✨Sở Linh vương

Sở Linh vương

Sở Linh vương (chữ Hán: 楚靈王, trị vì 541 TCN-529 TCN), tên thật là Hùng Kiền (熊虔) hay Hùng Vi (熊圍), là vị vua thứ 29 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Ông là con thứ hai của Sở Cung vương, vua thứ 26 của nước Sở và em của Sở Khang vương - vua thứ 27 nước Sở.

Cướp ngôi cháu

Năm 545 TCN, vua anh là Sở Khang vương mất, Lệnh doãn Khuất Kiến lập con Khang vương là Hùng Viên làm vua, ít lâu sau Khuất Kiến chết, ông được lên làm Lệnh doãn, nắm hết chính sự, tự coi mình là vua Sở. Năm 541 TCN, ông thay vua Sở đi hội chư hầu. Trong năm ấy, ông đi ngang qua nước Trịnh, muốn hỏi lấy một người con gái nước Trịnh để được vào thành, tiện thể chiếm luôn nước Trịnh, nhưng vua Trịnh đã phòng bị, nên kế hoạch bất thành.

Năm 541 TCN, ông sai công tử Hắc Quang và hàng tướng nước Tấn sang là Bá Châu Lê sửa sang các thành Su, Lịch và Cáp, chuẩn bị đánh nước Trịnh. Sau đó công tử Vi cùng Ngũ Cử đi sang nước Trịnh sính lễ, giữa đường công tử Vi quay lại, để Ngũ Cử sang Trịnh một mình.

Về cung, Hùng Vi thắt cổ giết chết Giáp Ngao, rồi tâu với Chu Cảnh vương là Hùng Viên bị bệnh chết, sau đó lên ngôi, đổi tên là Hùng Kiền, tức là Sở Linh vương. đặt thuỵ hiệu cho Hùng Viên là Giáp Ngao. Hai em ông là Bỉ và Hắc Quang sợ bị giết bèn bỏ trốn.

Sở Linh vương ham mê sắc dục. Năm 536 TCN đã xây Chương Hoa cung (còn gọi là Tế Yêu cung), để vui chơi hoang lạc.

Chiến tranh với chư hầu

Xung đột với nước Ngô

Do lên ngôi bất chính nên Sở Linh Vương muốn tỏ rõ uy thế với các nước. Trước đó năm 545 TCN, tướng quốc nước Tề là Khánh Phong đã giết Tề Trang công, chạy sang nước Ngô. được Ngô Dư Sái thu nhận, cho ở huyện Chu Phương. Tháng 7 năm 538 TCN, Sở Linh vương muốn ra uy với chư hầu và trả thù nước Ngô nhiều lần lấn cướp biên giới bèn lấy danh nghĩa trừng phạt Khánh Phong bèn mang quân đánh huyện Chu Phương.

Khánh Phong không chống cự nổi, bị quân Sở bắt. Sở Linh vương mang Khánh Phong ra, đặt đao búa lên người và dẫn đi rao trong doanh trại quân Sở, sai người hô to: :Không ai được theo gương Khánh Phong!

Khánh Phong bèn hô lại: :Đừng ai bắt chước con thứ Sở Cung vương là Vi (tức là Sở Linh vương) giết con của vua anh cướp ngôi và giao ước với chư hầu!

Trong quân Sở nhiều người bật cười. Sở Linh vương xấu hổ vì bản thân mình vốn giết vua cũ để giành ngôi, vội sai mang Khánh Phong tử hình ngay.

Tất cả gia quyến còn lại của Khánh Phong cũng bị Sở Linh vương giết chết. Sau đó Ngô Dư Sái mang quân báo thù vua Sở lấn đất, đánh chiếm 3 ấp của nước Sở.

Sau khi giết Khánh Phong, Sở Linh vương tiếp tục mang quân đánh diệt nước Lại.

Năm 537 TCN, Sở Linh vương mang quân đánh Ngô, tiến đến đất Vu Lâu của nước Ngô. Sang năm sau (536 TCN), quân Sở lại tiến vào đất Càn Khôn. Vua Ngô là Dư Sái mang quân ra cự, đánh bại quân Sở.

Sở Linh vương kết thông gia với Tấn Bình công. Tấn Bình công sai thượng khanh Hàn Khởi và đại phu Dương Thiệt Bật đi sứ, rước con gái sang Sở. Sở Linh vương muốn làm nhục nước Tấn để khuất phục chư hầu, một mình làm chủ chứ không muốn chung danh hiệu bá chủ với nước Tấn, nên có ý định chặt chân Hàn Khởi cho làm lính canh cửa, thiến Dương Thiệt Bật làm hoạn quan. Đại phu nước Sở là Vỉ Khải Cương liền phân tích lợi hại, khuyên ông không nên gây hấn với nước Tấn hùng mạnh, có nhiều nhân tài. Sở Linh vương nghe theo, bèn giữ hòa hiếu với nước Tấn.

Sau đó ông lại muốn báo thù nước Ngô, bèn huy động các chư hầu Sái, Trần, Hứa, Thẩm, Từ và Việt cùng đi đánh Ngô. Vua Ngô Dư Sái sai em là Quệ Do đi sứ, mang lễ tới khao quân Sở. Sở Linh vương định giết Quệ Do lấy máu làm lễ ra quân. Quệ Do cảnh báo Sở Linh vương rằng cái chết của mình có thể khiến người Ngô căm thù mà đánh trả. Ông thấy quân Ngô đã phòng bị, bèn lui binh và bắt Quệ Do mang về nước Sở.

Năm 535 TCN, Sở Linh vương xây xong đài Chương Hoa, bèn mời Lỗ Chiêu công được sang dự lễ khánh thành. Linh vương tặng Chiêu công cái cung quý, sau đó lại hối tiếc. Vỉ Khải Chương biết ý ông, bèn đến gặp Lỗ Chiêu công, phân tích lợi hại rằng chiếc cung đó vốn vua Tấn, Tề và Việt đều muốn có, nếu nước Lỗ được cung thì sắp phải giao chiến với 3 nước kia. Lỗ Chiêu công bèn trả lại chiếc cung.

Diệt Trần và Sái

Năm 534 TCN, Trần Ai công ốm nặng sắp mất. Công tử Chiêu và công tử Quá nước Trần giết thế tử Yển Sư, lập công tử Lưu làm thế tử. Trần Ai công nghe tin công tử Chiêu tự ý làm loạn không ngăn được, phẫn uất thắt cổ tự vẫn. Công tử Chiêu và công tử Quá lập Quy Lưu lên ngôi. Trần Lưu sai Can Trưng Sư sang báo với nước Sở việc lập vua mới. Em Lưu là công tử Thắng sang tố cáo với Sở Linh vương về việc trong nước. Sở Linh vương nghe tin bèn giết Can Trưng Sư, rồi sai công tử Khí Tật mang quân đánh nước Trần, với danh nghĩa giúp con công tử Yển Sư là Công Tôn Ngô.

Trước sức mạnh của quân Sở, Trần Lưu liệu thế không chống nổi, bèn bỏ chạy sang nước Trịnh. Tháng 9 năm đó công tử Khí Tật nước Sở tiến vào đánh chiếm nước Trần, diệt nước Trần, bắt công tử Chiêu đày sang nước Việt và giết người cùng cánh là Khổng Hoán. Sở Linh vương diệt nước Trần, biến thành ấp nước Sở. Sử ký chép Sở Linh vương phong Khí Tật làm Trần công cai trị nước Trần, còn Tả truyện ghi người được ông giao trị đất Trần là Xuyên Phong Thú.

Năm 533 TCN, Sở Linh vương sai công tử Khí Tật thiên đô nước Hứa sang đất Di, gọi là Thành Phủ. Đại phu nước Sở là Ngũ Cử cho nước Hứa phần ruộng đất ở Châu Lai và Hoài Bắc khiến nước Hứa được mở rộng.

Sở Linh vương lại muốn can thiệp vào nước Sái, do việc Sái Linh hầu giết cha cướp ngôi. Năm 531 TCN, Sở Linh vương dụ Sái Linh hầu đến hội ở đất Thân. Sái Linh hầu không thể chống lại, đành phải đến hội. Sở Linh vương đổ phục binh ra bắt giữ Sái Linh hầu và giết chết.

Sau đó ông sai công tử Khí Tật mang quân đánh nước Sái. Thế tử Ẩn cố thủ trong thành. Tháng 11 năm đó, Khí Tật hạ được nước Sái, giết thế tử Ẩn, diệt nước Sái, được Sở Linh vương lệnh làm Sái công cai trị đất Sái.

Nước Tấn thấy nước Sở diệt liền 2 nước, sợ mất uy thế bá chủ, vội họp chư hầu bàn cách cứu Sái. Nước Tấn sai Hồ Phủ sang nước Sở xin hộ cho nước Sái, nhưng Sở Linh vương từ chối.

Cái chết

Sở Linh vương muốn ra oai với chư hầu, liên tiếp tiến hành chiến tranh. Ông thiên 6 nước chư hầu nhỏ sang Kinh Sơn. Cuối năm 530 TCN, Sở Linh vương muốn đánh Ngô, trước hết đánh đồng minh của Ngô là nước Từ để uy hiếp nước Ngô. Giữa mùa đông giá lạnh, ông thân chinh đi đông chinh, thúc quân vây hãm nước Từ, tự mình đóng quân ở Can Khê tiếp viện, sai thái tử Lộc ở lại giữ Sính đô.

Từ khi còn làm lệnh doãn tới khi lên ngôi, Sở Linh vương gây nhiều thù oán với các quan lại nước Sở vì chiếm đoạt đất đai và giết người nhà họ, lại dùng họ làm người phục vụ. Những người này oán hận ông, bèn hợp tác với phe cánh những người chống lại ông.

Nhân lúc Sở Linh vương đi đánh nước Từ, quân lính bị khổ ải vì thời tiết lạnh giá, oán hận ông, 3 người em là công tử Bỉ, công tử Hắc Quang và công tử Khí Tật (Sái công) định làm chính biến để lập công tử Bỉ làm vua. Một người phục vụ cho Linh vương, vốn là người nước Sái từng có thù với Linh vương là Quan Tòng có ý định khôi phục nước Sái, bèn bàn với Sái công Khí Tật, sẽ giúp Khí Tật lật đổ Sở Linh vương nếu Khí Tật trả lại nước Sái. Khí Tật đồng tình.

Ba công tử Bỉ, Hắc Quang và Khí Tật dựa vào quân nước Sái, nước Trần cũ, hẹn sẽ phục quốc, lại huy động các họ quý tộc nước Sở ở Bất Lang, đất Diệp và quân nước Hứa để cùng đánh vào Sính đô. Quân Trần và quân Sái hăng hái giúp Sái công Khí Tật đánh thành. Tướng nước Sở là Chính Bộc ngả theo phe công tử Bỉ, bèn giết chết thái tử Lộc và người con thứ của Sở Linh vương là công tử Bãi Dịch.

Sính đô bị hạ, công tử Bỉ được tôn làm vua mới, phong Hắc Quang làm Lệnh doãn, Khí Tật làm Tư mã. Vua Sở mới sai Quan Tòng đến Can Khê báo cho quân Sở Linh vương biết việc chính biến để dụ họ bỏ trốn.

Quân Sở nghe trong nước có biến, lại oán Sở Linh vương, nên cùng nhau bỏ trốn. Không lâu sau đại quân Sở tan vỡ. Sở Linh vương đơn độc chỉ còn lại vài người thân tín. Tử Cách khuyên ông trốn sang nước khác cầu viện, nhưng ông biết mình gây nhiều thù oán nên bị trả thù, đi lưu vong chỉ thêm nhục nhã.

Sở Linh vương men sông Hạ (tức sông Hán), định tới ấp Yển. Thân Hợi vốn có ơn với Linh vương bèn đi tìm ông và đưa về nhà. Sở Linh vương biết ngôi vua đã mất, không thể trở về khôi phục liền thắt cổ tự vẫn trong nhà Thân Hợi.

Về sau công tử Khí Tật giết Sở vương Bỉ lên ngôi, tức Sở Bình vương. Bình vương không biết về cái chết của ông, bèn tìm một xác chết và tuyên bố nó là thi thể của ông. Sau đó Thân Hợi kể hết câu chuyện cho Bình vương. Bình vương bèn ra lệnh chôn cất ông theo nghi lễ chư hầu và truy tặng thụy hiệu cho ông là Linh vương.

Gia đình

Cha: Sở Cung vương Anh: Sở Khang vương

  • Các em: Sở vương Bỉ Công tử Hắc Quang ** Sở Bình vương
  • Các con: Thái tử Hùng Lộc Công tử Hùng Bãi Dịch
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sở Linh vương** (chữ Hán: 楚靈王, trị vì 541 TCN-529 TCN), tên thật là **Hùng Kiền** (熊虔) hay **Hùng Vi** (熊圍), là vị vua thứ 29 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Sở Bình vương** (chữ Hán: 楚平王; trị vì: 528 TCN-516 TCN), nguyên tên thật là **Hùng Khí Tật** (熊弃疾), sau khi lên ngôi đổi là **Hùng Cư** (熊居) hay **Mị Cư** (羋居), là vị vua
**Sở Cung vương** (chữ Hán: 楚共王 hay 楚龔王, 600 TCN-560 TCN), tên thật là **Hùng Thẩm** (熊審) hay **Mị Thẩm** (羋審), là vị vua thứ 26 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Sở Chiêu vương** (chữ Hán: 楚昭王, bính âm: Chŭ Zhāo Wáng, 526 TCN - 489 TCN), thị **Hùng** (熊) tính **Mị** (芈), tên **Trân** (轸), là vị quốc vương thứ 13 của nước Sở -
**Sở Trang vương** (chữ Hán: 楚莊王, ? - 591 TCN), tên thật là **Hùng Lữ** (熊旅), hay **Mị Lữ** (芈旅), là vị vua thứ 25 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Linh Vương** (chữ Hán: 靈王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và hoàng thân quốc thích. ## Danh sách * Xuân Thu Chu Linh Vương * Đông Chu Sở Linh Vương *
**Sở Mục vương** (chữ Hán: 楚穆王, trị vì 625 TCN-614 TCN), tên thật là **Hùng Thương Thần** (熊商臣) hay **Mị Thương Thần** (羋商臣), là vị vua thứ 24 của nước Sở - chư hầu nhà
**Sở Thành vương** (chữ Hán: 楚成王, ?-626 TCN, trị vì 671 TCN-626 TCN), tên thật là **Hùng Uẩn** (熊恽) hay **Mị Uẩn** (芈恽), là vị vua thứ 23 của nước Sở - chư hầu nhà
**Sở Khang vương** (chữ Hán: 楚康王, ?-545 TCN, trị vì: 559 TCN-545 TCN), tên thật là **Hùng Chiêu** (熊審) hay **Mị Chiêu** (羋審), là vị vua thứ 27 của nước Sở - chư hầu nhà
**Sở Điệu Vương** (chữ Hán: 楚悼王, trị vì 401 TCN - 381 TCN), hay **Sở Điệu Chiết vương** (楚悼折王), tên thật là **Hùng Nghi** (熊疑), hay **Mị Nghi** (羋疑), là vị vua thứ 36 của
**Triệu Vũ Linh vương** (chữ Hán: 趙武靈王, 356 TCN - 295 TCN), tên thật là **Triệu Ung** (趙雍), là vị vua thứ sáu của nước Triệu - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Sở** (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / **Srikrung**) đôi khi được gọi **Kinh Sở** (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời
**Sở vương Bỉ** (chữ Hán: 楚王比, ?-529 TCN), còn gọi là **Sở Ti Ngao** (楚訾敖) tên thật là **Hùng Bỉ** (熊比), tự là **Tử Can** (子干), là vị vua thứ 30 của nước Sở -
**Vũ Linh Vương** (_chữ Hán_:武靈王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách * Chiến Quốc Triệu Vũ Linh Vương *
thumb|Thành huy Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc từ năm 1888 đến năm 1954, hiện nay được nhìn thấy trên nóc tòa nhà hiệu bộ của Trường THCS Trưng Vương **Trường Trung học cơ sở
**Sở Giáp Ngao** (chữ Hán: 楚郏敖, trị vì 544 TCN-541 TCN), tên thật là **Hùng Viên** (熊員), là vị vua thứ 28 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
**Vương Tiễn** (chữ Hán: 王翦; 304 TCN-214 TCN) là đại danh tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc, có công đánh dẹp các nước chư hầu ở Sơn Đông giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Sái Linh hầu** (chữ Hán: 蔡靈侯; trị vì: 542 TCN-531 TCN), tên thật là **Cơ Bàn** (姬般), là vị vua thứ 18 của nước Sái – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Đại Vương** (chữ Hán: 大王) là thụy hiệu hoặc tôn hiệu của một số vị quân chủ, ngoài ra **Đại Vương** (代王) còn là tước hiệu của một số vị quân chủ. ## Thụy hiệu
nhỏ| Một phiên bản được xuất bản của các Điều khoản của Liên minh, thỏa thuận dẫn đến việc thành lập [[Vương quốc Anh (1707–1801)|Vương quốc Liên hiệp Anh vào năm 1707]] Đạo luật Liên
**Phiên vương quốc** (Hán-Việt: 藩王國, tiếng Anh: Princely state), gọi tắt **phiên quốc**, hoặc **thổ bang**, là một quốc gia chư hầu nằm dưới quyền cai trị của các hoàng tộc bản địa Ấn Độ,
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
**Vương cung thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành** (tiếng Ý: _Basilica Papale di San Paolo fuori le Mura_, có tên khác là **Nhà thờ Thánh Phaolô**) là một trong bốn đại vương cung thánh đường
**Chính phủ Quốc vương Bệ hạ** (/HMG) thường được gọi là **Chính phủ Vương quốc Liên hiệp Anh**, là chính phủ trung ương của Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland. Lãnh đạo
**Khởi nghĩa Hùng Lĩnh** là một cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam. Công cuộc này khởi phát năm 1887 tại Hùng Lĩnh
**Sở vương Phụ Sô** (chữ Hán: 楚王負芻, trị vì 228 TCN-223 TCN), là vị vua thứ 45 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông tên là **Hùng Phụ
nhỏ|linh ảnh [[Giê-su|Chúa Giê-xu Ki-tô do hoạ sĩ nổi tiếng Nga Andrei Rublev vẽ.]] **Linh ảnh**, **ảnh thánh**, **thánh tượng**, hay **ảnh tượng**, (tiếng Anh: _icon_, chữ Hi Lạp: _Αγιογραφία_, chữ Nga: _Икона_, chữ Hán:
**Hòa Thạc Thuần Thân vương** (chữ Hán: 和碩淳親王, ) là tước vị truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Thuần vương phủ là Dận Hựu -
**Hàn vương Tín** (Hán văn phồn thể: 韓王信, giản thể: 韩王信; ? – 196 TCN) là vua chư hầu nước Hàn thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc. Vì ông trùng tên và sống
nhỏ|alt=Balcony snap|Hai vợ chồng mới cưới là [[William, Thân vương xứ Wales|Vương tôn William, Công tước xứ Cambridge và Kate, Công tước phu nhân xứ Cambridge trên ban công của điện Buckingham. Bên trái là
**Vương quốc Sicilia** (tiếng La Tinh: _Regnum Siciliae_; tiếng Ý: _Regno di Sicilia_; tiếng Sicilia: _Regnu di Sicilia_) là một nhà nước tồn tại ở phía Nam Bán đảo Ý và trong một thời gian
**Vương hậu** (chữ Hán: 王后; Hangul: 왕후Wanghu; tiếng Anh: Queen Consort) là một Vương tước thời phong kiến của một số quốc gia phương Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và các quốc
**Triệu vương** (趙王) là một phong hiệu dành cho các quốc vương và thân vương Trung Quốc cổ đại, đặt theo nước Triệu nhà Chu. ## Việt Nam ### Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
**Vương Nguyên** (Giản thể: 王源, Phồn thể: 王源, Bính âm: _WángYuán_, tiếng Anh: Roy Wang, sinh ngày 8 tháng 11 năm 2000 tại Trùng Khánh, Trung Quốc) là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, diễn
**Vương Lạc Đan** (, sinh ngày 30 tháng 1 năm 1984) là nữ diễn viên, ca sĩ sinh ra tại Nội Mông, Trung Quốc. Vương Lạc Đan gây được tiếng vang lớn nhờ vào vai
Đây là **danh sách những trường hợp được cho là đã nhìn thấy vật thể bay không xác định (UFO) đáng chú ý ở Vương quốc Liên hiệp Anh**. Nhiều vụ chứng kiến hơn đã
Cơ ngơi của Hội Vương thất Luân Đôn hiện nay, 6–9 [[Carlton House Terrace, London (một trong bốn tài sản thuộc Hội).]] ** Hội Vương thất Luân Đôn ** (), trụ sở đặt tại 6-9
**_Sở Từ_** (楚辞) là tuyển tập thi ca lãng mạn đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc, tương truyền là một thể thơ mới do quan đại phu nước Sở Khuất Nguyên sáng
**Đỗ Mỹ Linh** (sinh ngày 13 tháng 10 năm 1996) là một nữ người mẫu kiêm người dẫn chương trình truyền hình người Việt Nam. Cô từng giành đăng quang ở các cuộc thi Hoa
**Lý Viện** (chữ Hán: 李瑗, 586 – 626), tự **Đức Khuê**, người huyện Địch Đạo, quận Lũng Tây , hoàng thân nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông cụ là Thái
thế=Groups of two to twelve dots, showing that the composite numbers of dots (4, 6, 8, 9, 10, and 12) can be arranged into rectangles but the prime numbers cannot|nhỏ| Hợp số có thể được
**Hoàn Sở** (chữ Hán: 桓楚, ? - ?) là tướng lĩnh nhà Tây Sở trong lịch sử Trung Quốc. ## Trong sử tịch Ghi chép về Hoàn Sở rất ít ỏi. **Sử ký – Hạng
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
nhỏ|Hào Cách - thủy tổ của Túc vương phủ **Hòa Thạc Túc Thân vương** (chữ Hán: 和碩肅親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế