Trần Phế Đế (chữ Hán: 陳廢帝; 6 tháng 3 năm 1361 – 6 tháng 12 năm 1388), hiệu Giản Hoàng (簡皇), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Trần nước Đại Việt. Ông ở ngôi từ năm 1377 đến khi bị phế vào năm 1388, tổng cộng hơn 10 năm trị vì.
Trần Phế Đế là con thứ của vua Trần Duệ Tông và là cháu gọi Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông bằng bác. Năm 1377, Duệ Tông thân đi đánh Chiêm Thành, bị thua chết. Nghệ Tông lập Phế Đế lên làm vua. Trong suốt thời gian Phế Đế ở ngôi, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông nắm thực quyền cai trị quốc gia. Hai vua phải chống đối với nhiều cuộc xâm lược của Chiêm Thành, bấy giờ rất hùng mạnh dưới tay vua Chế Bồng Nga, và những yêu sách của nhà Minh mới thành lập bên Trung Quốc. Trong triều đình, Trần Nghệ Tông tin yêu người anh họ bên ngoại là Lê Quý Ly nên giao cho quyền lực ngày càng lớn. Chính vì lo ngại thế lực của Lê Quý Ly, Phế Đế đã gầy dựng phe cánh chống đối và cuối cùng thất bại, bị Nghệ Tông thắt cổ chết.
Thân thế
Phế Đế tên thật là Trần Hiện (陳晛), thường đọc là Trần Nghiễn, là con thứ của vua Trần Duệ Tông, mẹ là Gia Từ Hoàng hậu Lê thị, em gái của đại thần Lê Quý Ly. Ông gọi Trần Nghệ Tông là bác.
Cai trị
Không có thực quyền
Năm 1370, Cung Định vương Trần Phủ lật đổ Dương Nhật Lễ, trở thành vua Trần Nghệ Tông. Năm 1372, Trần Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Cung Tuyên vương Trần Kính, tức Trần Duệ Tông. Năm 1377, vua Duệ Tông thân đem 12 vạn quân đánh Chiêm Thành; bị thảm bại trong trận Đồ Bàn. Duệ Tông chết cùng 7, 8 phần 10 quân lính. Nghệ Tông thương em chết vì nước, bèn lập con Duệ Tông là Trần Hiện lên ngôi. Sử gọi là vua Trần Phế Đế. Khi lên nối ngôi, ông mới 16 tuổi, mọi quyền hành vẫn do Nghệ Tông nắm giữ. Niên hiệu được cải thành Xương Phù (昌符), tự xưng làm Giản Hoàng (簡皇).
Sách Minh thực lục gọi Trần Giản Tông là Trần Vĩ (陳煒) hoặc Trần Nhật Vĩ (陳日煒) và nhầm lẵn khi cho rằng ông là em của Nghệ Tông. Thực tế, Trần Vĩ là anh của Giản Tông và đã chết trước đó.
Chiến tranh với Chiêm Thành
Sau khi đánh bại Trần Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga liên tục tiến đánh và cướp phá Đại Việt. Tháng 6 năm 1377, Chế Bồng Nga đem quân đánh thẳng vào Thăng Long. Thượng hoàng sai tướng giữ cửa Đại An. Quân Chiêm bèn đi theo cửa Thần Phù (thuộc Ninh Bình). Triều đình hốt hoảng bỏ kinh thành lánh nạn. Chế Bồng Nga vào Thăng Long cướp phá một chập rồi rút về.
Tháng 5 năm Mậu Ngọ (1378), Chế Bồng Nga lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng cướp phá Thăng Long một lần nữa. Thượng hoàng Nghệ Tông lại phong Đỗ Tử Bình làm Hành khiển và giao cầm quân nhưng chưa đánh đã tan.
