✨Trận Đại đồn Chí Hòa

Trận Đại đồn Chí Hòa

Trận Đại đồn Chí Hòa, hay còn được gọi là Trận Đại đồn Kỳ Hòa, là một trận đánh xảy ra tại Sài Gòn, Nam Kỳ vào 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, và đến khoảng 8 giờ tối ngày hôm sau thì kết thúc. Đại đồn do Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương trấn giữ đã bị quân Pháp chiếm mất. Sau lần đại bại này, triều đình nhà Nguyễn từ chủ trương "thủ để hòa" chuyển sang "chủ hòa", khiến cho đất đai của Đại Nam cứ mất dần vào tay thực dân Pháp.

Bối cảnh

Năm 1860, những rắc rối trong việc bang giao với Trung Quốc khiến chính phủ Anh và Pháp phải mở một cuộc viễn chinh mới tại quốc gia đó. Do vậy, tất cả lực lượng Pháp tại Viễn Đông liền được dùng vào cuộc chiến, nên không những quân Pháp phải triệt thoái khỏi Đà Nẵng mà tại Sài Gòn chỉ còn để lại một đội quân nhỏ (khoảng 800 người) lo việc phòng thủ.

Theo GS. Nguyễn Thế Anh thì khi đó, chính phủ Pháp đã muốn rút quân ra khỏi Việt Nam, nhưng khi nghe tướng Charles Rigault de Genouilly biện hộ và Bộ trưởng Bộ Hải quân Pháp là Chasseloup Laubat tán đồng, thì chính phủ Pháp liền thay đổi quyết định. Vì thế ngay khi hòa ước Bắc Kinh được ký kết ngày 25 tháng 10 năm 1860, vua nước Pháp là Napoléon III liền cử Đề đốc Léonard Charner thống lĩnh toàn bộ quân Pháp ở Viễn Đông, để hoàn thành nhanh việc chiếm cứ Nam Kỳ. Và mục tiêu đầu tiên của viên tướng này là phải tấn công Đại đồn Chí Hòa, vì đây là một vật cản lớn cần phải phá bỏ để có thể tiến chiếm các nơi khác...

Lúc ấy, ngay khi nhậm chức ở Nam Kỳ, Nguyễn Tri Phương đã cho người dò la. Biết rõ đối với súng đạn có sức tàn phá rất mãnh liệt của người Pháp, quân Việt dù đông, dù can đảm tới đâu cũng không thể giáp chiến được, ông lựa chọn chiến lược nửa công nửa thủ, tức dựng chiến lũy để bảo vệ quân Việt Nam khỏi súng địch và bao vây dần quân Pháp. Ông truyền lệnh xây nhiều pháo đài và đắp lũy ở phía Bắc Sài Gòn.

Quân Pháp bị vây chặt tới nỗi trong 6 tháng liền không nhận được tin tức gì từ Pháp. Tuy có đôi lần quân Việt giành được thắng lợi, nhưng cũng không thể diệt nổi quân Pháp là vì súng đạn họ tinh xảo và bắn được xa hơn. Kể lại đôi lần chiến thắng này, nhà văn Phan Trần Chúc viết: :''Sau khi bao vây được quân Pháp, Nguyễn Tri Phương cho quân liều chết dưới mưa đạn để hãm đồn Cây Mai. Trong đêm 3 và 4 tháng 7 năm 1860, 3.000 quân của ông đã anh dũng chiếm được một đồn lũy do Đại úy người Tây Ban Nha Fernandez chỉ huy với 100 lính Tây Ban Nha và 60 lính Pháp. Trong tháng 11 cùng năm, quân Pháp lại tấn công dữ dội các pháo đài ở Gia Định nhưng quân nhà Nguyễn đã đánh lui được đối phương khiến quân Pháp bị thiệt hại... Được tin thắng trận, vua Tự Đức tiếp tục ban thưởng cho các tướng sĩ ngoài mặt trận...

