Sở Khang vương (chữ Hán: 楚康王, ?-545 TCN, trị vì: 559 TCN-545 TCN), tên thật là Hùng Chiêu (熊審) hay Mị Chiêu (羋審), là vị vua thứ 27 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Hùng Chiêu là con trai trưởng của Sở Cung vương, vua thứ 26 của nước Sở. Năm 560 TCN, Sở Cung vương qua đời, Hùng Chiêu lên nối ngôi, tức là Sở Khang vương.
Việc đối nội
Vừa lên ngôi, Sở Khang vương dùng công tử Ngọ làm Tả Lệnh doãn, công tử Bãi là Hữu lệnh doãn, Vi Tử Bằng làm tả tư mã, công tử Thác Sư làm hữu tư mã, Khuất Đáo làm mạc ngao, công tử Chuy Thư làm Cung cứu doãn. Việc dùng người của Khang vương được xem là đúng đắn giúp nước Sở được yên ổn.
Năm 552 TCN, Sở vương muốn trị tội quan đại phu Quan Khởi vì ông này được Lệnh doãn là Công tôn Truy Thư (Tử Nam) sủng ái nên nhà có hơn chục cỗ xe dù bổng lộc không có bao nhiêu, lại muốn xử luôn cả Tử Nam. Con trai của Tử Nam là Khí Tật giữ chức Xa ngự theo hầu xa giá, mà Sở vương mỗi lần gặp Khí Tật đều rỏ nước mắt. Khí Tật hỏi vua tại sao mà như thế, Sở vương đáp rằng
:Lệnh doãn không làm tròn phận sự, ngươi đã biết. Nước sắp trị tội, còn ngươi có ở lại không.
Khí Tật trả lời rằng nếu đã giết bố thì cũng không chắc sẽ dùng người con thì ở lại cũng không ích gì; nhưng cũng hứa là không tiết lậu ý định (giết Tử Nam) của nhà vua. Về sau Sở vương giết Tử Nam tại triều đình, khép tội đồ đảng là Quan Khởi bốn ngựa xé thây. Khí Tật xin lấy xác của Tử Nam về nhà an táng, nhà vua thuận cho; rồi sau Khí Tật cũng thắt cổ mà chết chứ không trốn sang nước khác.
Sở vương cho Vỉ Tử Bằng lên thay chức Lệnh doãn. Tử Bằng có 8 người sủng bế, người nào cũng có nhiều ngựa dù bổng lộc ít. Tử Bằng thấy gương của Tử Nam, bèn đuổi 8 người đó đi, vì thế Sở vương rất yên tâm.
Việc đối ngoại
Tranh chấp ngôi bá với Tấn
Năm 560 TCN, nước Trịnh lại thần phục nước Sở, Sở vương bèn trả lại sứ giả của Trịnh bị vua cha bắt giam khi trước.
Mùa thu năm đó, vua Ngô là Chư Phàn đem quân đánh nước Sở, nhưng bị quân Sở đánh bại.
Năm 559 TCN, Tấn Điệu công hội quân chư hầu các nước Tề, Trịnh, Tống, Lỗ, Vệ cùng đánh nước Tần, đồng minh của Sở. Quân Tấn vượt sông Kinh Thủy, đánh tan quân Tần. Sở Khang vương đem quân cứu Tần. Nước Ngô nhân cơ hội đó đánh Sở, đánh bại quân Sở.
Năm 557 TCN, Tấn Bình công đem quân đánh Sở, tiến đến Đắc Trạm, đánh tan quân Sở.
Năm 555 TCN, sau khi đánh bại quân Tề, nước Tấn lại tập hợp chư hầu đánh Tần. Lệnh doãn Khuất Kiến án binh không cứu Tần.
Cùng năm, nội bộ nước Trịnh có tranh chấp. Công tử Gia muốn bãi chức các đại phu để nắm quyền và rời khỏi ảnh hưởng của nước Tấn, bèn mượn nước Sở. Sở Khang vương sai công tử Ngọ mang quân đánh Trịnh, trong lúc cánh quân theo nước Tấn đi đánh Tề chưa về. Các đại phu nước Trịnh ráo riết phòng thủ, quân Sở tiến đến Ngư Lăng, cuối cùng không hạ được thành phải rút lui.
Mùa hè năm 551 TCN, vua Trần là Trần Ai công sang chầu nước Sở. Nhân đó công tử Hoàng là em cùng mẹ với vua Trần bị hai đại phu Khánh Hổ, Khánh Dần truy sát cũng bỏ chạy sang Sở, bèn tố cáo họ Khánh với Sở vương. Sở vương cho triệu hai người họ Khánh tới. Khánh Hổ và Khánh Dần sai người trong họ là Khánh Lạc đi thay, nước Sở bèn giết Khánh Lạc. Khánh Hổ và Khánh Dần bèn cùng nhau tạo phản, chiếm cứ đô thành Trần quốc; Sở vương cho Khuất Kiến hộ tống Trần hầu và Công tử Hoàng về nước, người nước Trần bèn giết họ Khánh và nghênh đón công tử Hoàng về nước.
Tháng 8 năm 550 TCN, nhân nước Tấn với nước Tề có hiềm khích, Tấn hội chư hầu tại Di Nghi để bàn việc đánh Tề. Sở vương vào mùa đông năm đó cùng với Trần hầu, Sái hầu và Hứa nam đánh Trịnh để cứu Tề. Quân 4 nước đóng đồn ở Cức Trạch, vây hãm đô thành Trịnh quốc.
Năm 549 TCN, Tấn Bình công định đánh Tề vì Tề Trang công liên minh với Sở, nhưng không đủ sức nên không phát lệnh ra quân. Sở Khang vương họp quân Sái, Hứa, Trần đi đánh Trịnh để cứu Tề. Các chư hầu bèn quay về cứu Trịnh. Quân Sở rút lui. Trong lúc Sở vương đánh Trịnh, nước Ngô mua chuộc nước Thư Cưu là phụ dung của Sở chống lại Sở. Khang vương bèn sai Thẩm Doãn Thệ và Sư Kỳ Lê đi trách Thư Cưu tử. Thư Cưu tử nói rằng không có việc phản bội và xin lập lại minh ước. Hai tướng về báo tin nhưng Sở vương muốn đánh tiếp, nhờ có Vỉ Tử can ngăn nên mới tạm thôi.
Chiến tranh với nước Ngô
Năm 550 TCN, Sở vương mang quân đánh nước Ngô. Nhưng quân Sở không thắng được quân Ngô, phải rút về.
Năm 548 TCN, Sở Khang vương lại họp quân Sái, Trần đánh Trịnh. Liên quân tiến đánh phá thành Nam Lý nước Trịnh. Cùng năm, Sở Khang vương sai Lệnh doãn Khuất Kiến mang quân đánh nước Thư Cưu. Nước Thư Cưu cầu cứu nước Ngô. Ngô Chư Phàn cho quân tới cứu. Quân Ngô đóng giữa 2 cánh quân Sở. Quân Sở đóng trong vùng ẩm thấp, sợ để lâu ngày sẽ mất sức chiến đấu, bèn quyết định đánh nhanh, đánh bại quân Ngô. Sau khi quân Ngô rút, quân Sở tiến vào diệt nước Thư Cưu. Bờ cõi nước Sở tiếp tục được mở rộng. Sở vương muốn thưởng công Khuất Kiến nhưng Khuất Kiến không nhận vì cho rằng công lao đó thuộc về Vỉ Tử (đã mất). Sở vương bèn ban thưởng con Vỉ Tử là Vỉ Yểm.
Cuối năm đó, Ngô vương là Chư Phàn đi đánh Sở báo thù. Quân Ngô vây ấp Sào nước Sở. Sào Ngưu Thần bày kế dụ quân Ngô vào và cho quân mai phục. Ngô Chư Phàn trúng kế, tiến vào thành trước, bị Ngưu Thần nấp sau tường thấp bắn, trúng tên tử trận. Quân Ngô rút lui.
Năm 547 TCN, đại phu nước Sở là Tiêu Cử bị Sở Khang vương ghét, tức giận bỏ trốn sang Tấn.
Giảng hòa với Tấn
Đại phu Hướng Thú nước Tống kết bạn với cả Triệu Mạnh nước Tấn và Lệnh doãn Tử Mộc nước Sở. Hướng Thú muốn chư hầu kết thúc nạn chiến tranh liên miên vì ngôi bá chủ giữa nước Tấn và nước Sở, sau khi xin lệnh Tống Bình công, bèn đi ngoại giao với 2 nước lớn Tấn, Sở đề nghị dàn xếp để hội chư hầu, trong đó cả hai nước Tấn và Sở đều làm bá chủ.
Sở Khang vương và Tấn Bình công đều đồng tình với gợi ý của nước Tống, chư hầu thống nhất tổ chức hội nghị tại nước Tống. Vào tháng 5 năm 546 TCN, chư hầu các nước đến hội họp gồm có Tấn, Sở, Lỗ, Sái, Tần, Vệ, Trần, Trịnh, Hứa, Tào. Đây là hội chư hầu đầu tiên cả vua Tấn và vua Sở cùng làm bá chủ và được xác định là hội nghị duy nhất có sự kiện này trong thời Xuân Thu. Từ đó trong một thời gian, các chư hầu bớt phải tham gia vào các liên minh tranh giành bá chủ giữa Tấn và Sở, tạm thời kết thúc cục diện tranh hùng gần 100 năm giữa hai nước.
Qua đời
Năm 545 TCN, Sở Khang vương qua đời. Ông làm vua được 15 năm. Con ông là Hùng Viên lên nối ngôi khi còn nhỏ tuổi, tức là Sở Giáp Ngao.
Ngày tết năm mới, Lỗ Tương công ở Sính đô dự tang Sở Khang vương. Theo đề nghị của vị quan Vu chúc (phụ trách nghi lễ) nước Sở, vua Lỗ thân hành tới đưa đồ áo khâm liệm, cầm cành đào làm phép trừ khử việc không lành cho Sở Khang vương. Theo nghi lễ, việc cầm cành đào làm phép trừ tà là việc vua đến viếng bầy tôi qua đời mới làm. Ban đầu Lỗ Tương công ngần ngại, nhưng vì vị quan Vu chúc nước Sở đề nghị mới làm theo. Bá quan nước Sở không ngăn cản gì, sau đó mới ân hận vì để vua nước Lỗ nhỏ hơn coi vua mình như bề tôi.
Đánh giá
Xuân thu tam truyện dẫn lời Cao Kháng đánh giá về hành vi giết Lệnh doãn Công tôn Truy Thư của Sở Khang vương
:Truy Thư vì bế sủng gần kẻ tiểu nhân, cho nên rồi bị nạn. Tuy nhiên, cứ như nước Sở hùng mạnh, trừ một đại phu sủng bế thì có gì khó. Mà Khang vương đầu tiên cùng với người con bàn giết bố, cuối cùng giết người bố, phanh thây đồ đảng. Thế nên uy quyền ở trên đã mất, cho nên hình pháp không đủ thi hành đến bên dưới. Xét uy quyền đã có, đã rõ, thì chỉ chê trách cũng đủ làm cho kẻ gian mất phong nhuệ bén sắc. Khi uy quyền đã mất, thì đao kiếm không đủ trị tội gian thần. Bao nhiêu oán độc, tích lũy sẽ dồn vào đời Linh vương. Nước Sở không mất, chỉ là may tôi.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sở Khang vương** (chữ Hán: 楚康王, ?-545 TCN, trị vì: 559 TCN-545 TCN), tên thật là **Hùng Chiêu** (熊審) hay **Mị Chiêu** (羋審), là vị vua thứ 27 của nước Sở - chư hầu nhà
**Sở Khang Vương** (_chữ Hán_:楚康王) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Sở Khang vương Hùng Chiêu, vị quân chủ thứ 27 của nước Sở thời Tây Chu và Xuân
**Sở Bình vương** (chữ Hán: 楚平王; trị vì: 528 TCN-516 TCN), nguyên tên thật là **Hùng Khí Tật** (熊弃疾), sau khi lên ngôi đổi là **Hùng Cư** (熊居) hay **Mị Cư** (羋居), là vị vua
**Sở Linh vương** (chữ Hán: 楚靈王, trị vì 541 TCN-529 TCN), tên thật là **Hùng Kiền** (熊虔) hay **Hùng Vi** (熊圍), là vị vua thứ 29 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Sở Cung vương** (chữ Hán: 楚共王 hay 楚龔王, 600 TCN-560 TCN), tên thật là **Hùng Thẩm** (熊審) hay **Mị Thẩm** (羋審), là vị vua thứ 26 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Khang Vương** (chữ Hán: 康王) là thụy hiệu và tước hiệu hay tôn hiệu của một số vị quân chủ và phiên vương ở khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Thụy hiệu #
**Sở** (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / **Srikrung**) đôi khi được gọi **Kinh Sở** (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời
**Bột Hải Mục Tông** (trị vì 795 – 809) là quốc vương thứ sáu của Vương quốc Bột Hải, tên thật của ông là **Đại Tung Lân** (대숭린, 大嵩璘, Dae Sung-rin). Ông là vương tử
**Hi Khang Vương** (mất 838, trị vì 836–838) là người trị vì thứ 43 của Tân La. Ông là vương tôn của Nguyên Thánh Vương và là con trai của _y xan_ Kim Hiến Trinh
**Tống Khang vương** (chữ Hán: 宋康王; ?-286 TCN; trị vì: 334 TCN-286 TCN) hay **Tống vương Yển** (宋王偃), tên thật là **Tử Yển** (子偃), là vị vua thứ 34 và là vua cuối cùng của
**Chu Khang Vương** (chữ Hán: 周康王, 1040 TCN - 996 TCN), là vị vua thứ ba của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì khoảng 26 năm, tính từ năm 1020 TCN
**Vinh Khang Vương** (chữ Hán: 榮康王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ: ## Danh sách * Minh triều Đường Sơn Vinh Khang Vương * Minh triều Yển Thành Vinh Khang Vương *
**Điệu Khang Vương** (chữ Hán: 悼康王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Minh triều Lăng Xuyên Điệu Khang Vương * Minh triều Hoa Dương Điệu Khang Vương *
**Đoan Khang Vương** (chữ Hán: 端康王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Minh triều Phong Lâm Đoan Khang Vương * Minh triều Hải Dương Đoan Khang Vương *
**Hoài Khang Vương** (chữ Hán: 懷康王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách * Minh triều Ninh Tân Hoài Khang Vương * Minh triều Sùng Thiện Hoài Khang Vương
**Hy Khang Vương** (chữ Hán: 僖康王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Danh sách * Tân La Hi Khang vương * Minh triều Hoài
**Cung Khang Vương** (_chữ Hán_:恭康王) là thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử bên Trung Quốc thời phong kiến. ## Danh sách * Bắc Tống Nam Dương Cung Khang Vương Triệu Tông Kiểu
**Sở vương Bỉ** (chữ Hán: 楚王比, ?-529 TCN), còn gọi là **Sở Ti Ngao** (楚訾敖) tên thật là **Hùng Bỉ** (熊比), tự là **Tử Can** (子干), là vị vua thứ 30 của nước Sở -
**Sở Giáp Ngao** (chữ Hán: 楚郏敖, trị vì 544 TCN-541 TCN), tên thật là **Hùng Viên** (熊員), là vị vua thứ 28 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Sở Bá Vương** (_chữ Hán_:楚霸王) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ giai đoạn Tần Hán giao thời *Nam Sở Bá Vương Khang Sở
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Lưu Khang** (chữ Hán: 劉康; ? - 23 TCN), thụy hiệu **Định Đào Cung vương** (定陶恭王), lại có thụy **Cung Hoàng** (恭皇), là một hoàng tử nhà Hán, Chư hầu Vương thứ hai của nước
nhỏ|Lễ Liệt Thân vương [[Đại Thiện]] **Hòa Thạc Lễ Thân vương** (chữ Hán:和碩禮親王, ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Do được ban ân con
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
**Chân Thánh nữ vương** (mất 897, trị vì 887–897), tên húy là **Kim Mạn** (金曼, 김만) hay **Kim Viên** (金垣, 김원), là người trị vì thứ 51 của vương quốc Tân La. Bà cũng là
**Hòa Thạc Thuần Thân vương** (chữ Hán: 和碩淳親王, ) là tước vị truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Thuần vương phủ là Dận Hựu -
**Vương quốc Anh** () là quốc gia có chủ quyền đã từng tồn tại từ năm 927 đến năm 1707 ở phía tây bắc lục địa châu Âu. Ở thời đỉnh cao, Vương quốc Anh
**Vương Lạc Đan** (, sinh ngày 30 tháng 1 năm 1984) là nữ diễn viên, ca sĩ sinh ra tại Nội Mông, Trung Quốc. Vương Lạc Đan gây được tiếng vang lớn nhờ vào vai
Di Thân vương [[Phổ Tịnh - vị _"Thiết mạo tử vương"_ thuộc dòng dõi Hòa Thạc Di Hiền Thân vương Dận Tường.]] **Thiết mạo tử vương** () là tên gọi những Vương tước thế tập
**Sở Hùng Dịch** (chữ Hán: 楚熊繹), được xem là vị vua thứ tư của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Về mặt chính thức, ông là vị quân chủ
**Chiến tranh Hán-Sở** (漢楚爭雄 _Hán Sở tranh hùng_, 楚漢戰爭 _Sở Hán chiến tranh_, 楚漢相爭 _Sở Hán tương tranh_ hay 楚漢春秋 _Sở Hán Xuân Thu_, 206–202 TCN) là thời kỳ sau thời đại nhà Tần ở
**Vương Tiễn** (chữ Hán: 王翦; 304 TCN-214 TCN) là đại danh tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc, có công đánh dẹp các nước chư hầu ở Sơn Đông giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất
**Sở Khoảnh Tương vương** (chữ Hán: 楚頃襄王, 329 TCN-263 TCN, trị vì 298 TCN - 263 TCN. Trong thời gian ở Tần, Hùng Hoành có mâu thuẫn với đại phu Hữu Tư của Tần. Năm
Trong toán học, một cơ sở có thứ tự của một không gian vectơ hữu hạn chiều cho phép biểu diễn duy nhất một phần tử bất kỳ trong không gian vectơ bởi một vectơ
**Phó vương quốc Peru** hay **Phó vương phủ Peru** (tiếng Tây Ban Nha:_Virreinato del Perú_) là một đơn vị hành chính thuộc địa của Tây Ban Nha được thành lập vào năm 1542. Lãnh thổ
**Thân vương quốc** (; ; ; ), hay **Lãnh địa vương hầu**, là một danh xưng để chỉ một vùng lãnh thổ tương đương công quốc, có chủ quyền hoặc một lãnh địa thân vương,
Đây là **danh sách những trường hợp được cho là đã nhìn thấy vật thể bay không xác định (UFO) đáng chú ý ở Vương quốc Liên hiệp Anh**. Nhiều vụ chứng kiến hơn đã
**Ai Trang Vương** (788–809, trị vì 800–809) là quốc vương thứ 40 của vương quốc Tân La tồn tại trên bán đảo Triều Tiên. Ông là con trai của Chiêu Thánh Vương và Quế Hoa
**Leonor của Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Leonor de Portugal_; 1328 – 30 tháng 10 năm 1348), là một Infanta của Bồ Đào Nha và là Vương hậu Aragón từ năm 1347 đến
**Sự biến Tĩnh Khang** (), còn gọi **Loạn Tĩnh Khang** () hay **Sự sỉ nhục Tĩnh Khang** (), là một biến cố lớn trong lịch sử Trung Quốc xảy ra vào năm 1127, đánh dấu
**Thần Vũ Vương** (trị vì 839, mất 839) là quốc vương thứ 45 của Tân La. Thời gian cai trị của ông là ngắn nhất trong lịch sử vương quốc, chỉ kéo dài từ tháng
thumb|Vương Đạo **Vương Đạo** (chữ Hán: 王導, 276 - 339), tên tự là **Mậu Hoằng** (茂弘), nguyên quán ở huyện Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông, là đại thần, tể tướng dưới thời Đông Tấn trong
**Hội nghị Nghị chính Vương Đại thần** (; ), còn được gọi tắt là **Nghị chính xứ** (), là một cơ quan cố vấn cho Hoàng đế (Đại hãn) thời kỳ đầu nhà Thanh. Nghị
**Bột Hải Thánh Tông** (trị vì 818 - 830) là vị quốc vương thứ 10 của vương quốc Bột Hải. Ông có tên thật là **Đại Nhân Tú** (대인수, 大仁秀, Dae In-su). Trong giai đoạn
**Mẫn Ai Vương** (mất 839, trị vì 838–839) là quốc vương thứ 44 của Tân La. Ông là chắt của Nguyên Thánh Vương, và là con trai của _đại a xan_ Kim Trung Công (_Kim
**Bột Hải Nghị Tông** (trị vì 809 – 812) là vị quốc vương thứ 7 của vương quốc Bột Hải. Ông là đại vương tử của Bột Hải Khang Vương Đại Tung Lân. Ông có
**Triều đại Tudor** hoặc **Nhà Tudor** là một Vương thất châu Âu có nguồn gốc từ xứ Wales. Từ năm 1485 đến 1603, Nhà Tudor cai trị Vương quốc Anh và các lãnh thổ, trong
**Vương tộc Plantagenet** (phát âm: ) là một triều đại có nguồn gốc từ Bá quốc Anjou ở Pháp. Cái tên Plantagenet được các nhà sử học hiện đại sử dụng để xác định bốn
**Vương Vũ Tuấn** (chữ Hán: 王武俊, bính âm Wang Wujun, 735 - 9 tháng 8 năm 801), tên tự là **Nguyên Anh** (元英), bản danh **Một Nặc Hàn** (沒諾幹), thụy hiệu **Lang Nha Trung Liệt