Mùa xuân năm 1379, Thượng hoàng phong Lê Quý Ly, em họ bên ngoại của Trần Nghệ Tông, làm Tiểu tư không kiêm Hành khu mật đại sứ như cũ. Tháng 2 âm lịch năm 1380, quân Chiêm Thành tiến ra đánh Nghệ An, Diễn Châu. Tháng 3 âm lịch năm 1380, quân Chiêm lại đánh Thanh Hóa. Thượng hoàng sai Lê Quý Ly chỉ huy quân bộ, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân thủy chống giữ, đóng cọc ở giữa sông Ngu Giang. Tháng 5 âm lịch năm 1380, Lê Quý Ly đánh bại Chế Bồng Nga một trận lớn. Sau trận này Đỗ Tử Bình cáo ốm, không nắm binh quyền nữa. Nhà vua phong Lê Quý Ly làm Hải Tây đô thống chế.
Tháng 2 âm lịch năm 1381, vua Trần Giản Hoàng sai quốc sư Đại Than xét các tăng sĩ trong chùa và các tăng sĩ không có độ điệp ở ẩn rừng núi, người nào khỏe mạnh thì cho làm quân đánh Chiêm Thành.
Tháng 6 âm lịch, Trần Giản Hoàng rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương, Thái Đường, Long Hưng, Kiến Xương đem về lăng lớn tại Yên Sinh để tránh bị quân Chiêm cướp phá.
Tháng 9 âm lịch năm 1381, Giản Hoàng xử tử Quan phục hầu Đại vương Trần Húc, con của Thượng hoàng Nghệ Tông, vì Húc khi đi theo Duệ Tông nam chinh năm 1377 đã đầu hàng Chiêm Thành.
Tháng 2 âm lịch năm 1382, quân Chiêm Thành lại đánh Thanh Hóa. Vua Trần Giản Hoàng sai Lê Quý Ly đem quân chống đánh. Quý Ly đóng quân ở núi Long Đại (tức núi Hàm Rồng, Thanh Hóa), sai tướng tâm phúc là Nguyễn Đa Phương giữ hàng cọc ở cửa biển Thần Đầu. Nguyễn Đa Phương đánh tan các cánh quân thủy bộ Chiêm Thành; quân Chiêm chết hại rất nhiều. Tháng 3 âm lịch năm 1382, quân Đại Việt rượt quân Chiêm đến thành Nghệ An rồi về. Tháng 4 âm lịch năm 1382, Phế Đế phong Nguyễn Đa Phương làm Kim ngô vệ Đại tướng quân.
Tháng 6 năm Quý Hợi (1383), Chiêm Thành lại đem quân đánh Đại Việt, tiến theo đường núi ra Bắc rồi bất ngờ đánh vào trấn Quảng Oai. Thượng hoàng Nghệ Tông hốt hoảng sai tướng Mật Ôn ra giữ ở Tam Kì nhưng Mật Ôn thua trận bị bắt sống. Thượng hoàng Nghệ Tông lại sai Nguyễn Đa Phương trấn thủ kinh thành còn mình và Giản Hoàng chạy sang Đông Ngàn. Có người học trò là Nguyễn Mộng Hoa khuyên Thượng hoàng ở lại kinh thành chống giặc nhưng Thượng hoàng vẫn đi. Nguyễn Đa Phương đôn đốc quân sĩ xây dựng rào trại, ngày đêm bảo vệ kinh đô. Đến tháng 12, quân Chiêm rút về, Thượng hoàng mới trở lại kinh sư. Sử sách chép lại rằng Thượng hoàng đã cho quân tải tiền đồng cất dấu vào núi Thiên Kiện (hay là núi Địa Cận) ở Hà Nam và chùa Khả Lãng ở Lạng Sơn đề phòng bị quân Chiêm cướp.
Nghe lời Đỗ Tử Bình, triều đình tiếp tục cho tăng sưu thế để cứu kho tàng trống rỗng vì chiến tranh, bắt mỗi suất đinh đóng 3 quan tiền thuế khiến cho nhân dân ngày càng cực khổ.
Bang giao với nhà Minh
Trong lúc đó ở phương Bắc, nhà Minh cũng dòm ngó Đại Việt, Minh Thái Tổ đòi Đại Việt cấp 5.000 thạch lương cho quân Minh ở Vân Nam. Nhà Trần phải biện bạch là đã sai chuyển vận sứ đem đi, nhưng vì lam chướng nhiều người bị chết nên thất thoát. Tháng 3 năm Ất Sửu (1385) nước Minh lại đòi cống nạp tăng nhân, do người phương Nam có tài dựng đạo tràng. Người Minh còn đòi cống nạp các loại quả như vải, nhãn, mít... và còn đòi cấp 50 con voi, mượn đường đánh Chiêm Thành. Tuy nhiên, Minh Thực lục cho rằng nhà Trần sang triều cống quá nhiền lần, bắt buộc mỗi 3 năm mới được sang cống.
Họa ngoại thích
Nghệ Hoàng quá tin dùng ngoại thích Hồ Quý Ly, giao cho Quý Ly nhiều quyền hành quá lớn. Quý Ly tìm cách phát triển thế lực riêng, nhưng Nghệ Hoàng vẫn không hề nghi ngại. Sau chiến thắng trước quân Chiêm năm 1380, Nghệ Hoàng cho Quý Ly làm Hải Tây Đô thống chế, năm 1387 lại thăng làm Đồng bình chương sự (Tể tướng). Lúc đó, lòng các quan lại, tôn thất phần nhiều đã chán nản, rã rời, nhiều người biết trước Hồ Quý Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần, như Trần Nguyên Đán liền kết thông gia với họ Hồ, mong được phú quý và toàn mạng sau này.
Bị hãm hại rồi qua đời
Năm 1388, Giản Hoàng đế nhận rõ âm mưu của Quý Ly, bèn bàn với tâm phúc tìm cách trừ khử. Quý Ly biết chuyện bèn kêu van với Nghệ Hoàng: Cổ lai chỉ có bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ.
Nghệ Hoàng nghe lời Quý Ly, khiển trách Giản Hoàng trẻ con, làm hại kẻ công thần nên giáng xuống làm Linh Đức vương và lập con nhỏ của mình là Chiêu Định vương Trần Ngung lên ngôi, tức là Trần Thuận Tông. Sự việc cụ thể như sau:
: Ngày 6 tháng 12 năm 1388, Thượng hoàng giả đi Yên Sinh, sai người gọi Quan gia đến bàn việc nước, khi ông đến thì đem giam vào chùa Tư Phúc và tuyên chiếu: "Trước kia Duệ Tông đi tuần phương Nam không trở về, dùng con đích để nối ngôi là theo đạo đời xưa. Song Quan gia từ khi lên ngôi đến giờ vẫn còn trẻ con lắm, giữ đức không thường, thân mật với bọn tiểu nhân, nghe bọn Lê Á Phụ, Lê Dữ Nghị dèm pha vu hãm người công thần, làm dao động xã tắc, nên giáng xuống làm Linh Đức Đại vương. Song nhà nước không thể không có người đứng chủ, ngôi báu không thể bỏ không, nên đón Chiêu Định vương vào nối đại thống. Báo cáo trong ngoài để mọi người đều biết".
:Một số tướng lĩnh có ý đưa quân vào điện cứu Giản Hoàng, song ông lại chỉ viết hai chữ Giải giáp, có ý xuôi tay, bảo: "Không được trái ý Thái thượng hoàng". Một lúc sau ông bị Thượng hoàng ép thắt cổ chết ở phủ Thái Dương, các tướng tâm phúc đều bị sát hại.
Giản Hoàng mất khi 28 tuổi, ở ngôi 12 năm, được chôn ở núi An Bài.
Theo Minh thực lục, khoảng cuối tháng 12 năm 1388, Lê Nhất Nguyên (黎一元) giết vua Trần Vĩ (tức Trần Giản Tông) rồi chôn ở phường Đại Dương ngoại thành Thăng Long. Lê Nhất Nguyên sau đó lập Trần Nhật Hỗn tức Trần Thuận Tông, con Trần Thúc Minh (陳叔明) [tức Trần Nghệ Tông] lên thay. Nhất Nguyên còn có tên khác là Quý Ly (季犛).