Lực lượng đôi bên

Về phía Pháp

Theo Trần Văn Giàu, tính chung đội quân viễn chinh vừa kể trên với số quân có sẵn tại Sài Gòn khoảng 800 người, thì lực lượng của Pháp chỉ có khoảng 5.000 quân với khoảng 50 chiến thuyền các loại.

Về phía Việt Nam

Phía Pháp (theo Léopold Pallu) nói ở Chí Hòa, quân Việt có tới 21.000 quân chính quy, 10.000 quân Đồn điền và ở Biên Hòa có 15.000 quân từ miền Trung vào. Nhưng theo GS. Trần Văn Giàu, chắc quân chính quy không đông như thế. Vì khi Pháp đánh Đà Nẵng, gần sát kinh đô mà quân triều đình ở đó chỉ có 3.200 người, thì ở Gia Định xa xăm, không thể có hơn 2 vạn được. Dân quân thì đông, chắc chắn như vậy. Sở dĩ Pháp "tăng" số quân của Nguyễn Tri Phương, trước hết là để tăng giá trị trận đánh của họ.

Kế hoạch hành binh của Pháp

Theo GS. Trần Văn Giàu, kế hoạch hành binh của quân Pháp như sau: Dàn đại bác theo phòng tuyến các chùa, chiến thuyền đậu từ sông Rạch Cát qua sông Bến Nghé và sông Thị Nghè, tất cả đều nhắm vào Đại đồn. Đại quân bộ sẽ từ chùa Cây Mai đánh bọc phía tây nam, là phía yếu nhất của Đại đồn, cắt đứt Đại đồn với kho lương ở Thuận Kiều, và dồn quân Việt chạy về phía sông Gò Vấp để chặn đánh. Bố trí chiến thuyền ngăn viện binh từ Biên Hòa xuống, và ngăn quân Việt rút chạy lên đó. Thủy quân ở cánh đông bắc cùng bộ binh ở cánh tây nam sẽ bao vây và tiêu diệt đại quân Việt trong khoảng giữa ba sông, là Thị Nghè, Gò Vấp và Bến Nghé. đại để như sau: Mấy ngày trước khi giao chiến, Đề đốc Hải quân Leonard Charner đã giao cho Đại úy Hải quân De Surville điều khiển các chiến hạm neo dọc sông Sài Gòn. Trung tá Crouzat thì được lệnh tìm đường tiến quân, và sau khi tìm được lối đi phía bên trái đồn Cây Mai đã cho hai đại đội lính đến san phẳng, dưới hỏa lực của quân đối phương. Trên bộ, các đội lính viễn chinh khác bố trí dọc theo sông Đồng Nai để cầm chân quân Việt... *Sau khi tất cả các cánh quân đã được bố trí xong, vị Tổng tư lệnh là tướng Charner liền quyết định thời điểm tấn công Đại đồn Chí Hòa là ngày 24 tháng 2 năm 1861.

Diễn biến

[[Charles Rigault de Genouilly, hình chụp khoảng năm 1870.]] Sau mấy tuần chuẩn bị và sau khi nghe Đại tá Crouzat phúc trình công tác thám thính Đại đồn xong, 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, được lệnh của Đề đốc Charner, đại bác của Pháp từ "phòng tuyến các chùa" và trên các tàu đều nhắm vào Đại đồn Chí Hòa mà bắn. Đại bác của quân Việt từ Đại đồn rộ lên đáp trả. Hai bên đánh nhau bằng đại bác tới sáng.

Từ vùng chùa Cây Mai, Đề đốc Charner, Thiếu tướng De Vassoigne và Đại tá Palanca (Tây Ban Nha) dẫn quân tiến lên cùng với pháo nhẹ. Quân Việt trong đồn Hữu bắn cản lại. De Vassoigne và Palanca đều bị thương. Đại bác Pháp liền bắn khoảng 500 phát vào đồn Hữu, rồi cho bộ binh tấn công chiếm đồn. Phía Việt cho voi xông ra ứng chiến, nhưng đội quân voi tỏ ra không mấy hiệu quả trước đại bác, súng trường…

Hai bên đánh nhau đến tối, nhưng Pháp chỉ mới tiến được một cây số, còn hai cây số nữa mới đến được Đại đồn. Đêm đến, hai bên đều ngưng chiến. Năm giờ sáng hôm sau, quân Pháp tràn lên tấn công, xáp được gần Đại đồn. Song cách vách thành trăm thước thì gặp rất nhiều cạm bẫy, hào ụ, nên tiến rất chậm. Quân Pháp lúc này bị bắn chết và bị thương rất nhiều.

Tuy vậy, quân Pháp vẫn quyết dùng thang và đứng trên vai nhau mà trèo lên vách đồn. Trên đồn và trong các lỗ châu mai, quân Việt bắn chém dữ dội. Phần lớn các thang tre của Pháp vác theo đều bị đánh gãy, nhưng cuối cùng vẫn có một số lính Pháp vào được Đại đồn. Hai bên xông vào đánh giáp lá cà, giành giật nhau từng khu vực một.

Chống chọi được một lúc, tướng Nguyễn Tri Phương bị mảnh đại bác trúng bụng, phải ra lệnh rút quân về đồn Thuận Kiều. Ngày 28 tháng 2, Pháp tấn công Thuận Kiều, Đại tá Crouzat bị thương, nhưng quan quân phải bỏ đồn Thuận Kiều, bỏ cả đồn Tây Thới mà chạy tán loạn về Biên Hòa, mất hầu hết khí giới và lương thực. Riêng Trương Định rút về Gò Công tiếp tục kháng Pháp... Cây Mai đã bắn được một giờ rồi; và các toán quân Việt cũng đã kéo nhau dàn ra các ngả đường để phòng ngự.'' :(Trên đường), đại pháo do ngựa kéo bất thần nhả đạn vào đồn Redoute (sử Việt ghi là Đồn Hữu). Đối phương lập tức đốt khói để che và mặc dầu súng nhỏ và các điều kiện quân sự thua thiệt, họ vẫn kháng cự quyết liệt... Pháo binh chịu trận trước tiên; chỉ trong vài phút, nhiều pháo thủ và ngựa bị trúng đạn… mặc dù tầm đạn của ta chính xác, liên tục và ưu thế hơn, nhưng sức kháng cự của bọn An Nam không bị đánh tan cũng không nao núng chút nào. :Thương vong của ta tăng lên; Đại tướng de Vassoigne, Đại tá Tây Ban Nha Palanca Gutierrez, Chuẩn úy Lesèble và Thượng sĩ Joly bị thương nặng. Thủy sư Đề đốc (Léonard Charner) bèn trực tiếp cầm quân và ra hiệu lệnh... Khi các quân lính Pháp đầu tiên nhảy được vào bên trong, trên các bệ bắn phía sau tường, thì họ thấy quân An Nam thối lui mang theo giáo mác, súng lớn và súng tay của họ. Quân An Nam lùi lại một bước thế thôi, gần như thản nhiên, giống như những người thợ đang làm việc rồi ngưng tay; thật quả là lạ lùng, mặc dù tình thế cấp bách vì cả một đạo quân đang trèo lên tường để tràn vào; chỉ có một số thật ít bỏ chạy mà thôi. Trong mấy phút sau là họ rút về phía đại quân có cờ đuôi nheo phấp phới bên trong thành Kỳ Hòa. :''Trong trận đánh ngày 24 tháng 2 này, quân An Nam chấp nhận đối đầu bằng đại pháo với ta tuy họ yếu kém nhưng không thấy lòng can trường của họ bị sứt mẻ hay nao núng một chút nào cả: nhiều xác chết rải rác dọc theo tường phòng thủ cho thấy hiệu quả của súng nòng có khía của ta. Nhưng khi quân ta xung phong, tiến thẳng vào họ, thì họ thối lui nhưng không chạy, khoảng cách vẫn còn nhìn thấy nhau. Chuyện này cũng thấy ghi trong các phúc trình về những trận đánh trước đây ở Sài Gòn và Touranne. :...Suốt đêm đó thật yên lặng, hai bên không có một tiếng súng nào. Năm giờ sáng (ngày 25 tháng 4), pháo binh lên ngựa, mỗi người đều vào hàng ngũ của mình... Mười giờ tất cả đạo quân đã vào vị trí, cách xa mặt bắc của thành Kỳ Hòa khoảng hai cây số. Hai cánh quân đánh bộ hai bên, giữa là pháo binh. (Khi hai bên) thôi đánh chiêng và cũng ngưng đánh trống, các đại pháo trong thành Kỳ Hòa bắn ra, vang rền, tiếng nổ của súng địch có cường độ giống nhau nên rất dễ nhận, tiếng các quả đạn xé gió rít lên rồi im bặt, không có một tiếng động nào khác... :...Tiếng súng của đối phương, lúc đầu thưa thớt, dần dần nhặt hơn. Súng bắn mạnh và chính xác, nhất là về hướng bắn thì rất đúng. Quân An Nam có lợi thế hơn vì mặt trời chiếu thẳng vào mắt quân Pháp. Pháo binh vừa đạt vị trí 1.000 thước đã thấy có thiệt hại. Đã có người và ngựa chết hoặc bị thương; một xe tải đạn có một bánh xe vỡ tan tành từng mảnh. Trung tá Crouzat thúc quân kéo súng rất nhanh đến vị trí 500 thước, rồi 200 thước; ở vị trí gần này tránh bớt được nhiều bất lợi do bị mặt trời chiếu vào mắt... Hai bên bắn nhau kịch liệt... Trên ruộng không có chỗ nào ẩn núp, chỉ biết đưa thân cho súng đạn. Thiệt hại đã khá rõ. Chỉ còn biết lợi dụng vào chiến thắng vừa đạt được hôm qua khích động quân sĩ để họ xông lên... Thủy sư Đề đốc (Léonard Charner) ra lệnh cho hai cánh quân tiến lên. :Sau khi vượt qua được 6 hàng hầm chông và 2 hào sâu, quân Pháp đến được bờ đất dựa tường thành thì hai bên lại đánh nhau kịch liệt nhất, chưa từng thấy giữa người An Nam và người Âu châu. Quân sĩ nào mà leo lên được tường thành, thì hoặc dùng thang, hoặc trèo lên vai các đồng đội, hoặc níu vào các cọc thấp của các bàn chông, họ bị bắn ngay trước mặt, hoặc bị nồi lửa của địch ném phỏng mặt mày, hoặc bị giáo đâm lọt ra ngoài. Những người trèo lên trước nhất trên tường thành, và trước khi bị đánh bật trở xuống, đều thấy một cảnh tượng khác hẳn khi trèo lên tường ngày hôm trước: bên trong trên bệ đứng bắn đầy lính phòng ngự, kẻ thì mang súng dài, kẻ thì mang giáo hay súng ngắn, rình quân ta bên ngoài trèo vào... :Ngay vào lúc ấy, tình thế trở nên nghiêm trọng, thì có lệnh ném lựu đạn. Hai mươi quả được ném ra... (Rồi) ba lính thủy ném được móc câu dính cứng phía bên trong của tường thành. Bọn quân An Nam tháo gỡ không được vì vướng chà gai... Ba quân lính chui qua trước, một thuộc tàu Renommée, bị giết ngay; hai người kia thì bị thương. Cả ba bị xô ngược ra phía sau và rớt xuống hào. Quân lính khác theo sau, trèo lên tường rồi nhảy xuống thềm đứng bắn bên trong, thềm thì trơn trợt vì máu me linh láng. Dọc chân tường la liệt xác quân An Nam bị giết vì mảnh đạn bộc phá hay bị bắn. :Quân An Nam ngưng đánh vì thấy rào gai bị phá thủng, rút xa vài phút trước khi quân Pháp ập vào, họ rút lui rất trật tự, thật chậm dọc theo bờ tường thành. Một nhóm quân lính của ta rượt theo, nhưng không ăn thua gì; vì địch quân rút hết vào một lớp thành khác trước khi quân Pháp đuổi tới... :(Khi liên quân theo vào, giao tranh đã xảy ra càng ác liệt)... vì thế trong cái khoảng trống thảm thương này ngập tràn xác chết và bị thương... (Cuối cùng) tất cả quân An Nam người nào chạy không kịp đều bị giết sạch; trận chiến chấm dứt bằng một cảnh tượng tàn sát...

Thiệt hại

Đề đốc Hải quân Charner, hình vẽ khoảng năm 1880. Trích báo cáo của Pháp: :Quân ta (Pháp) gồm 4.000 quân đã tấn công thành lũy. Chúng ta đã chiếm được thành nhưng Thiếu tướng Vassivigne bị 1 viên đạn bắn trúng cánh tay. Đại tá Palanca người Tây Ban Nha bị 1 viên vào bắp chân, nhiều sĩ quan khác bị trọng thương. Người Nam có súng tốt và dũng cảm hơn người Tây nhiều... Theo báo cáo của Đề đốc Charner ngày 27 tháng 2 năm 1861 thì phía quân Pháp có 12 người chết, 213 người bị thương. Nhưng theo Léopold Pallu, sĩ quan phụ tá của Đề đốc Charner thì con số chết và bị thương là 19 người tử trận, trong đó có 5 viên sĩ quan Pháp và khoảng 300 người bị thương. Và theo báo Le Mémorial d’ Asie phát hành tháng 2 năm 1861, thì con số thiệt hại của Pháp là 16 người chết, 299 người bị thương, trong số đó có Thiếu tướng De Vassoigne, Đại tá Palanca, Đại tá Crouzat đều bị trọng thương, Trung tá thủy quân lục chiến Testard chết ở bệnh viện... Bên quân Việt, khoảng 1.000 người chết và bị thương, trong số đó có Tham tán Phạm Thế Hiển, Lang trung Nguyễn Duy, Tán tương Tôn Thất Trĩ đều tử trận và Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương thì bị thương nặng. Ngoài ra, Đại đồn còn bị đối phương chiếm mất 2.000 súng bắn đá lửa, 2.000 kg thuốc súng, 150 trọng pháo các cỡ và rất nhiều lương thực...

Nhận xét

Bốn ngôi chùa bị quân Pháp chiếm làm đồn lính (màu vàng) nhằm tạo thành "chiến tuyến các ngôi chùa" (lignes des pagodes) để chuẩn bị tấn công [[Đại đồn Chí Hòa (màu cam).]] Bản đồ Sài Gòn và phòng tuyến Kỳ Hòa cùng với diễn tiến các cuộc tấn công trong ngày 24 và 25 tháng 2 năm 1861. GS. Trần Văn Giàu viết: :Tuy có chủ trương "vừa công vừa thủ", nhưng không hơn gì Tôn Thất Hiệp, Thống tướng Nguyễn Tri Phương vẫn án binh bất động, chỉ khác một điều là ông tập trung sức lực quân dân (khoảng 30.000 người) không phải vào việc đánh mà vào việc xây dựng Đại đồn Chí Hòa nhằm bao vây địch chặt chẽ hơn, tính không cho địch bung ra rộng hơn nữa. :''Nguyễn Tri Phương và các võ quan, văn quan cao cấp của triều đình lúc bấy giờ, mang nặng "võ khí chủ nghĩa". Họ hốt sợ trước vũ khí bắn xa mạnh và đúng cùng tàu to của đối phương. Họ đâu có biết rằng yếu tố quyết định là lòng dân, là tinh thần binh sĩ... (Tổng tập, tr. 81). Và Đại đồn thiếu cao thừa rộng, mặt thì yếu, mặt thì mạnh, địch dễ leo vào đánh xuyên hông, đánh bọc hậu... Công trình này xây dựng gần một năm với công sức của mấy vạn quân và dân, chỉ bảo vệ được hơn một ngày thì mất!... Đại đồn Chí Hòa, biểu hiện chiến lược phòng thủ tai hại của tướng Nguyễn Tri Phương!... Sách Lịch sử Việt nam: 1858 - cuối thế kỷ 19 có đoạn: :Việc hệ thống phòng ngự ở Đại đồn tan vỡ và Gia Định bị Pháp chiếm đóng hoàn toàn, đã chính thức tuyên cáo sự thất bại của chủ trương "lấy chủ đợi khách, nên dùng kế trì cửu để cho họ mỏi". Cho nên, sau vụ chấn động đó, triều đình Huế sẽ từ "thủ để hòa" chuyển sang "chủ hòa", để cho Pháp lần lượt chiếm đóng Định Tường (15 tháng 4 năm 1861), rồi sau đó là Biên Hòa (7 tháng 1 năm 1862) và Vĩnh Long (23 tháng 3 năm 1862). Nhà văn Phan Trần Chúc cho rằng: :"Cái thua của ta không phải vì thiếu lòng can đảm hy sinh, cũng không phải vì thiếu tướng tài điều khiển hoặc thiếu chiến lược ứng dụng với tình thế. Sự bại trận của Nguyễn Tri Phương là lẽ dĩ nhiên vì kỹ thuật chiến tranh của Pháp tiến bộ đến giai đoạn cơ khí ở thế kỷ 19 mà quân ta thì dùng các khí giới về thời phong kiến. Cự địch với đại bác, thần công, súng trường, lựu đạn... quân ta chỉ mang nào gươm, nào giáo, nào súng hỏa mai và một tấm lòng... Trích trong các sách báo nước ngoài:

  • Nhà báo Pháp Maxim Vauvert viết trong tạp chí Monde Illustré ngày 20 tháng 4 năm 1861 đã ghi nhận: :Họ (quân nhà Nguyễn) xây dựng ở đồn Kỳ Hòa những chiến lũy vĩ đại, dựa theo 1 dãy pháo đài kiên cố, diện tích chừng 12 km. Tất cả những thành lũy bài trí khéo léo và có 1 đại đội binh mã chống giữ... mỗi ngày người Việt Nam lại dựng thêm chiến lũy mới để bao vây quân Pháp.
  • Một sĩ quan Pháp đã từng tham dự cuộc công kích Chí Hòa là Phillippe Aude đã viết trong 1 bức thư ngày 28 tháng 3 năm 1861: :Những chiến lũy mà người Việt Nam dựng lên rất kiên cố đều bằng đất sét cốt tre... Quân Việt Nam rất can đảm… cũng như lòng khinh thường trước cái chết… Trong khi giao chiến họ dùng giáo, thứ khí giới này chỉ đâm được quân địch cách 4 thước, đó là 1 lối tự vệ rất can đảm, đến quân Tàu cũng chưa bao giờ nghĩ đến.
  • Một viên tướng khác trong quân đội Pháp cũng đã khen ngợi Nguyễn Tri Phương: :Thấy phương pháp dụng binh của Nguyễn Tri Phương, người ta phải tin rằng vị nguyên soái anh hùng của nước Nam đã biết phương lược xây dựng lối pháo đài tạm thời như Totleben ở Sébastopol, Denfert Rochereau ở Belfort, Osman Pacha trong trận Plevna. Quân Pháp cũng nhận xét: Thành lũy của Nguyễn Tri Phương dựng mau như nấm mọc, hễ chỗ nào có lối đi là có ngay chiến lũy ngăn cản.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Đại đồn Chí Hòa**, hay còn được gọi là **Trận Đại đồn Kỳ Hòa**, là một trận đánh xảy ra tại Sài Gòn, Nam Kỳ vào 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm
phải|nhỏ|Đại đồn Chí Hòa trên bản đồ Sài Gòn – Gia Định năm 1861 **Đại đồn Chí Hòa** (gọi tắt là Đại đồn) nằm ở làng Chí Hòa thuộc Gia Định xưa. Vào thời kỳ
**Trần Đại Quang** (12 tháng 10 năm 1956 – 21 tháng 9 năm 2018 Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương và Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên từ 2011 đến 2016. Trần Đại
**Biên niên sử Thành phố Hồ Chí Minh** ghi lại các sự kiện lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh theo thứ tự thời gian. ## Thế kỷ 18 ***1782** **Thảm sát Chợ Lớn 1782
**Nhân Hòa** (chữ Hán giản thể: 仁和区, Hán Việt: _Nhân Hòa khu_) là một quận thuộc địa cấp thị Phàn Chi Hoa, tỉnh Tứ Xuyên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này có diện
**Đông Khu** (chữ Hán giản thể: 东区, Hán Việt: _Đông khu_) là một quận thuộc địa cấp thị Phàn Chi Hoa, tỉnh Tứ Xuyên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này có diện tích
**Tây Khu** (chữ Hán giản thể: 西区, Hán Việt: _Tây khu_) là một quận thuộc địa cấp thị Phàn Chi Hoa, tỉnh Tứ Xuyên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này có diện tích
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Trần Văn Đôn** (1917-1998) nguyên là một cựu tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan Trừ bị ở Pháp, sau đó được
**Trận Định Tường** hay **Pháp đánh chiếm Định Tường** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 trong lịch sử Việt Nam, xảy ra từ ngày 26 tháng 3 năm 1861 và kết thúc
**Trận Biên Hòa** hay **Pháp đánh chiếm Biên Hòa** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 xảy ra từ ngày 14 tháng 12 năm 1861 và kết thúc vào ngày 7 tháng Giêng
**Trần Đại Nghĩa** (13 tháng 9 năm 1913 – 9 tháng 8 năm 1997) là một Giáo sư, Viện sĩ, kỹ sư quân sự, nhà bác học, Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam,
**Trận sân bay Biên Hòa năm 1967** diễn ra vào tối ngày 11 tháng 5 khi trung đoàn pháo phản lực 724 của Quân đội Nhân dân Việt Nam sử dụng 54 khẩu ĐKB bắn
Trong quá trình xâm lược Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19, quân Pháp đánh chiếm thành Vĩnh Long cả thảy hai lần. Trận đầu diễn ra từ ngày 20 cho đến ngày 23 tháng
**Trường Trung học Phổ thông chuyên Trần Đại Nghĩa** (tiếng Anh: _Tran Dai Nghia High School for the Gifted_), cũng được gọi với biệt danh **_Trần Chuyên_** hay tên viết tắt **TĐN**, là một trường
**Trận Nhựt Tảo** đã diễn ra vào ngày 10 tháng 12 năm 1861 tại vàm sông Nhật Tảo, nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, Việt Nam. Sau trận nghĩa
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Trần Văn Thức** (sinh ngày 20 tháng 12 năm 1969) là nhà giáo dục, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Bí thư
**Trường Đại học Văn hoá - Nghệ thuật Quân đội (ZNH)** trực thuộc Tổng cục Chính trị - Quân đội Nhân dân Việt Nam của Bộ Quốc phòng là trường đại học chuyên đào tạo
[[Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang.]] **Trần Đại Quang** là Chủ tịch nước thứ 8 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 2 tháng 4 năm 2016 đến
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
Tượng đài Trần Văn Thành tại thị trấn Cái Dầu ([[Châu Phú, An Giang)]] **Trần Văn Thành** (1820 - 1873) còn được gọi là **Quản cơ Thành** (theo triều Nguyễn), Đức Cố Quản (tín đồ
Trong đại số tuyến tính, một ma trận vuông A được gọi là **chéo hóa được** hay **không khiếm khuyết** nếu nó đồng dạng với một ma trận đường chéo, tức là tồn tại một
Trường Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Trần Đại Nghĩa (Viết tắt: TDN) được thành lập theo Quyết định số 2154/QĐ-UBND ngày 28 tháng 08 năm 2008 của UBND tỉnh Khánh Hòa. Trụ sở đóng
thumb|right|Ma trận chuyển vị **A**T của ma trận **A** có thể có được bằng cách đảo các phần tử của nó theo đường chéo chính. Lặp lại bước trên đối với ma trận chuyển vị
**Trần Húc** (tiếng Trung giản thể: 陈旭, bính âm Hán ngữ: _Chén Xù_, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1963, người Hán) là nữ học giả điện tử học, chính trị gia nước Cộng hòa
nhỏ|Trung tá Bichot vào năm 1883. **Justin Bichot** (29 tháng 10, 1835 - 1908) là một tướng lĩnh người người Pháp. Ông chỉ huy quân đội Pháp trong chiến tranh Pháp - Đại Nam. ##
nhỏ|Bản đồ tiêu nước biểu thị vùng Đại Bồn địa bằng màu vàng nhỏ|Các định nghĩa khác nhau về vùng Đại Bồn địa **Đại Bồn địa** hay **Lòng chảo lớn** (tiếng Anh: _The Great Basin_)
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Trận Poltava** (, ), còn gọi là **Trận đánh Pultowa**, là trận đánh lớn diễn ra vào ngày 27 tháng 6 năm 1709 theo lịch Julius giữa hai đoàn quân hùng hậu: Quân đội Nga
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Trận Ia Đrăng** là một trong những trận lớn đầu tiên giữa liên quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa-Quân đội Hoa Kỳ và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Trận Đồi Thịt Băm** hay **trận A Bia** là tên gọi của trận chiến giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với Quân đội Mỹ từ ngày 10
**Trận Austerlitz** (còn gọi là **Trận Ba Hoàng đế** hay **Trận Tam Hoàng**), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoléon. Trận đánh xảy ra
**Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc**, hay thường được biết đến với cái tên **Chiến tranh năm 1812**, là một cuộc chiến giữa các lực lượng quân đội Hoa Kỳ và quân đội Đế
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
Ngày 22 tháng 5 năm 2011, các cử tri Việt Nam đã tham gia cuộc Bầu cử Đại biểu Quốc hội để chọn 500 đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII từ 827 ứng
**Trận đồi C1**, mở màn ngày 31 tháng 3 năm 1954, là một trong những trận đánh quan trọng trong giai đoạn 2 và 3 của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của Quân
**Trận đồi A1** là trận đánh mở màn ngày 31 tháng 3 năm 1954, là một trong những trận đánh quan trọng trong giai đoạn 2 và giai đoạn 3 của chiến dịch Điện Biên
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
**Đại số** là một nhánh của toán học nghiên cứu những hệ thống trừu tượng nhất định gọi là cấu trúc đại số và sự biến đổi biểu thức trong các hệ thống này. Đây
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Luân Đôn** (; ) là thủ đô kiêm thành phố lớn nhất của Anh (England) và của cả Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (UK). Luân Đôn được người La Mã lập ra
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Mặt trận chính Bắc Tây Nguyên và mặt trận phối hợp Bắc Bình Định năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. ## Mặt trận chính Bắc
Chiến trường Quảng Trị năm 1972 **Mặt trận Trị Thiên Huế năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. Kết thúc năm 1972, với các diễn biến
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Trận Iwo Jima** (, , 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và