✨Trần Bá Tiên

Trần Bá Tiên

Trần Vũ Đế (chữ Hán: 陳武帝), tên thật là Trần Bá Tiên (陳霸先; 503 - 559) là vị vua đầu tiên, người sáng lập ra nhà Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.

Xuất thân

Trần Bá Tiên xuất thân nhà nghèo, ông trưởng thành dưới thời Lương Vũ Đế Tiêu Diễn. Thời trẻ, ông làm lý trưởng làng Hạ Nhược, huyện Trường Thành (nay là huyện Trường Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc).

Sau đó, ông được cất nhắc làm lại ở huyện Trường Thành, rồi theo thứ sử Quảng Châu nhà Lương là Tiêu Anh làm chức tham quân, sau đó là đô đốc Tây Giang, thái thú Vũ Bình.

Đại chiến nước Vạn Xuân

Lý Nam Đế

Năm 541, Lý Bí khởi binh ở Giao Châu, đuổi thứ sử Tiêu Tư, xưng là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân. Lương Vũ Đế mấy lần phái quân đi đánh đều bị thua trận.

Tháng 6 năm 545, Lương Vũ Đế phong Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, cử Trần Bá Tiên làm tư mã; thứ sử Định Châu là Tiêu Bột cùng họp với Dương Phiêu ở Tây Giang sai đi đánh nước Vạn Xuân. Tiêu Bột biết ý các tướng sĩ sợ phải đi đánh xa nên nói dối để Dương Phiêu ở lại. Dương Phiêu tập họp các tướng lại để hỏi mưu kế. Trần Bá Tiên nói:

:"Quan Thứ sử Định Châu muốn tạm an nhàn trước mắt, không nghĩ đến mưu kế lớn, túc hạ vâng mệnh vua đi đánh kẻ có tội, dù sống chết thế nào cũng không quản ngại, lẽ nào dùng dằng không tiến quân để nuôi cho thế giặc thêm mạnh mà làm cho quân mình nản chí hay sao ?".

Bá Tiên liền thúc quân mình đi trước. Dương Phiêu cử Bá Tiên làm tiên phong. Quân Lương đến Vạn Xuân, Lý Nam Đế mang quân ra đánh bị thua nặng, chạy sang thành Gia Ninh. Quân Lương tiến vây thành.

Mùa hạ năm 545 Phạm Tu giữ thành cửa sông Tô Lịch chống trả quyết liệt quân Lương, ngày 20 tháng 7 năm đó, Phạm Tu hy sinh ở trận tiền. Ít lâu sau thành bị vỡ.

Tháng giêng năm 546, thành Gia Ninh vỡ, Thái phó Triệu Túc tử trận, Lý Nam Đế chạy đi Tân Xương là vùng của người Lạo và chiêu mộ thêm được nhiều binh lính, uy thế lại tăng lên.

Tháng 8, Lý Nam Đế lại đem quân từ trong xứ người Lạo ra, đóng đồn ở hồ Điển Triệt. Quân Lương lo sợ, cứ đóng ở cửa hồ, không dám tiến. Trần Bá Tiên bảo các tướng: :"Quân ta ở đây đã lâu, mà lại không có quân tiếp viện. Bây giờ đã đi sâu vào trong nước người ta, nếu một trận đánh nào bất lợi, còn mong gì sống mà về được nữa? Chi bằng bây giờ nhân dịp quân địch đang thua luôn mấy trận, lòng người chưa cố kết, ta nên liều chết gắng sức quyết đánh bằng được. Nếu vô cớ cứ đóng ở đây thì việc hỏng mất!"

Các tướng nhà Lương không ai trả lời. Đêm hôm ấy, nước sông bỗng lên to đến bảy thước, chảy rót vào trong hồ. Trần Bá Tiên đốc thúc quân bản bộ mình theo dòng nước tiến đi trước. Quân Lương đánh trống, reo hò, kéo tràn vào. Quân Lý Nam Đế mới tập hợp, bị đánh úp nên tan vỡ.

Lý Nam đế lại rút lui về giữ trong động Khuất Lão, điều chỉnh binh lính, mưu tính chiến đấu về sau. Ông giao lại binh quyền cho Tả tướng quân Triệu Quang Phục.

Triệu Quang Phục

Anh Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo cùng với tướng cùng họ là Lý Phật Tử đem 3 vạn người vào Cửu Chân. Trần Bá Tiên đuổi theo đánh, Thiên Bảo bị thua, bèn thu nhặt quân còn sót được vạn người chạy sang đất người Di Lạo ở Ai Lao.

Triệu Quang Phục liệu thế không thể dùng sức thắng được Trần Bá Tiên, bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch ở huyện Chu Diên, là nơi cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín để cố thủ. Ban ngày, Triệu Quang Phục ra lệnh tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên đuổi theo hút mà đánh, nhưng không thể tiến sâu vào trong đầm lầy được.

Năm 548, trong lúc Trần Bá Tiên đang cầm cự với quân Vạn Xuân thì nước Lương có loạn, ông được lệnh mang quân về cứu Vua Lương.

Dẹp loạn Hầu Cảnh

Đến giữa thế kỷ 6, Trung Quốc thời Nam-Bắc triều chia làm 3 nước: phía nam là nhà Lương, phía bắc chia hai: nhà Tây Ngụy dưới tay quyền thần họ Vũ Văn và nhà Đông Ngụy dưới tay quyền thần họ Cao.

Hầu Cảnh là đại thần Đông Ngụy, phản Đông Ngụy theo Lương. Bất chấp nhiều lời can gián, Lương Vũ Đế vẫn thu nhận Cảnh. Cảnh lợi dụng mâu thuẫn giữa các con cháu Lương Vũ Đế muốn giành ngôi bèn phản Lương năm 548. Cảnh mang quân đánh chiếm Kinh thành Kiến Khang, vây Vũ Đế chết đói ở Đài Thành (Cung Thành, Nam Kinh) tháng 3 năm 549 rồi lập Tiêu Cương lên ngôi, tức là Lương Giản Văn Đế.

Năm 548 khi đang sắp sửa kéo quân về cứu giá Lương triều thì Bá Tiên được tin Thứ Sử Quảng châu là Nguyễn Cảnh Trọng đang bí mật chuẩn bị theo phe Hầu Cảnh. Thế là xung đột giữa Bá Tiên và Cảnh Trọng nổ ra công khai ngay lập tức. Năm 549, Bá Tiên đánh bại Cảnh Trọng và mời Tiêu Bột làm Thứ Sử Quảng Châu. Như thế là mặt phía Nam đã tạm ổn nên Bá Tiên lại tính đến chuyện Bắc tiến, nhưng ông vẫn biết rằng vẫn còn nhiều khó khăn trước mặt vì trên đường bắc tiến, nằm giữa châu Quảng và vùng núi rừng ở phía Bắc ngăn chia lưu vực sông Tích và sông Dương Tử, là châu Hàng. Khi Bá Tiên mang quân đánh Lý Bí năm vào 545 thì có Lan Khâm, thứ sử Hàng Châu và người phụ tá rất tin cậy của ông ta là Âu Dương Nguy đi theo. Khi Lan Khâm chết vì bệnh trên đường đi đến Giao Châu thì Âu Dương Nguy được phép đem thi thể Lan Khâm về Hàng Châu. Sau đó, Âu Dương Nguy được lệnh ở lại canh giữ Hàng Châu để các quan chức tháp tùng Bá Tiên bắc tiến đánh Hầu Cảnh.

Khi Hầu Cảnh giết được Lương Vũ Đế thì ở miền Nam, các quan chức địa phương tranh nhau nổi lên chiếm quyền và giành đất đai; trong số đó có Lan Dụ là em của Lan Khâm đã chết. Lúc đó Lan Dụ đang làm Thứ Sử Cao Châu và có ý rủ Âu Dương Nguy theo y làm phản nhưng Nguy từ chối. Thấy thế Lan Dụ bèn xua quân đánh Âu Dương Nguy ở Hàng Châu nhưng nhờ có Trần Bá Tiên kéo quân đến cứu nguy nên Lan Dụ bị đánh bại. Vì thế sau này Âu Dương Nguy đã giúp Trần Bá Tiên khi ông tiến qua vùng núi Hàng Châu để tiến đánh Hầu Cảnh.Trần Bá Tiên được lệnh mang quân về bắc cứu nạn. Hai bên giằng co trong mấy năm. Năm 551, Hầu Cảnh phế Giản Văn Đế tự xưng đế. Trần Bá Tiên mang quân đánh bại Hầu Cảnh, chiếm lại Kinh thành Kiến Khang. Năm 552, Hầu Cảnh thua trận bỏ chạy, giữa đường bị giết chết.

Tháng 11 năm 552, Trần Bá Tiên và các triều thần lập Hoàng thân Tiêu Dịch lên ngôi, tức là Lương Nguyên Đế. Nguyên Đế giao phó nửa phần phía Đông Trung Quốc, bao gồm cả kinh đô, cho hai vị tướng quân có uy thế nhất trong đó có Trần Bá Tiên; còn vua thì đóng đô ở thành Vũ Hán (Hán Khẩu).

Tình hình miền nam

Miền Nam thì vẫn trong tay Tiêu Bột, khu vực dưới quyền của Tiêu Bột trải dài ra gần 1.000 dặm, mà dân số đăng ký không quá 30.000 người. Năm 552, quyền của Tiêu Bột không ra khỏi giới hạn tỉnh Quảng Tây bấy giờ. Tuy là một người hợp tác cũ với Bá Tiên, nhưng Tiêu Bột lại không được Nguyên đế tin cẩn lắm vì thấy ông chiêu mộ và huấn luyện một đạo quân rất lớn. Hòng phá tan mối nghi ngờ của vua, Tiêu Bột đánh liều về triều yết kiến Nguyên đế và sẵn sàng trả lời bất cứ tội trạng nào mà ông bị cáo buộc nhưng Nguyên đế vẫn giả bộ làm ngơ như không biết ông là ai. Đến năm 554, Nguyên đế sai Vương Lâm, một vị tướng danh tiếng ở miền Bắc xuống thay Tiêu Bột. Vương Lâm trú đóng gần một năm nơi ở Quảng Tây. Khoảng giữa những năm 554-60, khu vực tỉnh Quảng Tây bây giờ lại phần lớn chịu ảnh hưởng Vương Lâm. Cảm thấy bị sức ép từ triều đình do việc bổ nhiệm và trú đóng của Vương Lâm nên Âu Dương Nguy ngày càng ngả theo ý định làm phản của Tiêu Bột. Khi ấy, Âu Dương Nguy đang cai quản Thủy Hưng một địa điểm chiến lược nằm trên đường từ Quảng Châu lên phía Bắc. Tuy nhiên tình hình căng thẳng giữa Vương Lâm và Tiêu Bột đột nhiên tắt ngấm vì Vương Lâm phải vội quay về Bắc do các biến cố quan trọng diễn ra trên đấy. Vương Lâm không quên để Lưu Nguyên Yển, một bộ hạ thân tínở lại Quảng Tây. Lưu Nguyên Yển là người được phong chức thứ sử danh dự Giao Châu.

Ngay sau khi Vương Lâm về Bắc thì Tiêu Bột tiếp tục củng cố sức mạnh quân sự. Cuối năm 555, khi Tiêu Bột đang củng cố địa vị ở miền Nam thì Lưu Nguyên Yển lại đem quân trở về Bắc để tìm gặp Vương Lâm. Năm 556, cả Tiêu Bột lẫn Âu Dương Nguy được Trần Bá Tiên thăng chức. Tuy nhiên đến đầu năm sau, khi Trần Bá Tiên đoạt ngôi nhà Lương và chính thức xưng đế nhà Trần, thì Tiêu Bột, vì thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Lương, đã thẳng thừng tuyên chiến. Tiêu Bột ở lại Thủy Hưng và sai Âu Dương Nguy đem quân lên Bắc để đánh tân vương là Trần Bá Tiên nhưng Âu Dương Nguy bị thua và bị bắt. Tin thua trận vừa về đến Thủy Hưng thì bộ hạ của Tiêu Bột vội vã thủ thân ai lo phận nấy. Trong số các bộ hạ này có Trần Pháp Vũ cựu Thứ Sử Hàng Châu và Thứ Sử danh dự Cửu Đức, đã làm phản và giết được Tiêu Bột. Cũng như trước đó Trần Bá Tiên với chức Thứ Sử danh dự Giao Châu, Lưu Nguyên Yển với chức thứ sử danh dự Giao Châu, Trần Pháp Vũ cũng giữ chức thứ sử danh dự Cửu Đức vào năm 557 mặc dầu ông ta chẳng bao giờ ở Cửu Đức, trừ thời gian theo Trần Bá Tiên đi đánh Lý Bí.

Chia ba thiên hạ

Dẹp được loạn Hầu Cảnh, Trần Bá Tiên được phong chức Tư không. Sau loạn Hầu Cảnh, nước Lương vẫn hỗn loạn. Các con cháu của Lương Vũ Đế đều muốn tranh quyền, người dựa vào Tây Ngụy, người dựa vào Bắc Tề (họ Cao đoạt ngôi Đông Ngụy năm 550). Tháng 2 năm 553, Thứ sử Ích Châu là Tiêu Kỷ phản Lương đánh Giang Lăng. Lương Nguyên Đế cầu cứu Tây Ngụy. Tây Ngụy nhân dịp bành trướng, bèn mang quân đánh Ích Châu giết Kỷ, rồi năm 554 đánh giết luôn cả Lương Nguyên Đế, lập tay sai Tiêu Sát làm Lương Vương ở Giang Lăng.

Trần Bá Tiên và đại thần Vương Tăng Biện là thông gia, không công nhận Tiêu Sát, lập con Nguyên Đế Tiêu Dịch là Tiêu Phương Trí (Lương Kính Đế) lên ngôi. Lúc đó Kinh thành Kiến Khang chịu sức ép của Bắc Tề, Vua Bắc Tề đưa Tiêu Uyên Minh về lên ngôi, Vương Tăng Biện chấp thuận, Tiêu Phương Trí bị đưa xuống làm Thái tử.

Trần Bá Tiên phản đối chấp nhận sự áp đặt của Bắc Tề, thành ra mâu thuẫn với Vương Tăng Biện. Tháng 9 năm 555, ông mang quân giết chết Tăng Biện, phế Uyên Minh và lập Phương Trí trở lại ngôi vua, tức là Lương Kính Đế. Phe cánh của Tăng Biện chạy sang nương nhờ Bắc Tề.

Trần Bá Tiên được phong làm Thượng thư lệnh, Đô đốc kiêm Thứ sử Nam Từ và Dương Châu. Vua Bắc Tề nghe tin con bài Tiêu Uyên Minh bị phế, bèn mang quân đánh Lương, tới Thung Sơn. Con rể Vương Tăng Biện là Đỗ Kham làm Thứ sử Ngô Hưng cùng em Tăng Biện là Tăng Trí làm Thái thú Ngô Quận nhân thời cơ cũng hưởng ứng Bắc Tề.

Trần Bá Tiên kiên cường chống trả. Gặp lúc nước Lương bị lụt to, ông được các bô lão Giang Nam ủng hộ lương thực đã đánh bại quân Bắc Tề, tiêu diệt Đỗ Kham và Vương Tăng Trí.

Sau chiến thắng đó, uy tín của Trần Bá Tiên rất cao. Tháng 10 năm 557, ông phế Lương Kính Đế lên ngôi, lập ra nhà Trần. Sử gọi ông là Trần Vũ Đế.

Bắc Tề thù hận ông, theo lời cầu viện của con Vương Tăng Biện là Vương Lâm, lấy danh nghĩa giúp cháu Lương Nguyên Đế (Tiêu Dịch) là Tiêu Trang về làm vua ở Dĩnh châu. Trần Vũ Đế phái tướng Từ Đô mang quân đón đánh.

Giữa lúc quân hai bên đang giằng co thì Trần Vũ Đế lâm bệnh mất, thọ 57 tuổi. Vì con ông là Trần Xương đang bị bắt làm tù binh ở Tây Ngụy nên triều Trần lập người cháu gọi ông bằng chú là Trần Thiến lên ngôi, tức là Trần Văn Đế. Văn Đế xứng đáng nối cơ nghiệp của ông, đánh bại Liên quân Bắc Tề - Vương Lâm và nhiều lực lượng cát cứ khác ở Giang Nam, mở đất đến Tây Lương Nước Trần do Trần Bá Tiên lập ra cùng các nước Bắc Tề, Bắc Chu chia ba Trung Quốc tới hết thời Nam-Bắc triều.

Ổn định tình hình miền nam

Sau khi Tiêu Bột chết, miền Nam lại rối loạn. Biết được là Âu Dương Nguy cũng có một ít uy danh ở miền Nam nên Trần Bá Tiên quyết định thả ông về và bổ ông làm Thứ sử Hàng Châu kiêm Đô Đốc với quyền hành quân sự trên toàn bộ 19 châu mà trên lý thuyết bao gồm cả hai châu Quảng và Giao. Âu Dương Nguy đem quân về miền Nam nhưng vừa về đến nơi thì Vương Lâm nổi loạn.

Từ năm 557 đến 560, Âu Dương Nguy phải đương đầu với thực lực mạnh nhất của Vương Lâm vào lúc ấy trong vùng Quảng Tây bây giờ và giáp giới Giao Châu. Con của Âu Dương Nguy là Âu Dương Hốt, là người cũng đã từng ở miền Nam, phụ tá cho cha để tìm cách lôi kéo phe Tiêu Bột cũ về quy thuận vì phe này đã rút về Quảng Châu. Trong 10 năm sau đó, họ Âu Dương ở Quảng Châu áp dụng hệ thống gia đình trị và sự trung thành được xét theo từng cá nhân.

Nhưng một tháng sau, Vương Lâm ở trong lưu vực sông Dương Tử lại nổi loạn và miền Nam phải gánh chịu sự cai trị hà khắc của y tới ba năm. Mặc dầu được Tân vương Trần Bá Tiên phong chức vào năm 557, Vương Lâm vẫn ngấm ngầm trung thành với hoàng gia Lương. Được hậu thuẫn của một quan chức ở miền Nam nên năm 558 Vương Lâm tìm cách lôi kéo họ về hẳn phe cánh với ông. Cũng vào năm ấy, Âu Dương Nguy được bổ nhiệm Thứ sử Quảng Châu, có lẽ vì Trần Bá Tiên muốn mua chuộc lòng trung thành của ông. Khi Trần Bá Tiên mất năm 559, thứ sử Quế Châu tức Quảng Tây bây giờ đến quy thuận Vương Lâm nhưng Âu Dương Nguy vẫn trung thành với Bá Tiên và được phong một loạt chức tước mới và quyền lực cao hơn. Rốt cuộc, đến năm 560, Vương Lâm bị đánh bại và buộc phải về ẩn trốn ở vùng Đông Bắc Trung Quốc. Trong thập kỷ sau, tình hình ở miền Nam được tương đối ổn định dưới quyền cai trị của cha con Âu Dương Nguy.

Khi Viên Đàm Hoãn chết, chức Thứ sử Giao Châu lại về tay em của Âu Dương Nguy là Âu Dương Thịnh. Chức này của Âu Dương Thịnh lại cũng rõ ràng là một chức danh dự bởi vì hành động duy nhất của ông được ghi lại là việc ông giúp anh ông dẹp yên loạn quân ở Quảng Châu. Điều này gợi nhớ đến vụ bổ nhiệm Trần Bá Tiên làm Thứ sử Giao Châu năm 550 sau khi Bá Tiên đã rời khỏi miền Nam, và cả vụ ra đi của Lưu Nguyên Yển, Thứ Sử Giao Châu lên miền Bắc để theo Vương Lâm vào năm 555; cùng là chức phong cho Trần Pháp Vũ, Thứ sử Cửu Đức, người đã giết được Tiêu Bột ở Thủy Hưng năm 557.

Năm 567, Thứ sử Định châu (Hồ Nam) nổi loạn và rủ Âu Dương Hốt theo mình. Tuy Dương Hốt không đóng vai trò gì tích cực trong vụ nổi loạn ngắn ngủi này ông cũng bị triều Trần nghi ngờ. Năm 569, khi được gọi về triều trình diện, Âu Dương Hốt quyết định không về và công khai làm loạn. Năm 570, ông bị bắt và bị đem chém đầu.

Sau cái chết của Âu Dương Hốt vào năm 570, triều Trần đặt ra biện pháp tổng quản quyền hành ở miền Nam. Sử chép rằng vào thời đó "những người Lao man di ở Giao Chỉ thường hay tụ tập lại đi cướp phá" và Nguyễn Trác được giao nhiệm vụ giải quyết việc này.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Vũ Đế** (chữ Hán: 陳武帝), tên thật là **Trần Bá Tiên** (陳霸先; 503 - 559) là vị vua đầu tiên, người sáng lập ra nhà Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Trận Ba Rài** là một trận đánh giữa quân đội Hoa Kỳ và quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào ngày 15 tháng 9 năm 1967 trên đoạn kênh Ba Rài qua xã Cẩm
**Trần Viết Tiến** (sinh ngày 09 tháng 12 năm 1968) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy thuốc ưu tú, hàm Trung tướng, từng
**Trần Bá Dũng** (sinh năm 1958) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, nguyên là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục
**Trần Văn Đế** (chữ Hán: 陳文帝; 522 – 566), tên húy là **Trần Thiến** (), tên tự **Tử Hoa** (子華), là một hoàng đế của triều đại Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
**Trần Phế Đế** (chữ Hán: 陳廢帝; 554?- 570), tên húy **Trần Bá Tông** (陳伯宗), tên tự **Phụng Nghiệp** (奉業), tiểu tự **Dược Vương** (藥王), là một hoàng đế của triều đại Trần trong lịch sử
**Nhà Trần** () (557-589), đôi khi gọi là **Nam triều Trần** (南朝陳), là triều đại thứ tư và cuối cùng trong số các triều đại thuộc Nam triều thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc,
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
nhỏ|Tháp mộ Trần Bá Lộc nằm trong khu đất Thánh tại thị trấn Cái Bè **Trần Bá Lộc** (, 1839-1899) là một cộng sự đắc lực của thực dân Pháp trong việc đàn áp nhiều
**Chiến tranh Tiền Lý - Lương** là cuộc chiến bùng nổ từ năm 545 đến năm 550 kéo dài 5 năm do Triệu Quang Phục lãnh đạo chống quân Lương. ## Nguyên nhân Năm Giáp
**Trần Tường** (chữ Hán: 陈详, 523 – 564), tên tự là **Văn Ki**, người Trường Thành, Ngô Hưng , là tông thất, tướng lĩnh nhà Trần thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương Mãnh** (chữ Hán: 王猛, ? – ?) tự Thế Hùng, người Lâm Nghi, Lang Da , tướng lãnh nhà Trần đời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Mãnh vốn
**Trần Đức Tiến**, sinh năm 1953, quê ở làng Cao Đà, xã Nhân Mỹ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, là một nhà văn Việt Nam. Tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
**Trần Bá Di** (1931 - 2018), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ
**Trần Hồng Tiến** () (914-985), tự **Tế Xuyên** (濟川) là một quân phiệt vào cuối thời Ngũ Đại Thập Quốc, ông kiểm soát Thanh Nguyên quân. Sau khi triều Tống chinh phục nhiều lãnh thổ,
**Trần Thị Tiền** (chữ Hán: 陳氏錢; ? – ?), còn có tên húy khác là **Thư**, phong hiệu **Cửu giai Tài nhân** (九階才人), là một thứ phi của vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch
**Trần Bá Dương** sinh năm 1960 tại Huế, nhưng lớn lên ở Đà Lạt. Ông là người sáng lập và cũng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Tập đoàn Trường
**Trần Bá Quân** (陈伯钧 hoặc 陈国懋; pinyin:_Chén Bójūn hoặc Chén Guómào_; 26 tháng 11 năm 1910 - 6 tháng 2 năm 1974), là một vị tướng của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc sinh
**Triệu Túc** (chữ Hán: 趙肅, 470-545) là công thần khai quốc nhà Tiền Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông có công giúp Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân và tử trận trong cuộc
**Hành chính Việt Nam thời Tiền Lý và Triệu Việt Vương** phản ánh bộ máy chính quyền trung ương và địa phương thời kỳ này trong lịch sử Việt Nam, kéo dài từ năm 541
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trận Gettysburg** là trận chiến đẫm máu nhất và được xem là chiến thắng lớn lao nhất của Liên bang miền Bắc của cuộc phân tranh Nam-Bắc, mà chí ít là một bước ngoặt trên
**Trận Austerlitz** (còn gọi là **Trận Ba Hoàng đế** hay **Trận Tam Hoàng**), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoléon. Trận đánh xảy ra
**Lịch sử hành chính tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu** có thể lấy mốc từ năm 1900 với sự kiện cuộc cải cách hành chính ở Nam Kỳ, hạt tham biện Bà Rịa đổi thành
**Trận Agincourt** (; ) là một trận đánh tiêu biểu trong chiến tranh Trăm Năm giữa Anh với Pháp. Trận đánh diễn ra ngày 25 tháng 10 năm 1415 (Ngày Thánh Crispin) gần Azincourt, ở
**Trận Yarmouk** (, còn được viết là _Yarmuk_, _Yarmuq_, hay trong tiếng Hy Lạp là _Hieromyax_, Ἱερομύαξ, hoặc _Iermouchas_, Ιερμουχάς) là một trận đánh lớn giữa quân đội Hồi giáo Rashidun với quân đội của
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Tiền Việt Nam** được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Tiên Hoàng. Thời phong kiến, gần như mỗi đời
**Trận Rạch Gầm – Xoài Mút** () là một trận chiến lớn trên sông diễn ra vào đêm 19 rạng sáng ngày 20 tháng 1 năm 1785 giữa liên quân Xiêm – Nguyễn và quân
**Trận Leyte** trong chiến dịch Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc đổ bộ và chiến đấu giành sự kiểm soát Leyte thuộc quần đảo Philippines bởi lực lượng Mỹ
**Giuse Trần Văn Toản** (sinh ngày 7 tháng 4 năm 1955) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò giám mục chính tòa Giáo phận Long Xuyên (từ
Đội tuyển bóng đá quốc gia Ba Lan đã có ba lần tham dự các Giải vô địch bóng đá châu Âu, vào những năm 2008, 2012 và 2016. Giải vô địch bóng đá châu
**Trận Kolubara** (Tiếng Đức: Schlacht an der Kolubara, Tiếng Serbia: Kolubarska bitka, Колубарска битка) là trận đánh diễn ra giữa Đế quốc Áo-Hung và Serbia vào tháng 11 và tháng 12 năm 1914 tại mặt
**Trận Tam giác sắt** diễn ra từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 20 tháng 11 năm 1974, khi Sư đoàn 9 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh chiếm Rạch Bắp và
**Trần Thiêm Bình** (添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
nhỏ|phải|348x348px|Cổng vào Nhà Lớn Long Sơn **Ông Trần** hay **Ông Nhà Lớn**, tên thật là **Lê Văn Mưu** (1855 –1935) là một nghĩa quân chống Pháp, người khai sáng _đạo Ông Trần_ trên nền tảng
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
**Trận đồi A1** là trận đánh mở màn ngày 31 tháng 3 năm 1954, là một trong những trận đánh quan trọng trong giai đoạn 2 và giai đoạn 3 của chiến dịch Điện Biên
**Trận Xích Bích** () là một trận đánh lớn cuối cùng thời Đông Hán có tính chất quyết định đến cục diện thời Tam Quốc. Trận đánh diễn ra vào mùa đông năm Kiến An
**Tiền tệ thời Trần** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Trần (1225-1400) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế - xã
**Trần Hữu Lượng** (chữ Hán: 陳友諒; 1316– 3 tháng 10 năm 1363) là một thủ lĩnh quân phiệt thời _"Nguyên mạt Minh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc, là người Miện Dương, Hồ Bắc, ông
**Chiến dịch Ba Gia** diễn ra từ ngày 28 tháng 5 đến 20 tháng 7 năm 1965 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, là chiến dịch góp phần đẩy nhanh sự phá sản của chiến
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học