✨Trần Thuận Tông

Trần Thuận Tông

Trần Thuận Tông (chữ Hán: 陳順宗 1377 – 30 tháng 4 năm 1400) là vị hoàng đế thứ 12 và cũng là hoàng đế áp chót của triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1388 đến khi bị ép nhường ngôi năm 1398.

Thuận Tông nguyên là con út của Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, có tước Chiêu Định vương. Năm 1388, Thượng hoàng nghe lời người họ ngoại là Thái sư Lê Quý Ly bức tử vua Trần Phế Đế (cháu gọi Nghệ Tông bằng bác), lập con mình là Chiêu Định vương lên ngôi. Thuận Tông ở ngôi 11 năm nhưng chỉ ngồi giữ ngôi, chưa bao giờ nắm thực quyền trị nước. Mọi việc trong ngoài đều do Nghệ Tông an bài. Tuy nhiên trên thực tế, những ý kiến sắp đặt đó đều chịu ảnh hưởng từ Lê Quý Ly. Quý Ly, nhờ sự chống lưng của Nghệ Tông, đã cứng rắn loại bỏ những người chống đối, trong đó có nhiều thân vương, sĩ phu. Bên ngoài, triều đình phải đối mặt với nhiều cuộc khởi nghĩa của dân chúng và sự xâm lược của Chiêm Thành, tình hình chỉ tạm yên năm 1390 khi tướng Trần Khát Chân đánh tan quân Chiêm ở Hải Triều. Vua Chiêm Chế Bồng Nga chết tại trận.

Năm 1394, Thượng hoàng băng, Lê Quý Ly nắm toàn bộ quyền bính, ép Thuận Tông dời đô từ Thăng Long về Tây Đô, đồng thời thực hiện một số cải cách về khoa cử, ruộng đất, tài chính. Năm 1398, Quý Ly ép Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử An (2 tuổi) rồi đi tu Đạo giáo, đến năm 1400 sai người giết Thuận Tông. Một năm sau cái chết của Thuận Tông, Quý Ly chính thức phế bỏ nhà Trần, lập ra triều Hồ.

Thân thế

Trần Thuận Tông tên thật là Trần Ngung (陳顒), là con út của Trần Nghệ Tông, không rõ mẹ là ai. Ông sinh ra vào thời vua Trần Phế Đế; Nghệ Tông lúc này đã làm Thái thượng hoàng. Ông được Nghệ Tông phong là Chiêu Định Vương (詹定王). Minh thực lục gọi ông là Trần Nhật Hỗn (陳日焜).

Cai trị

Quyền lực rơi vào tay Quý Ly

Năm 1372, vua Trần Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính, tức vua Trần Duệ Tông, Nghệ Tông làm Thái thượng hoàng. Năm 1377, vua Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành bị thua chết. Thượng hoàng lập con Duệ Tông là Trần Phế Đế lên ngôi. Năm 1388, do Phế Đế muốn trừ khử Quý Ly, Quý Ly xui Nghệ Hoàng phế bỏ. Ngày 6 tháng 12, Nghệ Hoàng lập ông lên ngôi, xưng làm Nguyên Hoàng (元皇).

Hồ Quý Ly tiếp tục chuyên quyền, sau khi gả con gái là Hồ Thánh Ngâu (黎聖偶) cho ông lại gài tay chân thân tín nắm giữ những chức vụ then chốt trong quân đội và trong triều đình, khiến cho triều đình nằm cả trong tay Quý Ly.

Chiến tranh và bất ổn trong nước

Người ở Thanh Hóa theo Nguyễn Thanh làm loạn, người ở Nông Cống là Nguyễn Kỵ cũng tụ họp bè đảng đi cướp. Đáng chú ý nhất là nhà sư Phạm Sư Ôn ở Quốc Oai, Sơn Tây đã khởi binh tiến đánh kinh sư khiến cho Nghệ Hoàng và Thuận Tông cùng triều đình bỏ chạy lên Bắc Giang. Phạm Sư Ôn giữ kinh đô 3 ngày rồi rút về Quốc Oai, sau bị tướng Hoàng Phùng Thế đánh, bắt được.

Năm 1389, chúa Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân đánh Đại Việt, Nghệ Hoàng sai Quý Ly và Nguyễn Đa Phương đi đánh nhưng đánh không thắng. Năm 1390, Thượng tướng Trần Khát Chân được Thượng hoàng sai đi đánh Chiêm, đem binh đóng ở Hải Triều (vùng Hưng Nhân,Thái Bình và Tiên Lữ, Hưng Yên). Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa, hàng tướng của Chiêm Thành cho Khát Chân biết dấu hiệu thuyền của Chế Bồng Nga. Khát Chân cho quân tập trung mọi loại vũ khí bắn vào thuyền đó, giết được Chế Bồng Nga, quân Chiêm đại bại, hai người con của Chế Bồng Nga về hàng Đại Việt, được triều đình trọng dụng.

Họa xâm lấn của Chiêm Thành tạm yên, Hồ Quý Ly càng lộng hành, những người không ăn cánh đều bị Quý Ly xúi bẩy Nghệ Hoàng giết hại, trong đó có nhiều hoàng tử thân vương. Sĩ phu có người dâng sớ tâu với Nghệ Hoàng mưu đồ dòm ngó cơ nghiệp nhà Trần của Quý Ly thì Nghệ Hoàng lại đem cho Quý Ly xem, từ đó không ai dám tâu bày gì nữa.

Đến ngày 15 tháng 12 năm 1395, Nghệ Hoàng chết, Hồ Quý Ly lên làm Nhập nội phụ chính Thái sư bình chương quân quốc trọng sự, tự xưng làm Tuyên Trung Vệ Quốc Đại Vương (宣忠衛國大王), đeo lân phù vàng.

Hồ Quý Ly chi phối triều chính

Thuận Tông Hoàng đế lên ngôi còn nhỏ tuổi, mọi việc trong ngoài đều không nắm được, tất cả đều do Nghệ Hoàng quyết định. Sau khi Nghệ Hoàng băng, Hồ Quý Ly nhân đó lãnh quyền lực tối cao. Hồ Quý Ly cho chép thiên Vô dật trong Kinh thư, có ý khuyên Hoàng đế không nên nhàn rỗi mà phải lo nghiên cứu học tập, sửa mình.

Năm 1396, Thuận Tông Hoàng đế xuống chiếu định lại cách thi cử nhân, dùng thể văn bốn kì thay cho thể ám tả cổ văn. Cụ thể là:

  • Kì 1: thi một bài kinh nghĩa trên 500 chữ.
  • Kì 2: thi một bài Đường luật, một bài phú trên 500 chữ.
  • Kì 3: thi một bài chiếu chữ Hán, một bài chế, một bài biểu.
  • Kì 4: thi một bài văn sách trên 1000 chữ.

Thuận Tông lại cho phát hành tiền giấy, lệnh cho mọi người đem tiền đồng đến quy đổi, 1 quan tiền đồng được 1,2 quan tiền giấy.

Năm 1397, Hồ Quý Ly ép Thuận Tông rời đô về An Tông phủ Thanh Hóa. Nguyễn Nhữ Thuyết có thư can rằng: "An Tôn là đất chật hẹp hẻo lánh, cuối nước đầu non, nên với loạn mà không nên với trị, chỉ cậy hiểm được thôi". Nhưng Quý Ly không nghe, quyết định dời đô, đổi trấn Thanh Hóa thành Thanh Đô (清都), trấn Quốc Oai thành Quảng Oai, Đà Giang thành Thiên Hưng, định quan chức ở các lộ, phủ, bổ nhiệm các chức tổng quản, thái thú.

Lê Quý Ly còn hạ lệnh cho các lộ phủ đặt học quan, cho ruộng công theo thứ bậc khác nhau chi phí cho nhà học, hạn chế ruộng đất tư hữu, trừ các đại vương và trưởng công chúa, còn lại chỉ có số nhất định, thừa nộp cho nhà nước. Tình hình phương Nam lúc này cũng tạm ổn do các tướng Chiêm, trong đó có Chế Đa Biệt đem cả nhà sang hàng.

Bị ép nhường ngôi

Năm 1398, Hồ Quý Ly ép Thuận Tông ngường ngôi cho Thái tử Trần An, lên làm Thái thượng hoàng và khuyên ông đi tu theo Đạo giáo. Chiếu nhường ngôi viết: :Trẫm trước vốn mộ đạo, không có bụng làm vua, không có đức mà tạm giữ ngôi thực khó làm nổi. Huống chi bệnh thần kinh thường phát ra, thờ cúng và chính sự đều không làm được. Lời thề nguyền trước trời đất quỷ thần đều nghe. Nay nên nhường ngôi để vững nghiệp lớn, Hoàng thái tử Án có thể lên ngôi hoàng đế. Phụ chính Thái sư Lê Quý Ly là Quốc tổ Nhiếp chính. Trẫm tự làm Thái thượng Nguyên quân Hoàng đế, tu dưỡng ở cung Bảo Thanh để thỏa chí xưa.

Thái tử An lên ngôi, tức là Trần Thiếu Đế, mẹ là Khâm Thánh Hoàng hậu trở thành Hoàng thái hậu. Thuận Tông Hoàng đế được tôn hiệu là Thái Thượng Nguyên quân Hoàng đế (太上元君皇帝).

Qua đời

Năm 1398, sau khi nhường ngôi cho con Hồ Quý Ly ép Thuận Tông phải đi tu đạo ở quán Ngọc Thanh, thôn Đạm Thủy. Vào ngày 30 tháng 4, năm 1400, sau khi lên ngôi chưa lâu thì Quý Ly lại mật sai Nội tẩm học sinh Nguyễn Cẩn đi theo để giám sát vua cũ ở quán Ngọc Thanh là chỗ ông tu hành. Sau đó Quý Ly làm bài thơ bảo Cẩn đưa cho ông, với 4 câu: :Tiền hữu dung ám quân, :Hôn Đức cập Linh Đức. :Hà bất tảo an bài, :Đồ sử lao nhân lực. Dịch là: :Trước đó vua hèn ngu, :''Hôn Đức và Linh Đức :Sao không sớm liệu đi, :Để cho người nhọc sức? Cẩn bèn dâng thuốc độc. Thuận Tông không chết, lại dâng nước dừa và không cho ăn mà vẫn không chết. Sau đó Hồ Quý Ly sai tướng Phạm Khả Vĩnh thắt cổ ông chết và chôn ông ở lăng Yên Sinh, miếu hiệu là Thuận Tông. Năm đó ông mới 23 tuổi. Cuộc đời của ông được nhận xét là khá giống với vua Lý Huệ Tông khi chính ông đã bị Đại thần bức tử chết.

Sử thần Lê Tung thời Lê Tương Dực đã nhận xét Trần Thuận Tông trong bài Đại Việt Thông giám Tổng luận:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Thuận Tông** (chữ Hán: 陳順宗 1377 – 30 tháng 4 năm 1400) là vị hoàng đế thứ 12 và cũng là hoàng đế áp chót của triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trận Thuận Xương** (chữ Hán: 顺昌之战: _Thuận Xương chi chiến_) là một trận đánh diễn ra vào năm 1140, thuộc chiến tranh Kim – Tống trong lịch sử Trung Quốc. Tướng Tống là Lưu Kỹ
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Trần Nhân Tông** (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là **Trần Khâm** (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
**Thuận Tông** (chữ Hán: 順宗) là miếu hiệu của một số vị quân chủ: * Đường Thuận Tông Lý Tụng, tại vị 805 * Bột Hải Thuận Tông Đại Kiền Hoảng, tại vị 857-871 *
**Trần Dụ Tông** (chữ Hán: 陳裕宗) 22 tháng 11 năm 1336 – 25 tháng 5 năm 1369) là vị hoàng đế thứ 7 của triều đại nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi 28 năm
nhỏ|Tiền thời Trần Hiến Tông. **Trần Hiến Tông** (chữ Hán: 陳憲宗 17 tháng 5 năm 1319 – 11 tháng 6 năm 1341) là vị hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Trần trong lịch
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trần Khát Chân** (chữ Hán: 陳渴真; 1370–1399) là một tướng lĩnh Đại Việt cuối thời Trần. Ông nổi bật với việc chỉ huy quân đội Việt chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành,
**Huy Chân Công chúa** (輝真公主) hay **Trinh Thục phi** (貞淑妃) Trần Thị Ngọc Hiền (còn có tên khác là Ngọc Dung, Ngọc Huyên) (1377 - ?) là một vị Công chúa nhà Trần và là
**Trần Hãng** (; ?-1399), đôi khi gọi là **Trần Nguyên Hãng** (), là một tông thất và đại thần nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là cháu gọi Trần Minh Tông là ông
**Trần Phế Đế** (chữ Hán: 陳廢帝; 6 tháng 3 năm 1361 – 6 tháng 12 năm 1388), hiệu **Giản Hoàng** (簡皇), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Trần nước Đại Việt. Ông ở
**Hành chính Việt Nam thời Trần** hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như
**Lê Thuần Tông** (chữ Hán: 黎純宗 16 tháng 3 năm 1699 – 5 tháng 6 năm 1735) là vị Hoàng đế thứ 13 của triều Lê Trung hưng nước Đại Việt, đồng thời là Hoàng
**Trần Thuấn Du** (陳舜俞, 1402 - 1481), nguyên họ _Trần_ nhưng vì _Trần_ là tên húy của mẹ vua Lê Thái Tông nên đổi là _Trình_; là quan nhà Lê sơ, và là nhà thơ
**Kinh tế Đại Việt thời Trần** phản ánh những vấn đề liên quan tới chính sách và hoạt động kinh tế vào thời nhà Trần (1225-1400) trong lịch sử Việt Nam. ## Nông nghiệp ###
**Tiền tệ thời Trần** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Trần (1225-1400) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế - xã
**Trần Thiếu Đế** (chữ Hán: 陳少帝; 1396 - 1400?) là vị hoàng đế thứ 13 và là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Lúc Thiếu Đế
**Tôn giáo Đại Việt thời Trần** về cơ bản cũng giống như thời Lý, có ảnh hưởng lớn của Phật giáo. Tuy nhiên so với thời Lý, Nho giáo ngày càng có vai trò lớn
**Trần Ngạc** (陳𩖃; 1357 - 1391) là một hoàng tử của triều đại nhà Trần tại Việt Nam, con trai của Trần Nghệ Tông, cha của Trùng Quang Đế. ## Cuộc đời Long Khánh nguyên
**Giáo dục và khoa cử thời Trần** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. ## Hệ thống
**Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯慈順天皇后, 1216 - 1248), là vị hoàng hậu thứ hai của Trần Thái Tông - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần. Bà là mẹ của
**Trần Liễu** (chữ Hán: 陳柳; 1210 - 1251), hay **An Sinh vương** (安生王) hoặc **Khâm Minh Đại vương** (欽明大王), một tông thất vương công thuộc hoàng tộc nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Thuận Hóa** (順化) là địa danh hành chính cũ của vùng đất bao gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng và phía bắc Quảng Nam. Đây nguyên là đất các châu Bố Chính, Địa
**Thuận Thành** là một thị xã nằm ở phía nam sông Đuống thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam. Trung tâm thị xã nằm tại phường Hồ. Trên địa bàn thị xã có Chùa Dâu là
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Trần Tự Khánh** (chữ Hán: 陳嗣慶;1175 – 3 tháng 1 năm 1224), là một chính trị gia, viên tướng trứ danh thời kỳ suy vong của triều đại nhà Lý, người lãnh đạo chính thống
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
**Trận sông Dniepr** là một chuỗi các chiến dịch tấn công chiến lược của Quân đội Liên Xô trong giai đoạn mở đầu cho thời kỳ thứ ba của cuộc chiến tranh Xô-Đức, đồng thời
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Võ thuật tổng hợp** hay **Võ thuật tự do** (Tiếng Anh: _mixed martial arts_, viết tắt **MMA**), đôi khi còn được gọi với cái tên **đấu lồng**, là một môn thể thao đối kháng toàn
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
**Trận Hà Nội đông xuân 1946-47** là sự kiện khởi động Chiến tranh Đông Dương giữa các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Minh) và tập đoàn quân viễn chinh Pháp từ
**Trần Quang Khải** (chữ Hán: 陳光啓; 24 tháng 08 năm 1241 – 26 tháng 7 năm 1294), hay **Chiêu Minh Đại vương** (昭明大王), là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Trần Quốc Khang** (chữ Hán: 陳國康, 1237 – 1300), được biết đến qua phong hiệu **Tĩnh Quốc vương** (靖國王) hay **Tĩnh Quốc đại vương** (靖國大王), là một hoàng tử nhà Trần trong lịch sử Việt
**Trần Hồng Tiến** () (914-985), tự **Tế Xuyên** (濟川) là một quân phiệt vào cuối thời Ngũ Đại Thập Quốc, ông kiểm soát Thanh Nguyên quân. Sau khi triều Tống chinh phục nhiều lãnh thổ,
**Hậu Trần** (chữ Nôm: 茹後陳, chữ Hán: 後陳朝, Hán Việt: _Hậu Trần triều_) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam từ 1407 đến 1414 mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách