chịu tang cha. Sau lại đỗ Mậu tài, bổ làm Huyện lệnh Vu Dương, sau đổi làm Thái thú ở quận Giao Chỉ, được tước Long Độ Đình Hầu (龍度亭侯), "đóng đô" ở Luy Lâu (thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay).
Sách Tam Quốc chí, Ngô thư quyển 4, Sĩ Nhiếp truyện chép về ông như sau:
Sĩ Nhiếp (chữ Hán: 士燮; tự: Uy Ngạn 威彥) là một quan lại và học giả người Giao Châu dưới thời Đông Hán. Ông quê ở huyện Quảng Tín, quận Thương Ngô (蒼梧廣信), tổ tiên vốn là người Vận Dương, nước Lỗ (汶陽, 魯國). Vào thời loạn Vương Mãng, gia tộc ông di cư đến Giao Châu để tránh chiến tranh.Đến đời thứ sáu, cha ông là Sĩ Tứ (士賜) từng giữ chức Thái thú quận Nhật Nam dưới triều Hán Hoàn Đế. Sĩ Nhiếp thuở nhỏ từng lên kinh đô học tập, theo học Lưu Tử Kỳ (劉子奇) người quận Dĩnh Xuyên, chuyên nghiên cứu bộ Tả thị Xuân Thu (左氏春秋).
Ông được tiến cử là hiếu liêm, sau đó được bổ nhiệm làm Thượng thư lang. Tuy nhiên, do liên quan đến công vụ, ông bị miễn chức. Sau khi mãn tang cha, ông được tiến cử là mậu tài, được bổ làm lệnh huyện Vu, rồi thăng chức làm Thái thú Giao Chỉ.
Sĩ Nhất (士壹) là em trai của Sĩ Nhiếp, từng giữ chức Đốc bưu quận (郡督郵) vào thời Đông Hán. Khi Thứ sử Giao Châu là Đinh Cung (丁宮) được triệu hồi về kinh đô, Sĩ Nhất đã theo hầu và phục vụ tận tụy, cung kính. Đinh Cung cảm kích trước sự trung hậu của ông, lúc chia tay có nói: “Nếu sau này ta được bổ nhiệm vào Tam công, ắt sẽ tiến cử khanh.”
Về sau, khi Đinh Cung được bổ nhiệm làm Tư đồ, ông đã thực hiện lời hứa và tiến cử Sĩ Nhất. Tuy nhiên, khi Sĩ Nhất đến nơi thì Đinh Cung đã bị bãi chức, người kế nhiệm là Hoàng Uyển (黃琬) – cũng giữ chức Tư đồ – lại rất trọng đãi và đối xử lễ độ với ông.
Khi Đổng Trác (董卓) gây loạn triều đình, Sĩ Nhất rời kinh, trở về quê nhà.
Theo Ngô Thư, Hoàng Uyển (黃琬) và Đổng Trác (董卓) có mối hiềm khích lẫn nhau. Sĩ Nhất (士壹), em trai của Sĩ Nhiếp, một lòng trung thành với Hoàng Uyển, nhờ đó mà danh tiếng của ông ngày càng vang xa. Đổng Trác vì ganh ghét nên đã ra lệnh viết chiếu: “Tư đồ duyện Sĩ Nhất không được bổ nhiệm hay cất nhắc.” Do đó, Sĩ Nhất bị đình trệ chức vụ trong nhiều năm.
Khi Đổng Trác tiến vào Quan Trung, Sĩ Nhất nhân cơ hội rời bỏ kinh thành, trở về quê nhà.
Lúc ấy, Thứ sử Giao Châu là Chu Phù (朱符) bị giặc man di sát hại, khiến tình hình châu quận hỗn loạn. Sĩ Nhiếp (士燮) bèn dâng biểu xin cho Sĩ Nhất đảm nhiệm chức Thái thú Hợp Phố. Người em kế là Sĩ Tô (士䵋), khi đó đang làm lệnh huyện Từ Văn, được bổ nhiệm làm Thái thú Cửu Chân (chữ 䵋 đọc là “ư bỉ” phản, tự là Lâm). Em út là Sĩ Vũ (士武) được giao giữ chức Thái thú Nam Hải.
Việc cai trị Giao Châu
Giữ yên Giao Châu
Năm 200 (Canh Thìn), Thứ sử Chu Phù (朱符) bị quân khởi nghĩa giết, châu quận rối loạn. Sĩ Nhiếp có ba em trai tên là Nhất (壹), Vĩ (䵋) và Vũ (武), bèn dâng biểu cho Nhà Hán cử Nhất làm Thái thú Hợp Phố, Vũ làm Thái thú Nam Hải. Sử cũ đều ca tụng Sĩ Nhiếp là vị quan tốt, rất có uy tín trong dân chúng.
Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư: :"Vương (Sĩ Nhiếp) độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là vương. Danh sĩ Nhà Hán tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm người".
Sĩ Nhiếp được đánh giá cao nhất bởi có công trong việc duy trì tình trạng hòa bình yên ổn ở Giao Châu trong suốt giai đoạn nội chiến Tam Quốc hết sức phức tạp tại Trung Quốc kéo dài hơn nửa thế kỷ. Chính tích đó giúp Sĩ Nhiếp gần như trở thành một vị vua tự trị của Giao Châu, thoát hẳn ra khỏi ảnh hưởng và mệnh lệnh của Nhà Hán, vốn chỉ còn là "bung xung" cho cuộc tranh giành của các tập đoàn phong kiến ở Trung Quốc. Điều đó thể hiện qua lá thư của Viên Huy (袁徽), vốn là quan Nhà Hán bấy giờ đang ở Giao Châu, gửi cho Thượng thư lệnh Nhà Hán là Tuân Úc (荀彧) năm 207. Lá thư viết: :"Giao Châu Sĩ phủ quân đã học vấn sâu rộng lại thông hiểu chính trị, trong thời buổi đại loạn, giữ vẹn được một quận hơn hai mươi năm, bờ cõi không xảy ra việc gì, dân không mất nghiệp, những bọn khách xa đến trú chân đều được nhờ ơn, dẫu Đậu Dung giữ đất Hà Tây cũng không hơn được. Khi việc quan có chút nhàn rỗi thì chăm xem các sách thư, truyện. Phàm những chỗ biên chép không rõ ràng trong sách Xuân Thu Tả Thị truyện, (tôi) đem hỏi, đều được ông giảng giải cho những chỗ nghi ngờ, đều có kiến giải của bậc thầy, ý tứ rõ ràng, chặt chẽ. Lại như sách Thượng thư, cả cổ văn và kim văn, những ý nghĩa to lớn, ông đều hiểu biết tường tận, đầy đủ. Anh em ông làm quan coi quận, hùng trưởng một châu, ở lánh ngoài muôn dặm, uy tín không ai hơn. Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết; kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi sát bánh xe để đốt hương thường có đến mấy mươi người; vợ cả, vợ lẽ đi xe che kín, bọn con em cưỡi ngựa dẫn quân theo hầu, người đương thời ai cũng quý trọng, các man di đều sợ phục, dẫu Úy Đà cũng không hơn được".
Nhà Đông Hán mất ngôi, Trung Quốc phân ra làm ba nước: Tào Ngụy, Thục Hán, Đông Ngô. Đất Giao Châu bấy giờ thuộc về Đông Ngô. Sĩ Nhiếp ở Giao Châu được 40 năm, nắm uy quyền thực sự, nhưng vẫn theo lệ triều cống Nhà Hán, và đến khi Nhà Hán mất thì lại triều cống nhà Ngô. Sau khi Sĩ Nhiếp mất, con là Sĩ Huy (士徽) tự xưng làm Thái thú. Ngô chủ là Tôn Quyền bèn chia đất Giao Châu, từ Hợp Phố về bắc gọi là Quảng Châu. Sai Lã Đại làm thứ sử Quảng Châu, Đái Lương làm thứ sử Giao Châu, và sai Trần Thì sang thay Sĩ Nhiếp làm Thái thú quận Giao Chỉ. Sĩ Huy chống cự, bị quân nhà Đông Ngô lừa bắt giết cả nhà.
Sĩ Nhiếp có 5 người con, trừ Sĩ Ngẩm tất cả đều bị Lữ Đại bắt giết: Sĩ Ngẩm Sĩ Chi Sĩ Huy Sĩ Cán *Sĩ Tụng
=== Quyền thế và truyền thuyết Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần, có dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư, viết thêm: :Năm Canh Thìn (200), một sự kiện khác đặc biệt đã xảy ra ở ngay giữa triều đình Nhà Hán. Sự kiện này gắn liền với tên tuổi của hai người. Một là Lý Tiến và hai là Lý Cầm. Lý Tiến là quan văn, được cử giữ chức thứ sử là chức trông coi toàn bộ các địa phương của nước ta lúc bấy giờ. Lý Cầm là quan võ bậc thấp, lúc ấy đang làm túc vệ là chức bảo vệ thường trực ở triều đình Nhà Hán. Hai người hoàn toàn khác nhau nhưng lại cùng họ Lý, và quan trọng hơn, cùng gắn với một sự kiện được sách Đại Việt sử ký toàn thư chép lại... Thế là nhân tài nước Việt ta được tuyển dụng tương tự như người Hán, bắt đầu từ Lý Tiến, Lý Cầm vậy. Nhà Hán hẳn nhiên chẳng vì lời tâu của Lý Tiến và Lý Cầm mà thay đổi cách tuyển dụng người, nhưng dẫu sao thì cũng đã phải buộc lòng ghi nhận. Nếu thiếu dũng khí, chẳng thể nói được những lời như Lý Tiến và Lý Cầm đã nói đâu. Sử cũ chép chuyện Trương Trọng ngay sau chuyện Lý Tiến và Lý Cầm, dẫu biết rõ Trương Trọng sống sau hai nhân vật họ Lý này đến hơn 100 năm, ấy là muốn chép cho liền mạch dũng khí mà trước đó Lý Tiến và Lý Cầm đã tạo ra đó thôi. Đưa ra nhiều tài liệu dẫn chứng, giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng, trong thực tế chính quyền Sĩ Nhiếp (từ 187), cũng như trước đó là Chu Phù (khoảng 180), là chính quyền Việt Nam độc lập. :Sử Trung Hoa chép rõ Chu Phù vứt điển huấn tiền thánh, bỏ pháp luật Hán gia. Còn đối với Sĩ Nhiếp, sử Hoa (Ngô chí) viết rằng: [Sĩ Nhiếp] tổ tiên vốn người Mấn Dương nước Lỗ, đến loạn Vương Mãng tị nạn Giao Châu, tới Nhiếp là sáu đời. Ông cho rằng một người có tổ tiên 6 đời ở Việt Nam thì đã "Việt Nam hóa", trở thành người Việt rồi. Cũng theo Ngô chí: Sĩ phủ quân (Sĩ Nhiếp) của Giao Chỉ học vấn đã ưu bác, lại thành công về chính trị, ở trong đại loạn, bảo toàn một quận hơn 20 năm, cương trường vô sự, dân không thất nghiệp, những bọn lệ thuộc đều được nhờ ân; Anh em Nhiếp đều là người hùng các quận, làm tướng một châu, riêng ở vạn lý, uy tôn vô thượng. Ra vào đánh chuông khánh, đầy đủ uy nghi, kèn sáo cổ xuy, xe ngựa đầy đường. Người Hồ theo sát đốt hương, thường có mấy mươi. Thê thiếp đi xe màn, tử đệ theo lính kỵ. Đương thời quý trọng, chấn phục trăm mọi. Úy Đà cũng không đủ hơn. Từ tài liệu trên, theo giáo sư Lê Mạnh Thát: Sĩ Nhiếp dẫu được đào tạo trong khuôn mẫu Trung Quốc, đã có những hành vi xa lạ với phong tục tập quán Trung Quốc. Nói rõ ra, ông đã được Việt hóa. Việc Ngô chí so sánh Sĩ Nhiếp với Triệu Đà cho thấy nền cai trị nước Việt thời bấy giờ độc lập tới mức nào. Thực tế có thể nói chính quyền độc lập đầu tiên sau chính quyền Hai Bà Trưng là chính quyền Chu Phù - Sĩ Nhiếp. Theo ông, dưới thời Sĩ Nhiếp, nước Việt đã có một nền nông nghiệp rất phát triển. Lúa Giao Chỉ mùa hè chín, nông dân một năm trồng hai lần (theo Kinh Dương dĩ nam dị vật chí). Một năm tám lứa kén tằm đến từ Nhật Nam (Văn tuyển 5 tờ 9b4). Nhiếp mỗi khi sai sứ đến Quyền đều dâng tạp hương, vải mỏng thường tới số ngàn. Món quý minh châu, sò lớn, lưu ly, lông thú, đồi mồi, sừng tê, ngà voi, các thứ vật lạ quả kỳ như chuối, dừa, long nhãn, không năm nào không đưa đến (Ngô chí 4 tờ 8b1-3 nói về những cống vật mà Sĩ Nhiếp gửi đến Tôn Quyền). Giáo sư Lê Mạnh Thát dẫn giải tiếp: Sau khi Sĩ Nhiếp chết (226), lúc ấy Tôn Quyền đã chiếm cứ phía Nam Trung Quốc để tranh hùng với Tào Tháo và Lưu Bị, nên nhân cái chết của Sĩ Nhiếp tiến hành thôn tính nước ta, lúc đó là một nước độc lập dựa trên điển huấn và pháp luật của người Việt. Con Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy nối nghiệp cha, chống lại Tôn Quyền, tuy nhiên do mất cảnh giác, nên đã thất bại, Sĩ Huy bị bắt và bị giết, Tôn Quyền chiếm nước ta. Nhưng do bị chống đối quyết liệt, nền cai trị của Tôn Quyền không bền vững và không lâu dài, vì chỉ 18 năm sau, Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt nổi lên khởi nghĩa giành lại chính quyền.