Đánh giá
Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư đánh giá Trần Giản Tông như sau:
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Phế Đế** (chữ Hán: 陳廢帝; 6 tháng 3 năm 1361 – 6 tháng 12 năm 1388), hiệu **Giản Hoàng** (簡皇), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Trần nước Đại Việt. Ông ở
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
**Đế quốc Việt Nam** (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự _Etsunan Teikoku,_ tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam thân Nhật
**Đại Việt Quốc dân Đảng**, thường được gọi tắt là **Đảng Đại Việt**, là một đảng phái chính trị của Việt Nam, thành lập từ năm 1939. Đảng Đại Việt là một trong những đảng
**Quan hệ Việt-Chăm** xem như bắt đầu từ năm 968, khi Đinh Tiên Hoàng lập ra nước Đại Cồ Việt, với tư cách là quốc gia độc lập đến năm 1832, khi vua Minh Mạng
**Trần Thiếu Đế** (chữ Hán: 陳少帝; 1396 - 1400?) là vị hoàng đế thứ 13 và là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Lúc Thiếu Đế
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Văn học đời Trần** là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400). ## Tổng quan văn học thời Trần Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều
**Đại Việt sử ký** (chữ Hán: 大越史記) là _bộ quốc sử đầu tiên_ của nước Việt Nam do Lê Văn Hưu (đời Trần) soạn ra, gồm 30 quyển, chép lịch sử Việt Nam từ Triệu
**Tôn giáo Đại Việt thời Trần** về cơ bản cũng giống như thời Lý, có ảnh hưởng lớn của Phật giáo. Tuy nhiên so với thời Lý, Nho giáo ngày càng có vai trò lớn
**Trần Văn Đế** (chữ Hán: 陳文帝; 522 – 566), tên húy là **Trần Thiến** (), tên tự **Tử Hoa** (子華), là một hoàng đế của triều đại Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Trần Thuận Tông** (chữ Hán: 陳順宗 1377 – 30 tháng 4 năm 1400) là vị hoàng đế thứ 12 và cũng là hoàng đế áp chót của triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì
**Trần Khánh Dư** (chữ Hán: 陳慶餘, 13 tháng 3, 1240 - 23 tháng 4, 1340), hiệu là **Nhân Huệ vương** (仁惠王), là một chính khách, nhà quân sự Đại Việt dưới thời đại nhà Trần.
**Đại Việt sử ký tiền biên** là bộ sử biên niên gồm 17 quyển, viết bằng chữ Hán do Ngô Thì Sĩ biên soạn, Ngô Thì Nhậm hiệu đính. Bộ sử này được khắc in
**Trần Nhật Duật** (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu **Chiêu Văn vương** (昭文王) hay **Chiêu Văn đại vương** (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
**Đại Việt sử lược** (chữ Hán: ), còn có tên là **Việt sử lược** (), là một cuốn lịch sử Việt Nam viết bằng chữ Hán của một tác giả khuyết danh, ra đời vào
**Đinh Phế Đế** (chữ Hán: 丁廢帝 974 – 1001) hay **Đinh Thiếu Đế** (chữ Hán: 丁少帝), còn gọi là **Đinh Đế Toàn**, là vị hoàng đế thứ hai và cũng là vị hoàng đế cuối
thumb|Tượng thờ [[Đinh Phế Đế - vị _Phế Đế_ đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam.]] **Phế Đế** (chữ Hán: 廢帝) là một danh từ, thường dùng như một cách gọi của
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Trần** phản ánh sự phát triển thủ công nghiệp thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Thủ công nghiệp nhà nước nhỏ|phải|Bình gốm hoa nâu thời Trần,
**Đại Việt Dân chính Đảng** (tiếng Hán: 大越民政黨) là một chính đảng do nhóm Tự Lực văn đoàn sáng lập, tồn tại từ 1938 đến 1945. ## Lịch sử Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên
**Nghệ thuật Đại Việt thời Lý** phản ánh thành tựu các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt dưới thời nhà Lý, chủ yếu trên lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và âm nhạc.
**Nghệ thuật Đại Việt thời Lê Sơ** phản ánh các loại hình nghệ thuật của nước Đại Việt từ năm 1428 đến năm 1527, chủ yếu trên lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc và âm
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
là một anime truyền hình thuộc thể loại hành động, hài kịch, tâm lý, đời thường của đạo diễn . Phim do A-1 Pictures sản xuất và Aniplex đảm nhận khâu phân phối. Imigimuru chịu
**Trần Trọng Kim** (chữ Hán: 陳仲金; 1883 – 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu **Lệ Thần**, từng làm thủ tướng
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1367–1396)** là một cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (Po Binasour) (1360–1390) lãnh đạo. Vào những năm
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
Vua Việt Nam là các quân chủ của nước Việt Nam độc lập tự chủ từ thời dựng nước đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử mà vua
**Nam Việt** (tiếng Quan Thoại: 南越 / _Nányuè_, tiếng Quảng Đông: 南粤 / _Naam4 jyut6_) là một quốc gia được lãnh đạo bởi **nhà Triệu** tồn tại trong giai đoạn 203 TCN – 111 TCN
**Trận thành Đồ Bàn** diễn ra ngày 24 tháng Giêng ÂL năm Đinh Tỵ (1377) tại thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Quy
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**Quân sự nhà Trần** phản ánh việc tổ chức quân đội của vuơng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài
**Huy Chân Công chúa** (輝真公主) hay **Trinh Thục phi** (貞淑妃) Trần Thị Ngọc Hiền (còn có tên khác là Ngọc Dung, Ngọc Huyên) (1377 - ?) là một vị Công chúa nhà Trần và là
**Văn hóa Lý–Trần** (hoặc ở mức độ cao hơn nữa là **Văn minh Lý–Trần**, hoặc được khái quát hóa lên là **Thời đại Lý–Trần**) là một khái niệm mang tính tổng hợp dùng để chỉ
nhỏ|phải|Mô hình phục dựng lại một phần trận địa bãi cọc Trận Bạch Đằng năm 938 ở [[Quần thể di tích - danh thắng Tràng Kênh|Khu di tích Bạch Đằng Giang, Hải Phòng.]] Các cọc
**Trần Khát Chân** (chữ Hán: 陳渴真; 1370–1399) là một tướng lĩnh Đại Việt cuối thời Trần. Ông nổi bật với việc chỉ huy quân đội Việt chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành,
**Trần Nguyên Đán** (chữ Hán: 陳元旦, 1325 hay 1326? - 1390) hiệu Băng Hồ, là tôn thất nhà Trần, dòng dõi Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Làm quan tới Tư đồ dưới thời các
**Giản Định Đế** (chữ Hán: 簡定帝; 1375 – 1410) là vị hoàng đế khai lập nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là **Trần Ngỗi** (陳頠), sinh tại kinh đô Thăng
**Họ Khúc** là dòng họ nắm quyền cai trị Việt Nam đầu thế kỷ X, mở đầu Thời kỳ tự chủ Việt Nam sau hơn 1000 năm Bắc thuộc. Họ Khúc truyền nối làm chức
nhỏ|Nội các Đế quốc Việt Nam ra mắt quốc dân tại Huế ngày 8 tháng 5 năm 1945, trang đầu tuần báo _Trung Bắc Chủ nhật_ số 246. **Nội các Trần Trọng Kim**, là nội
Chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, các triều đại Việt Nam cũng đặt **niên hiệu** (chữ Hán: 年號) khi các vua xưng hoàng đế. Dưới đây là bảng kê các niên hiệu của vua Việt
**Trần Ngạc** (陳𩖃; 1357 - 1391) là một hoàng tử của triều đại nhà Trần tại Việt Nam, con trai của Trần Nghệ Tông, cha của Trùng Quang Đế. ## Cuộc đời Long Khánh nguyên
**Bắc Tề Phế Đế** (chữ Hán: 北齊廢帝; 545–561), tên húy là **Cao Ân** (高殷), tên tự **Chính Đạo** (正道), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều đại Bắc Tề
**Văn học thời Tây Sơn** là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn
**Trần Thiên Trạch** (; ? – 1379), là một tông thất hoàng gia và nhà thơ Đại Việt thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời Trần Thiên Trạch là con trai
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng