✨Vương Kiến (vua nước Tiền Thục)

Vương Kiến (vua nước Tiền Thục)

nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến

Vương Kiến (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự Quang Đồ (光圖), gọi theo thụy hiệu là (Tiền) Thục Cao Tổ ((前)蜀高祖), là hoàng đế khai quốc của nước Tiền Thục thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ban đầu, ông là một quan viên dưới quyền các tướng thái giám Dương Phục Quang và Điền Lệnh Tư của triều Đường, sau đó cát cứ khu vực sau này là Tứ Xuyên và Trùng Khánh, lập quốc sau khi triều Đường sụp đổ.

Thời trẻ

Vương Kiến sinh năm 847, dưới triều đại của Đường Tuyên Tông. Ông là người Vũ Dương, Hứa châu, và được ghi chép là có tham vọng và lanh lợi khi còn trẻ. Tuy nhiên, ông cũng được ghi nhận là một kẻ vô lại, bỏ nghề của tổ tiên đi giết trâu, trộm lừa, buôn bán muối tư (triều đình Đường giữ độc quyền buôn bán muối). Cha ông qua đời từ khi ông vẫn còn là thứ dân. Một lần vì làm điều xấu nên ông tống giam vào ngục ở Hứa Xương- thủ phủ của Trung Vũ quân (bao gồm Vũ Dương), song cai ngục bí mật thả ông ra. Sau đó, ông ở cùng với hòa thượng Xử Hồng (處洪) trên Võ Đang Sơn, vị hòa thượng này động viên ông thay đổi, tiên đoán rằng ông sẽ làm nên đại nghiệp. Do đó, Vương Kiến gia nhập vào quân đội Trung Vũ và trở thành một sĩ quan dưới quyền tiết độ sứ Đỗ Thẩm Quyền (杜審權).

Sự nghiệp ban đầu

Dưới quyền Dương Phục Quang

Năm 881, quân nổi dậy Hoàng Sào chiếm được kinh đô Trường An của triều Đường, Đường Hy Tông chạy trốn đến Thành Đô. Vương Kiến vẫn phục vụ trong quân Trung Vũ dưới quyền Dương Phục Quang. Giám Trung Vũ quân Dương Phục Quang phân 8.000 lính Trung Vũ thành 8 đạo, giao cho tám nha tướng như Lộc Yến Hoằng, Tấn Huy (晉暉), Vương Kiến, Hàn Kiến, Trương Tạo (張造), Lý Sư Thái (李師泰), và Bàng Tùng (龐從) chỉ huy. Sau đó, Dương Phục Quang dẫn quân tiến về phía tây bắc để hợp binh cùng các đội quân Đường khác nhằm chống Hoàng Sào.

Dưới quyền Lộc Yến Hoằng

Dương Phục Quang qua đời năm 883 khi đang đóng quân ở Hà Trung và vẫn đang giao chiến với Hoàng Sào. Thay vì tiếp tục giao chiến, Lộc Yến Hoằng quyết định đem binh lính đi cướp bóc khu vực. Vương Kiến, Hàn Kiến, Trương Tạo, Tấn Huy và Lý Sư Thái cũng theo Lộc Yến Hoằng. Cũng trong năm 883, Lộc Yến Hoằng chiếm được Hưng Nguyên- thủ phủ của Sơn Nam Tây đạo, trục xuất tiết độ sứ Ngưu Úc (牛勖) và xưng làm lưu hậu. tiết độ sứ Lý Khắc Dụng đánh bại liên quân của Điền Lệnh Tư, Tĩnh Nan tiết độ sứ Chu Mai và Phượng Tường tiết độ sứ Lý Xương Phù; Điền Lệnh Tư lại đưa Đường Hy Tông chạy trốn. Trong lúc chạy trốn, đoàn của triều đình bị gặp phải trở ngại do làn sóng người tị nạn, Vương Kiến và Tấn Huy được cho làm Thanh đạo trảm chước xứ, Vương Kiến dùng trường kiếm "dọn đường" cho Hoàng đế tiến về phía trước, Đường Hy Tông đem "truyền quốc bảo" trao cho Vương Kiến giữ gìn, đến đêm thì nắm ngủ bên Vương Kiến. tiết độ sứ Trần Kính Tuyên. Dương Phục Cung kế nhiệm Điền Lệnh Tư cai quản Thần Sách quân, người này không muốn các thân cận của Điền Lệnh Tư ở bên mình nên lệnh cho Vương Kiến, Tấn Huy, Trương Tạo và Lý Sư Thái đi làm thứ sử ở các châu, Vương Kiến nhậm chức Lợi châu thứ sử. Sau khi con nuôi của Dương Phục Cung là Dương Thủ Lượng (楊守亮) trở thành Sơn Nam Tây đạo tiết độ sứ vào năm 887, Vương Kiến trở thành thuộc cấp của Dương Thủ Lượng., trục xuất thứ sử Dương Mậu Thật (楊茂實), đoạt lấy Lãng châu và tự xưng làm phòng ngự sứ, chiêu nạp vong mệnh quân, thế càng thịnh, Dương Thủ Lượng không thể quản nổi. Nghe theo ý của Trương Kiến Dụ (張虔裕) và Ký Vô Gián (綦毋諫), Vương Kiến phụng biểu cho Đường Hy Tông và cứu giúp người dân. Ông cũng kết bằng hữu với Đông Xuyên tiết độ sứ Cố Ngạn Lãng do cả hai đều từng đi chiến đấu khi còn phục vụ trong Thần Sách quân. thứ sử Trương Húc (張頊), và cho đệ của Cố Ngạn Lãng là Cố Ngạn Huy (顧彥暉) tiếp quản, Vương Kiến và Cố Ngạn Lãng sau đó tiến công Thành Đô song không thể nhanh chóng chiếm được thành. Khi Đường Hy Tông khiển sứ giả đến làm trung gian hòa giải, cả Vương Kiến và Trần Kính Tuyên đều không chấp thuận. Theo ghi chép thì quân của Vương Kiến cướp phá toàn bộ 12 châu của Tây Xuyên quân.

Thành Đô phòng thủ kiên cố, các cuộc tiến công của Vương Kiến đều thất bại, lương thực của Vương Kiến cũng sớm cạn kiệt. Vào mùa hè năm 888, Vương Kiến định bãi binh, song sau khi Chu Tường và Kỳ Vô Gián can gián, ông lại tiếp tục chiến dịch. Vương Kiến sai Chu Tường thảo biểu thỉnh Đường Chiêu Tông hạ lệnh thảo phạt Trần Kính Tuyên, cầu được trao cho Cung châu; Cố Ngạn Lãng cũng thượng biểu thỉnh Hoàng đế xá tội cho Vương Kiến, chuyển Trần Kính Tuyên đi để bình định Lưỡng Thục. Do có thù oán từ trước với Điền Lệnh Tư, Đường Chiêu Tông bổ nhiệm Vi Chiêu Độ làm Tây Xuyên tiết độ sứ, đồng thời triệu hồi Trần Kính Tuyên về Trường An. Khi Trần Kính Tuyên kháng chỉ, Đường Chiêu Tông bãi bỏ quan tước của Trần Kính Tuyên, bổ nhiệm Vi Chiêu Độ là Hành doanh chiêu thảo sứ, cùng Dương Thủ Lượng, Cố Ngạn Lãng, và Vương Kiến tiến công Trần Kính Tuyên. Đường Chiêu Tông cũng tách bốn châu: Cung, Thục, Lê, Nhã từ Tây Xuyên quân để lập thành Vĩnh Bình quân với trị sở đặt tại Cung châu, cho Vương Kiến giữ chức tiết độ sứ.

Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 891, do triều đình Đường vừa thất bại trong cuộc chiến với Lý Khắc Dụng, cạn nguồn tài vật cho chiến dịch chống Trần Kính Tuyên. Do đó, Đường Chiêu Tông hạ chỉ khôi phục quan tước cho Trần Kính Tuyên, các tiết độ sứ trở về quân của mình. Tuy nhiên, Vương Kiến không muốn từ bỏ chiến dịch chống Trần Kính Tuyên, và thoạt đầu cố gắng thuyết phục Vi Chiêu Độ tiếp tục vây thành, song sau đó quay sang buộc Vi Chiêu Độ phải về Trường An để có thể tự mình tiến hành chiến dịch. Vương Kiến kích động các thuộc hạ của Cố Ngạn Lãng sát hại thân lại của Vi Chiêu Độ là Lạc Bảo (駱保) với lý do Lạc Bảo tham ô, mục đích là để đe dọa Vi Chiêu Độ. Vi Chiêu Độ lo sợ, xưng bệnh và giao lại quyền chỉ huy cho Vương Kiến, bản thân trở về Trường An. Vương Kiến tiếp tục bao vây Thành Đô, trong thành xảy ra nạn đói. Vào mùa thu năm 891, tình thế Thành Đô càng trở nên vô vọng, Vương Kiến cắt đứt tuyến đường tiếp tế duy nhất còn lại của thành từ Uy Nhung quân. Điền Lệnh Tư đích thân đến doanh trại của Vương Kiến và đề nghị đầu hàng, Vương Kiến chấp thuận. Vương Kiến sau đó được Đường Chiêu Tông bổ nhiệm làm Tây Xuyên tiết độ sứ, Vĩnh Bình được hợp nhất trở lại vào Tây Xuyên. và chống lại Vương Kiến, cố gắng liên kết với Dương Thủ Lượng để tiến công Vương Kiến, song đến mùa xuân năm 892 thì Lý Giản đẩy lui được Dương Thịnh và giết chết bộ tướng của Dương Thịnh là Lã Nghiêu (呂堯). Sau đó, Vương Kiến khiển tộc tử Gia châu thứ sử Vương Tông Dụ (王宗裕), Nhã châu thứ sử Vương Tông Khản, Mậu châu thứ sử Vương Tông Dao, và Uy Tín đô chỉ huy sứ Hoa Hồng đem 5 vạn binh công Bành châu. Khi Dương Thủ Lương cố gắng phái binh đi cứu viện Dương Thịnh, Hoa Hồng liền hăm dọa buộc kì tướng của Dương Thủ Lượng là Phù Chiêu (符昭) phải triệt thoái. Sau đó, Hoa Hồng tiến công Lãng châu và cũng đánh bại Dương Thủ Lượng tại đó.

Trong khi đó, vào năm 893, Cố Ngạn Huy liên kết với Phượng Tường tiết độ sứ Lý Mậu Trinh, Lý Mậu Trinh phái quân đi tiếp viện cho Cố Ngạn Huy. Tuy nhiên, Vương Kiến sau đó đánh bại quân Phượng Tường và Đông Xuyên tại Lợi châu, Cố Ngạn Huy đành phải cầu hòa với Vương Kiến, nói rằng sẵn lòng cắt đứt quan hệ với Lý Mậu Trinh, Vương Kiến chấp thuận. Tháng 2 ÂL, Đường Chiêu Tông bổ nhiệm Vương Kiến là Đồng bình chương sự (tức tể tướng trên danh nghĩa). Trong khi đó, Vương Kiến nhiều lần thượng biểu thỉnh được xử tử Trần Kính Tuyên và Điền Lệnh Tư, mặc dù không được triều đình Trường An cho phép, cuối cùng ông vẫn tự ý hành động. thứ sử Dương Thủ Hậu qua đời, do trước đó Lý Mậu Trinh thôn tính hầu hết lãnh địa của Dương Thủ Hậu, bộ tướng của Dương Thủ Hậu là Thường Tái Vinh (常再榮) quyết định dâng thành Miên châu hàng Vương Kiến. tiết độ sứ Hàn Kiến, và Tĩnh Nan tiết độ sứ Vương Hành Du hợp binh tiến công Trường An. Tháng 9 ÂL, Lý Khắc Dụng cũng đem quân về Trường An, tuyên bố là bảo vệ Hoàng đế. Vương Kiến cũng khiển Giản châu thứ sử Vương Tông Dao đem binh "phó nan", đóng tại Miên châu. Sau đó, Vương Kiến tuyên bố rằng Cố Ngạn Huy chặn đường tiến quân, quyết định thảo phạt Cố Ngạn Huy. Hoa Hồng đại phá quân Đông Xuyên, và trong vài năm sau đó, quân Tây Xuyên dần chiếm từng châu của Đông Xuyên, bất chấp Đường Chiêu Tông cố gắng hòa giải. Năm 896, khi Lý Mậu Trinh lại tiến công Trường An, Đường Chiêu Tông phải chạy đến Trấn Quốc và phụ thuộc vào Hàn Kiến, Vương Kiến phụng chiếu thỉnh Đường Chiêu Tông dời đến Thành Đô, trong khi Hoài Nam tiết độ sứ Dương Hành Mật cũng phụng biểu thỉnh Đường Chiêu Tông dời đến Hoài Nam; song cả hai đề nghị đều không được tiến hành.

Mùa xuân năm 897, Vương Kiến khiển Cung châu thứ sử Hoa Hồng và Bành châu thứ sử Vương Tông Hựu (王宗祐) đem 5 vạn quân công Đông Xuyên. Đồng thời, Vương Kiến phong Nhung châu thứ sử Vương Tông Cẩn (王宗謹) làm Phượng Tường tây diện hành doanh tiên phong sứ, đem quân tiến công Phượng Tường để ngăn ngừa việc quân này phái quân tiếp viện cho Đông Xuyên, Vương Tông Cẩn đánh bại Lý Kế Huy (李繼徽) ở Huyền Vũ. Khi Lý Mậu Trinh khiển Lý Kế Chiêu (李繼昭) đem quân đi cứu Đông Xuyên, liền bị con nuôi của Vương Kiến là Vương Tông Bá (王宗播) đánh bại và bắt giữ. Cũng trong thời gian đó, Vương Tông Khản và Vương Tông Nguyễn (王宗阮) chiếm được khu vực Tam Hiệp, mở ra tuyến đường mậu dịch với vùng hạ du Trường Giang.

Vào mùa hè năm 897, Vương Kiến đem 5 vạn quân đích thân công Đông Xuyên. Lý Mậu Trinh phản ứng bằng cách phụng biểu buộc tội Vương Kiến kháng lại thánh chỉ yêu cầu dừng tiến công Cố Ngạn Huy. Đường Chiêu Tông muốn tận dụng tình thế, do vậy hạ chỉ giáng Vương Kiến làm Nam châu thứ sử, trong khi chuyển Lý Mậu Trinh đi nhậm chức Đông Xuyên tiết độ sứ và để Lý Tự Chu (李嗣周) làm chủ Phượng Tường. Tuy nhiên, cả Vương Kiến và Lý Mậu Trinh đều kháng chỉ, Đường Chiêu Tông sau đó phục hồi lại chức tước cho Vương Kiến.. Đường Chiêu Tông cũng phong tước Lang Da vương cho Vương Kiến., Phổ châu, và Hợp châu. Vương Kiến khiển con nuôi là Hành doanh binh mã sứ Vương Tông Ảm đem 3 vạn binh hội quân với binh lính Đông Xuyên và Vũ Tín để trấn áp, đến tháng 7 ÂL thì Long Đài trấn sứ Vương Tông Khản bình định dược cuộc nổi dậy của Đỗ Tòng Pháp. tiết độ sứ Chu Toàn Trung đem quân đến Trường An, các hoạn quan đem Đường Chiêu Tông đến Phượng Tường với Lý Mậu Trinh. Chu Toàn Trung sau đó bao vây Phượng Tường, tuyên bố muốn đưa Hoàng đế trở về Trường An, cả Chu Toàn Trung và Lý Mậu Trinh đều muốn liên minh với Vương Kiến. Vương Kiến quyết định chơi trò hai mặt, bề ngoài ông tuyên bố tán thành Chu Toàn Trung, song lại bí mật khiển sứ giả đến chỗ Lý Mậu Trinh khuyến khích Lý Mậu Trinh chiến đấu. Đồng thời, Vương Kiến lại phong Vũ Tín tiết độ sứ Vương Tông Cát và Đông Xuyên tiết độ sứ Vương Tông Địch làm "Hỗ giá chỉ huy sứ", đem 5 vạn quân tiến về phía bắc, song kỳ thực là muốn đoạt lấy các châu của Lý Mậu Trinh ở phía nam Tần Lĩnh. tiết độ sứ Lý Kế Trung (李繼忠)- con nuôi của Lý Mậu Trinh- từ bỏ Lợi châu, quân Đông Xuyên chiếm được quân thành. Sau đó, Vương Tông Bá và Vương Tông Địch chiếm được Hưng Nguyên, Sơn Nam Tây đạo tiết độ sứ Lý Kế Mật (李繼密)- con nuôi của Lý Mậu Trinh- cũng buộc phải đầu hàng. Vương Kiến thoạt đầu bổ nhiệm Vương Tông Địch là Sơn Nam Tây đạo tiết độ sứ song sau đó do Vương Tông Cát dâng biểu buộc tội Vương Tông Địch, và cũng vì lo sợ trước việc Vương Tông Địch được binh sĩ quý mến, Vương Kiến triệu Vương Tông Địch trở lại Thành Đô rồi giết chết. Vương Kiến bổ nhiệm một người con nuôi khác là Vương Tông Hạ (王宗賀) giữ chức Sơn Nam Tây đạo lưu hậu. Sau đó, Vũ Định tiết độ sứ Lý Tư Kính (李思敬) cũng đầu hàng. Vào thời điểm này, Vương Kiến chiếm được toàn bộ các lãnh thổ của Lý Mậu Trinh ở phía nam Tần Lĩnh, góp phần khiến Lý Mậu Trinh phải cầu hòa với Chu Toàn Trung và giao Hoàng đế cho Chu Toàn Trung.

Sau khi Đường Chiêu Tông trở về Trường An, Thôi Dận và Chu Toàn Trung hạ lệnh đồ sát toàn bộ các hoạn quan. Tuy nhiên, do muốn bảo vệ Tây Xuyên giám quân Ngư Toàn Yên (魚全禋) và hoạn quan đã trí sĩ Nghiêm Tuân Mỹ (嚴遵美), Vương Kiến cho trảm hai tù nhân khác thế mạng.

Cũng vào năm 903, Vương Kiến liên minh với Chu Toàn Trung, sau đó Đường Chiêu Tông tiến tước cho Vương Kiến là Thục vương, giữ chức Tư đồ. Không lâu sau, theo ý của người con nuôi là Du châu thứ sử Vương Tông Bản (王宗本), Vương Kiến cho Vương Tông Bản làm Khai đạo đô chỉ huy sứ, đem quân vượt Tam Hiệp xuôi dòng Trường Giang, định công chiếm Kinh Nam. Đương thời, Kinh Nam tiết độ sứ Thành Nhuế (成汭) mới tử trận trong lúc giao chiến với quân của Dương Hành Mật, Quỳ châu thứ sử Hầu Củ (侯矩) dâng thành hàng Vương Tông Bản, Vương Tông Bản sau đó chiếm được thêm Trung châu, Vạn châu, và Ân châu. Tuy nhiên, vì tin rằng Cù Đường Hiệp là một thiên hiểm vững chắc, Vương Kiến quyết định không tiếp tục tiến công Quy châu (歸州) và Hiệp châu (峽州). Vương Kiến bổ nhiệm Vương Tông Biện làm Vũ Thái lưu hậu, quản lý khu vực. tiết độ sứ Triệu Khuông Ngưng (趙匡凝) công các châu của Kinh Nam mà Vương Kiến đoạt được từ trước đó, ông ta bị Vương Tông Nguyễn đẩy lui. Vạn châu thứ sử Trương Vũ (張武) còn cho giăng xích sắt qua Trường Giang để "tỏa hiệp", nhằm ngăn ngừa các cuộc tiến công từ phía đông.

Đầu năm 905, Vương Kiến liên minh với Lý Mậu Trinh, mục đích là để có một láng giềng bảo vệ phía bắc, sang tháng 6 ÂL, ông cũng cùng với Lý Mậu Trinh và Tĩnh Nan tiết độ sứ Lý Kế Huy truyền hịch kêu gọi hợp binh thảo phạt Chu Toàn Trung. Sau đó, Vương Kiến gả một nhi nữ của mình cho chất của Lý Mậu Trinh là Thiên Hùng tiết độ sứ Lý Kế Sùng (李繼崇), và từ đó thường tiếp tế cho quân của Lý Mậu Trinh. Phán quan Phùng Nguyên (馮涓) cho rằng tô thuế mà Vương Kiến định ra quá cao, do vậy Vương Kiến quyết định giảm gánh nặng này cho người dân. tiết độ sứ Phùng Hành Tập (馮行襲). Phùng Hành Tập chạy trốn, thủ hạ là Toàn Sư Lãng (全師朗) dâng quân thành Kim châu đầu hàng. Vương Kiến nhận Toàn Sư Lãng làm con, cải danh tính thành Vương Tông Lãng (王宗朗) và bổ nhiệm làm Kim châu quan sát sứ; cắt ba châu Cừ, Ba và Khai lệ thuộc Tông Lãng.

Vương Kiến bổ nhiệm Vương Tông Cát làm Trung thư lệnh, bổ nhiệm Vi Trang làm Tả tán kị thường thị (sau bổ nhiệm Vi Trang làm Môn hạ thị lang, Đồng bình chương sự). Tuy nhiên, Vương Tông Cát thấy mình lớn tuổi nhất trong số các "giả tử", và là một người kế vị tiềm năng, ông trở nên chuyên quyền kiêu tứ. Đường Đạo Tập (唐道襲) được bổ nhiệm làm Xu mật sứ, song Vương Tông Cát vẫn tỏ ra ngạo mạn. Năm 908, Vương Kiến bổ nhiệm Vương Tông Cát làm Thái sư song bãi địa vị tể tướng, cho Trương Cách (張格) thay thế. Vương Tông Cát oán giận và thượng biểu thách thức Vương Kiến lập mình hoặc Vương Tông Ý làm thái tử, Vương Kiến cảm thấy bị xúc phạm; đến khi Vương Tông Cát tiếp tục mạo phạm Vương Kiến khi gặp mặt trực diện, Vương Kiến lệnh cho vệ sĩ đánh chết Vương Tông Cát, sau đó lập Vương Tông Ý làm thái tử. và Kiếm châu, Vương Kiến từ chối. Năm 911, nhi nữ của Vương Kiến vốn được gả cho Lý Kế Sùng, nay được ban tước là Phổ Từ công chúa, cho người mang thư đến chỗ cha cáo buộc Lý Kế Sùng ngạo mạn và nghiện rượu. Sau đó, Vương Kiến đã triệu Phổ Từ công chúa về Tiền Thục, bề ngoài là mời bà về thăm nhà. Tuy nhiên, sau khi Phổ Từ công chúa đến Thành Đô, Vương Kiến đã giữ bà lại và không cho bà trở về chỗ Lý Kế Sùng. Lý Mậu Trinh tức giận và đã chấm dứt liên minh với Tiền Thục.

Thời kỳ cuối

Năm 913, Đường Đạo Tập trở về từ Sơn Nam Tây đạo và tiếp tục giữ chức xu mật sứ, Thái tử Vương Tông Ý (lúc này đã cải danh thành Vương Nguyên Ưng) phản đối và buộc tội Đường Đạo Tập. Vương Kiến không hài lòng về cáo buộc của Thái tử, song vẫn giáng Đường Đạo Tập làm Thái tử thiếu bảo (太子少保). của nước Tiền Thục, Vương Kiến khiển hai con nuôi là Vương Tông Phạm (王宗范) và Vương Tông Bá, cũng như Vương Tông Thọ đem quân ứng chiến, kết quả quân Thục đánh bại quân Trường Hòa, quân Trường Hòa buộc phải triệt thoái. Khi Vương Tông Phạm, Vương Tông Bá, Vương Tông Thọ định tiến sâu vào lãnh thổ Trường Hòa, Vương Kiến liền triệu họ về. Theo ghi chép thì sau đó, Trường Hòa không còn tiến công vào lãnh thổ Thục.

Vào mùa thu năm 915, Vương Kiến phát động tiến công Kỳ, cho Vương Tông Oản làm Bắc lộ hành doanh chế trí sứ, Vương Tông Bá làm Chiêu thảo sứ, đem quân tiến công Tần châu (秦州)- thủ phủ của Thiên Hùng quân; và cho Vương Tông Dao làm Đông Bắc diện chiêu thảo sứ, Đồng bình chương sự Vương Tông Hàn làm phó sứ, công Phượng châu. Cả hai cuộc tiến công đều thắng lợi, Phượng châu thất thủ, còn Lý Kế Sùng dâng Tần châu đầu hàng. Người chỉ huy quân Kỳ chống Thục là Lưu Tri Tuấn cũng đầu hàng, lãnh thổ của Kỳ nay chỉ còn khu vực quanh kinh thành. và bao vây kinh thành Phượng Tường của Kỳ. Tuy nhiên, cuộc bao vây bị cản trở bởi bão tuyết, do vậy Vương Kiến quyết định bỏ bao vây và triệu quân rút lui. Sau đó, đến tháng 12 ÂL, Vương Kiến tuyên bố đại xá, cải niên hiệu Thiên Hán và cải quốc hiệu thành "Đại Hán". hiếu tửu sắc, nhạc du hí. Vương Kiến cũng thường thấy Thái tử cùng chư vương chơi đá gà và đánh cầu, rèo hò ầm ĩ. Vương Kiến do vậy bắt đầu thấy Vương Diễn không phải là người kế vị phù hợp, do vậy bực bội vơi Trương Cách, song với sự trợ giúp của Từ hiền phi, Trương Cách không bị ông bãi chức tể tướng. Tuy nhiên, Vương Kiến xem xét việc cho Vương Tông Kiệt làm Thái tử thay thế. Đến khi Vương Tông Kiệt đột ngột qua đời, Vương Kiến nghi ngờ rằng Tông Kiệt bị mưu sát, song sau đó không có thêm hành động nào nhằm thay thế Vương Diễn.

Vương Kiến lâm bệnh rất nặng vào mùa hè năm 918, ông triệu đại thần nhập tẩm điện và giao phó Vương Diễn lại cho họ. Nội phi long sứ Đường Văn Ỷ muốn trừ bỏ các đại thần khác để đoạt lấy quyền lực, các đại thần nhận thấy điều này và họ xông vào cung điện để tấu với Vương Kiến. Vương Kiến quyết định lưu đày Đường Văn Ỷ, ban di chiếu bổ nhiệm Tống Quang Tự (宋光嗣) làm Nội xu mật sứ, cùng với Vương Tông Bật, Vương Tông Dao, Vương Tông Oản, Vương Tông Quỳ phụ chính cho Vương Diễn. Vương Kiến cũng di huấn rằng các thành viên trong gia tộc của Từ hiền phi không được làm chỉ huy quân sự. Ngày Nhâm Dần tháng 6 ÂL, Vương Kiến qua đời, Thái tử Vương Diễn kế vị.

Gia đình

; Vợ

  • Chu hoàng hậu, Thuận Đức hoàng hậu (lập năm 908, mất năm 918)
  • Từ hiền phi, Thuận Thánh thái hậu (Tôn năm 918, bị Hậu Đường Trang Tông xử tử năm 926, sinh Thái tử Tông Diễn
  • Từ thục phi, sau trở thành Thái phi (Tông năm 918, bị Hậu Đường Trang Tông xử tử năm 926
  • Trương quý phi, sinh Thái tử Nguyên Ưng
  • Mã cơ, sinh Tông Nhân
  • Tống cơ
  • Trần cơ, sinh Tông Kỉ, Tông Đặc
  • Kiều cơ, sinh Tông Kiệt
  • Tiêu phu nhân, sau hạ giá Vương Tông Yểm (王宗弇)
  • Trữ cơ, sinh Tông Trạch, Tông Đỉnh, Tông Bình ; Hoàng tử
  • Vương Tông Nhân (王宗仁), phong Phổ vương năm 910, cải phong Vệ vương năm 924
  • Vương Nguyên Ưng (王元膺), nguyên tên là Vương Tông Ý (王宗懿), cải thành Vương Nguyên Đản (王元坦) năm 910, lại cải thành Nguyên Ưng năm 912, phong Toại vương năm 907, phong Thái tử năm 908, bị giết năm 913, giáng làm thứ dân
  • Vương Tông Lộ (王宗輅), phong Nhã vương năm 910, cải phong Bân vương năm 924, bị Hậu Đường Trang Tông xử tử năm 926
  • Vương Tông Kỉ (王宗紀), phong Bao vương năm 910, sau cải phong Triệu vương, bị Hậu Đường Trang Tông xử tử năm 926
  • Vương Tông Trí (王宗智), phong Vinh vương năm 910, sau cải phong Hàn vương, bị Hậu Đường Trang Tông xử tử năm 926
  • Vương Tông Trạch (王宗澤), phong Hưng vương năm 910, sau cải phong Tống vương, bị Hậu Đường Trang Tông xử tử năm 926
  • Vương Tông Đỉnh (王宗鼎), phong Bành vương năm 910, cải phong Lỗ vương năm 924, bị Hậu Đường Trang Tông xử tử năm 926
  • Vương Tông Kiệt (王宗傑), phong Tín vương năm 910, mất năm 918
  • Vương Tông Bình (王宗平), phong Trung vương năm 918, sau cải phong Tiết vương, bị Hậu Đường Trang Tông xử tử năm 926
  • Vương Tông Đặc (王宗特), phong Tư vương năm 918, cải phong Cử vương năm 924, bị Hậu Đường Trang Tông xử tử năm 926
  • Vương Diễn, nguyên tên là Vương Tông Diễn (王宗衍) (cải năm 918), phong Trịnh vương, lập làm Thái tử năm 913, kế vị ; Công chúa
  • Phổ Từ công chúa, kết hôn với Lý Kế Sùng (李繼崇)- chất của Kỳ vương Lý Mậu Trinh
  • An Khang công chúa
  • Nga My công chúa, kết hôn với Lưu Tự Yên (劉嗣湮)- con của Lưu Tri Tuấn ; Con nuôi
  • Vương Tông Cát (王宗佶), nguyên họ Cam (甘), Tấn công, bị xử tử năm 908
  • Vương Tông Khán (王宗侃), nguyên tên là Điền Sư Khản (田師侃), Lạc An vương, sau cải phong Ngụy vương
  • Vương Tông Địch (王宗滌), nguyên tên là Hoa Hồng (華洪), bị xử tử năm 902
  • Vương Tông Hàn (王宗翰), nguyên họ Mạnh (孟), phong Tập vương năm 910
  • Vương Tông Bật (王宗弼), nguyên tên là Ngụy Hoằng Phu (魏弘夫), Cự Lộc vương, sau cải phong Tề vương, bị Quách Sùng Thao xử tử năm 925
  • Vương Tông Ảm (王宗黯), nguyên tên là Cát Gián (吉諫), Lang Da vương
  • Vương Tông Biện (王宗弁), nguyên tên là Lộc Biện (鹿弁)
  • Vương Tông Bản (王宗本), nguyên tên là Tạ Tòng Bản (謝從本)
  • Vương Tông Nguyễn (王宗阮), nguyên tên là Văn Vũ Kiên (文武堅)
  • Vương Tông Bá (王宗播), nguyên tên là Hứa Tồn (許存)
  • Vương Tông Trù (王宗儔), mất năm 924
  • Vương Tông Cẩn (王宗謹), nguyên tên là Vương Chiêu (王釗)
  • Vương Tông Oản (王宗綰), nguyên tên là Lý Oản (李綰), Lâm Thao vương
  • Vương Tông Nho (王宗儒), nguyên tên là Dương Nho (楊儒)
  • Vương Tông Hạo (王宗浩)
  • Vương Tông Lãng (王宗朗), nguyên tên là Toàn Sư Lãng (全師朗)
  • Vương Tông Ác (王宗渥), nguyên tên là Trịnh Ác (鄭渥), bị Lý Kế Ngập xử tử năm 925
  • Vương Tông Phạm (王宗范), bản tính Trương (張), Quỳ vương, con của Trương quý phi với tiền phu
  • Vương Tông Dao (王宗瑤), nguyên tên là Khương Chí (姜郅), Lâm Truy vương
  • Vương Tông Huấn (王宗訓), nguyên tên là Vương Mậu Quyền (王茂權), bị xử tử năm 914
  • Vương Tông Miễn (王宗勉), nguyên tên là Triệu Chương (趙章)
  • Vương Tông Quỳ (王宗夔), Lang Da vương
  • Vương Tông Duệ (王宗裔), Lang Da vương
  • Vương Tông Chủ (王宗矩), nguyên tên là Hầu Củ (侯矩)
  • Vương Tông Hựu Phần (王宗祐)
  • Vương Tông Phần (王宗汾)
  • Vương Tông Tín (王宗信)
  • Vương Tông Hạ (王宗賀)
  • Vương Tông Thiệu (王宗紹)
  • Vương Tông Hồng (王宗宏)
  • Vương Tông Đạc (王宗鐸)
  • Vương Tông Lỗ (王宗魯)
  • Vương Tông Dục (王宗昱)
  • Vương Tông Huân (王宗勳) (bị Lý Kế Ngập xử tử năm 925)
  • Vương Tông Yến (王宗晏)
  • Vương Tông Nhuế (王宗汭) (bị Lý Kế Ngập xử tử năm 925)
  • Vương Tông Vĩ (王宗偉)
  • Vương Tông Hiến (王宗憲), nguyên họ (許)
  • Vương Tông Nghiễm (王宗儼) (bị Lý Kế Ngập xử tử năm 925)
  • Vương Tông Uy (王宗威)
  • Vương Thừa Kiểm (王承檢)
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Cổng Vĩnh lăng Vương Kiến tại Thành Đô nhỏ|Lăng mộ Vương Kiến **Vương Kiến** (, 847 – 11 tháng 7 năm 918), tên tự **Quang Đồ** (光圖), gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Thục Cao
**Vương Diễn** () (899-926), nguyên danh **Vương Tông Diễn** (), tên tự **Hóa Nguyên** (化源), cũng được gọi là **Hậu Chủ**, là hoàng đế thứ hai và cuối cùng của nước Tiền Thục thời Ngũ
**Tiền Thục** (chữ Hán: 前蜀, bính âm: Qiánshǔ) là một trong 10 quốc gia được gọi là **Thập quốc** trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc trong lịch sử Trung Quốc, giữa thời nhà Đường
**Sở Thành vương** (chữ Hán: 楚成王, ?-626 TCN, trị vì 671 TCN-626 TCN), tên thật là **Hùng Uẩn** (熊恽) hay **Mị Uẩn** (芈恽), là vị vua thứ 23 của nước Sở - chư hầu nhà
**Triệu Hiếu Thành vương** (chữ Hán: 趙孝成王; trị vì: 265 TCN - 245 TCN), tên thật là **Triệu Đan** (趙丹), là vị vua thứ tám của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tiền Thục** (29 tháng 9 năm 929 - 7 tháng 10 năm 988, biểu tự là **Văn Đức**), được biết đến với tên **Tiền Hoằng Thục** trước năm 960, là vị vua cuối cùng của
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Tần Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 秦昭襄王; 325 TCN – 251 TCN, trị vì: 306 TCN - 251 TCN) hay **Tần Chiêu vương** (秦昭王), là vị vua thứ 33 của nước Tần - chư hầu
**Triệu Vũ Linh vương** (chữ Hán: 趙武靈王, 356 TCN - 295 TCN), tên thật là **Triệu Ung** (趙雍), là vị vua thứ sáu của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Sở Bình vương** (chữ Hán: 楚平王; trị vì: 528 TCN-516 TCN), nguyên tên thật là **Hùng Khí Tật** (熊弃疾), sau khi lên ngôi đổi là **Hùng Cư** (熊居) hay **Mị Cư** (羋居), là vị vua
**Sở Khang vương** (chữ Hán: 楚康王, ?-545 TCN, trị vì: 559 TCN-545 TCN), tên thật là **Hùng Chiêu** (熊審) hay **Mị Chiêu** (羋審), là vị vua thứ 27 của nước Sở - chư hầu nhà
**Ngụy Huệ Thành vương** (chữ Hán: 魏惠成王; trị vì: 369 TCN - 319 TCN) hay 369 TCN - 335 TCN) còn gọi là **Ngụy Huệ vương** (魏惠王) hay **Lương Huệ vương** (梁惠王), tên thật là
**Sở Trang vương** (chữ Hán: 楚莊王, ? - 591 TCN), tên thật là **Hùng Lữ** (熊旅), hay **Mị Lữ** (芈旅), là vị vua thứ 25 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Sở Cung vương** (chữ Hán: 楚共王 hay 楚龔王, 600 TCN-560 TCN), tên thật là **Hùng Thẩm** (熊審) hay **Mị Thẩm** (羋審), là vị vua thứ 26 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Sở Linh vương** (chữ Hán: 楚靈王, trị vì 541 TCN-529 TCN), tên thật là **Hùng Kiền** (熊虔) hay **Hùng Vi** (熊圍), là vị vua thứ 29 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**Vương An Thạch** (chữ Hán: 王安石 _Wang Anshi_; 18 tháng 12 năm 1021 – 21 tháng 5 năm 1086), tự **Giới Phủ** (介甫), hiệu **Bán Sơn Lão Nhân** (半山老人 _Banshan Laoren_), người ở Phủ Châu,
Năm 351 Năm 369 **Tiền Yên** là nhà nước đầu tiên của người Tiên Ty ở vùng Đông Bắc Trung Quốc do Mộ Dung Hoảng thành lập năm 337, diệt vong năm 370. Các nhà
**Hàn Tuyên Huệ vương** (chữ Hán: 韓宣惠王; trị vì: 332 TCN – 312 TCN), hay **Hàn Uy hầu** (韓威侯), tên là **Hàn Khang**, là vị vua thứ 7 của nước Hàn - chư hầu nhà
Dưới đây là một danh sách gồm quân chủ các nhà nước của người Triều Tiên: ## Cổ Triều Tiên Cổ Triều Tiên (2333 TCN ? (ko) – 108 TCN) là vương quốc đầu tiên
**Sở Huệ vương** (chữ Hán: 楚惠王, trị vì: 488 TCN-432 TCN), còn gọi là **Sở Hiến Huệ vương** (楚獻惠王), tên thật là **Hùng Chương** (熊章) hay **Mị Chương** (羋章), là vị vua thứ 33 của
**Yên Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 燕昭襄王; trị vì: 311 TCN-279 TCN), thường gọi là **Yên Chiêu Vương** (燕昭王), là vị vua thứ 39 hay 40. ## Lên ngôi trong loạn lạc Vua cha Yên
**Chu Thành vương** (chữ Hán: 周成王; 1065-1020 TCN), là vị Thiên tử thứ hai của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì khoảng 21 năm, từ năm 1042 TCN đến năm 1021
**Sái thúc Độ** (chữ Hán: 蔡叔度, còn được gọi là **Thái thúc Độ**), tên thật là **Cơ Độ** (姬度), là vị vua đầu tiên của nước Sái – chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Đường Thúc Ngu** (chữ Hán: 唐叔虞), tên thật là **Cơ Ngu** (姬虞), tự là **Tử Vu** (子於), là vị vua đầu tiên của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Đền Vua Đinh nhìn từ cổng đền Tế hội đền Vua Đinh Đền Vua Đinh nhìn từ Mã Yên Sơn **Đền thờ Đinh Tiên Hoàng** là một di tích quan trọng thuộc vùng bảo vệ
**Câu Tiễn** (chữ Hán: 越王勾踐; trị vì 496 TCN - 465 TCN) là vua nước Việt (ngày nay là Thượng Hải, bắc Chiết Giang và nam Giang Tô) cuối thời kỳ Xuân Thu trong lịch
**Tề Uy vương** (chữ Hán: 齊威王, ?-343 TCN, trị vì 356 TCN-320 TCN hay 379 TCN-343 TCN), tên thật là **Điền Nhân Tề** (田因齊),còn gọi là **Trần Hầu Nhân Tề**(陈侯因齐), là vị vua thứ ba
**Tào Thúc Chấn Đạc** (chữ Hán: 曹叔振鐸; trị vì: ?-1053 TCN), tên thật là **Cơ Chấn Đạc** (姬振鐸), là vị vua đầu tiên của nước Tào – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Lộc Dĩnh** (chữ Hán: 鹿郢, trị vì: 463 TCN - 458 TCN) còn gọi là **Dữ Di** hoặc **Ư Tứ** là tên một vị vua nước Việt thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc,
**Lịch đại Đế Vương miếu** (chữ Hán phồn thể: 厯代帝王廟; chữ Hán giản thể: 历代帝王庙, bính âm Hán ngữ: _Lìdài Dì Wáng miào_), còn gọi là **Miếu Lịch đại Đế Vương Trung Quốc** hay **Đế
**Quốc vương Thụy Điển** () là người đứng đầu Vương quốc Thụy Điển. Vua truyền ngôi theo chế độ cha truyền con nối; có hệ thống nghị viện phụ việc cho ông. Thời xa xưa,
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Đinh Tiên Hoàng** (; 22 tháng 3 năm 924 - tháng 10 năm 979), tên húy là **Đinh Bộ Lĩnh** (丁部領)), là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
**Tiền Tần** (350-394) là một nước trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Đông Tấn (265-420). Nước này do thủ lĩnh bộ tộc Đê là Bồ Hồng sáng lập
**Vương quốc Anh** () là quốc gia có chủ quyền đã từng tồn tại từ năm 927 đến năm 1707 ở phía tây bắc lục địa châu Âu. Ở thời đỉnh cao, Vương quốc Anh
**Victoria Adelaide của Liên hiệp Anh và Ireland, Vương nữ Vương thất, Hoàng hậu Đức và Vương hậu Phổ** (; , 21 tháng 11 năm 1840 – 5 tháng 8 năm 1901) là Vương nữ
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Chế độ quân chủ Vương quốc Liên hiệp**, thường được gọi chế độ **quân chủ Anh**, là chế độ quân chủ lập hiến của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Lãnh thổ
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Cờ vua** (), đôi khi còn được gọi là **cờ quốc tế** để phân biệt với các biến thể như cờ tướng, là một trò chơi board game dành cho hai người. Sau thời gian
**Tiền Việt Nam** được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Tiên Hoàng. Thời phong kiến, gần như mỗi đời
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
**Tấn** (Phồn thể: 晉國; Giản thể: 晋国) là một trong những nước chư hầu mạnh nhất trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương
Vua Việt Nam là các quân chủ của nước Việt Nam độc lập tự chủ từ thời dựng nước đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử mà vua
**Sở** (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / **Srikrung**) đôi khi được gọi **Kinh Sở** (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời
**Triều Tiên Cao Tông** (Hangul: 조선 고종; Hanja: 朝鮮高宗; RR: Gojong; MR: Kojong, 1852 - 1919) là vị vua thứ 26 và cũng là vị vua đầu tiên của nhà Triều Tiên xưng danh hiệu
**Phù Kiên** () (337–385), tên tự **Vĩnh Cố** (永固) hay **Văn Ngọc** (文玉), hay gọi theo thụy hiệu là **(Tiền) Tần Tuyên Chiêu Đế** ((前)秦宣昭帝) hoặc thông dụng hơn nữa là **Tần Chiêu Đế** (秦昭帝),