✨Sở Chiêu vương

Sở Chiêu vương

Sở Chiêu vương (chữ Hán: 楚昭王, bính âm: Chŭ Zhāo Wáng, 526 TCN - 489 TCN), thị Hùng (熊) tính Mị (芈), tên Trân (轸), là vị quốc vương thứ 13 của nước Sở - một Vương quốc tồn tại dưới thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Sở Chiêu vương kế nghiệp phụ thân là Sở Bình vương làm quốc vương khi mới 10 tuổi, giữa lúc Sở quốc đang trong giai đoạn khủng hoảng và phải đương đầu với nhiều khó khăn từ các gian thần trong nước và sự đe dọa từ Ngô quốc ở miền đông ngày càng lớn mạnh. Đến năm 505 TCN, sau trận Bá Cử, quân Ngô công nhập Dĩnh đô khiến Sở Chiêu vương phải bỏ chạy lưu vong. Tuy về sau khôi phục được cơ nghiệp, nhưng Ngô vẫn chầu chực đe dọa, Chiêu vương phải thiên đô đến đất Nhược (504 TCN).

Cho đến những năm trị vì cuối cùng khi Ngô suy yếu, thì Sở mới khôi phục phần nào sức mạnh quân sự của mình qua một số cuộc viễn chinh do Chiêu vương đích thân chỉ huy. Ông qua đời vào năm 489 TCN trên đường hành quân và người kế vị là Vương tử Chương, tức Sở Huệ vương.

Thân thế éo le

Hùng Trân là con trai thứ tư của Sở Bình vương Hùng Cư, quốc vương thứ 12 của Sở quốc, mẫu thân ông là Bá Doanh, muội muội của Tần Ai công, quốc quân nước Tần ở miền tây. Các huynh trưởng của Hùng Trân gồm Thái tử Kiến, Vương tử Thân (Tử Tây), Vương tử Kết (Tử Kỳ) và còn một người em là Vương tử Khải (Tử Lự). Về cuộc hôn nhân của song thân Sở Chiêu vương là một truyền thuyết thú vị của thời Xuân Thu.

Sở Bình vương khi còn là Sái công phục vụ dưới trướng vương huynh tức Sở Linh vương, lấy một người con gái ở ấp Kích Dương, sinh ra con trai là Kiến. Khi Bình vương sát ba vị huynh trưởng để tự lập làm vua (529 TCN), đã phong cho Kiến làm Thái tử, và để Ngũ Xa, Phí Vô Cực làm người trợ giúp cho Thái tử. Phí Vô Cực sau đó hiến kế cho Bình vương cầu hôn một vị công chúa Tần quốc cho Thái tử Kiến, đó chính là nàng Bá Doanh. Tháng 1 năm 523 TCN, sau khi Bá Doanh đến Sở quốc, Bình vương vì say mê sắc đẹp của Bá Doanh mà cướp lấy làm vợ mình, đày Thái tử Kiến ra huyện Thành Phụ gần biên giới. Trong khoảng thời gian đó, Bá Doanh sinh ra Hùng Trân, sau lại sinh một con gái, gọi là Quý Mễ.

Năm 522 TCN, Phí Vô Cực gièm pha thái tử Kiến cùng Ngũ Xa muốn làm phản. Bình vương bèn đuổi thái tử Kiến và giết chết cả gia đình Ngũ Xa. Người con thứ của Xa là Ngũ Tử Tư thoát nạn và chạy sang Ngô quốc để tìm được báo thù nước Sở. Sau đó Bình vương sau đó lập Bá Doanh làm Vương hậu. Thái tử Kiến chạy trốn đến nước Trịnh và hợp mưu với người Tấn để chiếm nước Trịnh nên bị Trịnh giết chết. Vì Sở Chiêu vương tuổi hãy còn nhỏ, chính sự đều nằm trong tay Nang Ngõa.

Giao tranh với quân Ngô

Giản đồ các nước cuối thời Xuân Thu

Tháng 4 năm 515 TCN, Ngô vương tên là Liêu nhân Sở đang có tang, sai Công tử Yểm Dư và Chúc Dung đánh Sở, bao vây đất Tiềm. Sở đình cử Bá Khước Uyển và Công Doãn Mỵ cầm quân cứu Tiềm. Hai quân gặp nhau ở đất Củng và quân Sở đã chặn đứt được đường tiến lui của quân Ngô..

Cũng năm đó, công tử Quang nước Ngô sát hại Ngô vương để đoạt ngôi, xưng là Ngô Hạp Lư.

Mùa đông năm 512 TCN, Hạp Lư sai Tôn Vũ đi lùng bắt hai vương tử con của Liêu. Hai Vương tử đều bỏ chạy sang Sở. Vua Sở bèn phong nhiều đất đai cho họ, đồng thời phái Đậu Doãn Nhiên và Thẩm Doãn Tuất xây thành ở Dưỡng để hai Vương tử này ở, có ý dùng họ để uy hiếp Ngô quốc. Vương tử Thân can ngăn ông không nên cố tình gây hấn với người Ngô, nhưng ông không nghe. Tháng 12 năm đó, Ngô diệt hai nước Chung Ngô và Từ; Sở vương sai Thẩm Doãn Tuất cầm quân cứu Từ, song không kịp. Từ tử bị Ngô đánh bại và chạy sang Sở, người Sở ban cho Từ tử ở ấp Thành Phủ. Bấy giờ Ngũ Tử Tư là thuộc hạ đắc lực của Ngô vương, hiến kế cho Hạp Lư dùng ba đạo quân thay phiên quấy phá Sở, khiến quân Sở lâm vào bị động và yếu thế trong các cuộc giao chiến với Ngô.

Sau đó, Tôn Vũ thừa thắng chiếm đất Thư thuộc nước Sở, giết Yểm Dư và Chúc Dung. Năm 511 TCN, Tôn Vũ lấy cớ "Sở vương từ chối không chịu trao thanh bảo kiếm Trạm Lư cho Hạp Lư" nên cùng Ngũ Viên, Bá Hi đánh Sở, chiếm được hai sứ Lục và Tiềm thuộc đất Sở.

Biến động trong triều

Quan Đại phu của Sở là Bá Khước Uyển tính tình thẳng thắn, ôn hòa rất được lòng quốc nhân; nhưng bị bọn gian thần Phí Vô Cực và Yến Tương Sư ghen ghét. Còn Lệnh doãn là Nang Ngõa thích ăn hối lộ và nghe lời gièm pha. Vô Cực vu cáo Khước Uyển muốn giết hại Nang Ngõa. Nang Ngõa nghe lời của Vô Cực, buộc Khước Uyển phải tự sát, rồi giết phe đảng họ Khước, người trong nước đều lấy làm bất bình, sỉ mắng Phí Vô Cực và Yến Tương Sư, Nang Ngõa nghe được thì lấy làm lo sợ.

Về sau Nang Ngõa dò xét lại vụ án đó mới biết Bá Khước Uyển bị oan, và người dân vẫn oán hận mình vì việc ấy. Vương tử Thân và Thẩm Doãn Tuất đề nghị Nang Ngõa giết Vô Cực và Tương Sư, Nang Ngõa bất đắc dĩ phải nghe theo.

Chạy loạn giặc Ngô

Mất lòng vua Sái và vua Đường

Năm 509 TCN, Sái Chiêu hầu sang triều kiến Sở Chiêu vương. Vua Sái có một đôi ngọc bội và một đôi áo cầu rất đẹp, dâng cho Sở Chiêu vương mỗi thứ một chiếc, còn lại mình dùng. Trong tiệc, Sái Chiêu hầu cùng Sở Chiêu vương mặc áo cầu và đeo ngọc bội. Lệnh doãn Nang Ngõa thấy Sái Chiêu hầu có đồ quý nổi lòng tham, muốn đòi áo và ngọc bội của, Sái Chiêu hầu không cho. Vì vậy Nang Ngõa bèn gièm pha với Sở Chiêu vương, giam lỏng vua Sái ở lại nước Sở.

Sau đó, vua Đường cũng đến triều kiến nước Sở, có đôi ngựa quý, cũng bị Nang Ngõa đòi, nhưng vua Đường từ chối, cũng bị bắt giam.

Năm 506 TCN, người nước Đường bàn nhau lấy ngựa quý dâng cho Nang Ngõa để xin cho vua Đường về. Nang Ngõa bằng lòng. Sái Chiêu hầu thấy vậy cũng đành hiến áo cầu và ngọc bội cho Nang Ngõa, mới được thả về nước.

Sái Chiêu hầu oán hận nước Sở, khi trở về nước bèn cho con sang nước Tấn làm con tin, đề nghị Tấn Định công đánh Sở để báo thù. Tấn Định công họp quân chư hầu, và sai Tuân Dần và Sĩ Ưởng mang quân đánh Sở.

Tháng 3 năm 506 TCN, chư hầu họp tại Thiệu Lăng bàn đánh nước Sở. Nhưng hai tướng Tấn cũng muốn đòi tiền hối lộ của nước Sái, Sái Chiêu hầu từ chối. Vì vậy quân Tấn đóng một thời gian rồi từ tạ Sái Chiêu hầu về nước. Cùng năm đó nước Sở buộc nước Hứa thiên đô tới đất Dung Thành. Đây là lần thứ tư nước Hứa phải thiên đô theo ý nước Sở.

Sau đó nước Sái xin viện quân nước Tấn để diệt nước Thẩm. Mùa thu năm đó, Sở vì trả thù cho Thẩm mà đem vây Sái. Sái Chiêu hầu lo lắng, sai người đi cầu cứu nước Ngô. Ngô Hạp Lư cùng Tôn Vũ và Ngũ Viên khởi đại quân đi đánh Sở để giúp Sái.

Bại trận mất Dĩnh đô

Thấy quân Ngô kéo tới, quân Sở giải vây nước Sái ra ứng phó. Quân Ngô có quân Đường và quân Sái hợp lực, cùng đánh Sở. Quân Ngô tiến đến Dự Chương rồi dọc sông Hán tiến sang phía tây. Nang Ngõa đóng ở bên kia sông. Nghe lời các thủ hạ, Nang Ngõa mang quân sang sông dàn trận. Hai bên giao tranh ở Tiểu Biệt và Đại Biệt tất cả ba lần. Quân Ngô được sự huấn luyện và chỉ huy của Tôn Vũ và Ngũ Viên, rất thiện chiến. Nang Ngõa đánh mấy lần đều bất lợi, có ý định rút lui nhưng chưa dám.

Tháng 11 năm đó, hai bên gặp nhau lần nữa ở Bá Cử. Em Hạp Lư là Phu Khái mang 5.000 quân đi tiên phong, đại quân Ngô tiến sau. Quân Sở bị quân Ngô đánh cho đại bại, quân lính tan tác. Nang Ngõa sợ tội, bỏ chạy sang nước Trịnh, còn tướng Sử Hoàng chết trên chiến xa.

Quân Sở tan nát bỏ chạy. Ngô vương Hạp Lư đuổi theo quân Sở đến sông Thanh Phát. Hễ quân Sở dừng lại nấu cơm thì quân Ngô đuổi ồ ạt đến khiến quân Sở phải bỏ cơm chạy. Qua 5 đợt truy kích của quân Ngô, quân Sở liên tiếp bại trận.

Sở Chiêu vương nghe tin quân Ngô áp sát Dĩnh đô, vội cùng em gái là Quý Mễ xuống thuyền qua sông Thư, đi cùng có Châm doãn Cố. Quân Ngô đuổi phía sau, Chiêu vương lệnh cho quân lấy voi, đốt đuốc cháy ở đuôi rồi thả cho xông vào quân Ngô. Vì vậy quân Ngô hỗn loạn không thể truy bắt ông. Trước khi rời nước, thấy phụ lão nhiều người muốn đi theo, Chiêu vương bảo với họ rằng :Quả nhân kém đức, làm mất đất của tiên vương. Các vị phụ lão hãy trở lại, lo gì không có vua mà thờ. Vả lại chuyến này đi, thôi đành ra bể.

Các phụ lão nghe nói cảm động, vì thế vẫn hướng về nhà vua, cho nên người trong nước đều đồng lòng, trong một đêm đã ba lần thắng quân Ngô.

Tuy nhiên lúc này Ngô vương Hạp Lư vẫn tiến vào được Dĩnh đô. Sở Chiêu vương qua sông Thư, sông Giang rồi vào đất Vân Trung. Trong khi ngủ, ông bị quân cướp tới đánh. Vương tôn Do Vu lấy thân mình che cho ông, nên gươm quân cướp đâm trúng vai Do Vu. Sở Chiêu vương vội chạy đến đất Vận, cùng đi với ông còn đại phu Chung Kiên và công chúa Quý Mễ. Vì trước đây vua nước Vận bị Sở Bình vương giết nên em vua Vận là Hoài muốn giết Sở Chiêu vương để báo thù. Nhưng Vận công Tân không nghe theo em, kiên quyết bảo vệ Chiêu vương. Nhờ vậy ông được an toàn.

Sau đó Chiêu vương được đại phu Đấu Tân cùng em là Đấu Sào mang chạy trốn sang nước Tùy, trú ở phía bắc cung điện của Tùy hầu. Ngô vương Hạp Lư đuổi đến vây nước Tùy, đóng ở phía nam cung điện Tùy hầu, và yêu cầu giao nộp Sở vương thì sẽ tặng cho đất Hán Dương. Một người anh của Chiêu vương là Tử Kỳ, trông giống Chiêu vương, tự nguyện ra chết thay để Chiêu vương trốn. Nhưng người nước Tùy không để cho Tử Kỳ phải chết, cho sứ ra từ chối Hạp Lư không nộp Chiêu vương, nói rằng vua Sở không đến. Quân Ngô không làm gì được. Khi đó quan nước Tùy là Lư Kim vì cớ từng xin vua Tùy không giao nộp Sở vương cho người Ngô, nên được Sở vương mời tới gặp. Lư Kim từ chối, nói rằng không muốn lợi dụng việc giúp nhà vua khốn khó để trục lợi. Vua Sở lại sai Tử Kỳ uống máu ăn thề với vua Tùy.

Trong khi đó ở Dĩnh đô, Ngũ Viên hận Sở Bình vương giết cả nhà mình nên sai đào mộ Bình vương lên đánh nát thi thể.

Phục quốc

Sở Chiêu vương cử Thân Bao Tư, vốn là bạn cũ của Ngũ Viên nước Ngô, sang nước Tần cầu cứu. Bột Tô khóc trước sân điện Tần bảy ngày không ăn uống, làm Tần Ai công (anh Thái phu nhân Bá Doanh, cậu của Chiêu vương) cảm động, đồng ý giúp quân. Vua Tần sai đại phu Tử Mãn và Tử Hổ đem theo 500 chiếc xe cứu Sở vương.

Quân Tần và quân Sở cùng tiến. Quân Sở đi trước, quân Tần theo sau. Trận đầu, liên quân thắng được Phu Khái ở gần sông Nghi. Trận sau đó tướng Sở là Vỉ Xạ bị Phu Khái đánh bại ở Bá Cử và bị bắt. Con Vỉ Xạ thu thập tàn quân, quay lại đánh bại quân Ngô ở Quân Tường. Quân Tần đánh bại quân Ngô một trận nữa. Quân Ngô phải rút về đất Khuân. Quân Tần và quân Sở đốt thành. Quân Ngô bại trận bỏ chạy, sau đó quay lại đánh ở Công Tề, liên quân Tần-Sở lại thắng. Công tử Phu Khái nước Ngô chạy về nước trước, tự lập làm Ngô vương. Hạp Lư buộc phải rút quân về đánh Phu Khái, không thể ở lại nước Sở tiếp chiến. Sở Chiêu vương trở lại nước Sở. Tháng 9 năm 505 TCN, Sở Chiêu vương đem quân diệt nước Đường, rồi trở về Dĩnh Đô phục quốc. Sau đó công tử Phu Khái bị Hạp Lư đánh bại chạy sang Sở, Sở Chiêu vương phong cho Phu Khái ở đất Đường Khê, gọi là Đường Khê thị.. Vua lại muốn kén chồng cho Vương muội Quý Mễ, Quý Mễ nói rằng trước kia Chung Kiến đã cõng mình chạy loạn, nên xin lấy Kiến làm phò mã. Vua nghe theo, và phong cho Kiến chức quan Nhạc.

Sang năm 495 TCN, vì cớ nước Hồ không chịu thần phục nước Sở; Sở Chiêu vương lại đánh nước Hồ, bắt vua là Báo, tiêu diệt nước Hồ.

Năm 494 TCN, Sở Chiêu vương hội quân với Trần hầu, Tùy hầu và Hứa nam cùng đánh Sái để báo thù việc theo Ngô đánh Sở trước đây. Quân Sở cứ cách một dặm thì xây một bức tường dày 1 trượng, cao hai trượng, rồi vây hãm quốc đô nước Sái trong 9 ngày. Sái Chiêu hầu không chống nổi phải ra xin thần phục. Người nước Sái ra khỏi thành, đến giữa sông Nhữ và sông Hán xin nghe lệnh Chiêu vương. Sau khi quân Sở rút lui, nước Sái phải xin nước Ngô đất để di cư xa nước Sở.

Qua đời

Năm 489 TCN, một đám mây hình bầy chim vây quanh mặt trời trong suốt 3 ngày. Chiêu vương đem việc hỏi quan Thái sử, Thái sử đáp rằng đấy là điềm có tai họa cho nhà vua, và cho ý kiến rằng có thể cúng giải để chuyển tai họa qua cho các quan đại thần, nhưng ông không làm theo. Sau đó nhà vua mắc bệnh, bói được nguyên do là ở thần sông Hà, các quan bèn xin làm lễ tế thần sông Hà, Chiêu vương đáp rằng mình không làm gì có tội với thần ở sông Hà, nên không chịu tế. Khổng Tử khen việc làm của Chiêu vương là hiểu rõ đạo lớn.

Mùa thu năm đó, Ngô đánh nước Trần, Trần Mẫn công sai sứ cầu cứu Sở. Sở Chiêu Vương đem quân sang cứu, đóng ở Thành Phụ. Ông sai người bói một quẻ về việc chiến tranh, nhưng nhận lấy quẻ xấu. Vua nói rằng :Thế là ta chết. Nhưng nếu lại đánh thua Ngô nữa, chết còn hơn. Bỏ đồng minh, trốn kẻ thù cũng không bằng chết. Đã chết, thì chết về tay kẻ thù trên sa trường.

Sau đó lệnh truyền ngôi cho Vương tử Thân, nhưng Thân không chịu. Lại hạ lệnh truyền ngôi cho Vương tử Khải (Tử Lư, con Bình vương), Khải từ chối 5 lần rồi mới chịu. Sau đó, vua Sở đánh vào ấp Đại Minh, gặp quân Ngô, quân Ngô phải rút lui. Tháng 10 năm đó, Sở Chiêu vương bệnh nặng ở Thành Phụ, rồi qua đời. Vương tử Khải từ chối không nhận ngôi vua nữa, rồi cùng Vương tử Thân giấu tin chưa phát tang, sau đó mời con trưởng của Chiêu vương với bà phi nước Việt sinh ra, tên là Chương lên nối ngôi, tức là Sở Huệ vương.

Tiếp đãi Khổng Tử

Khổng Tử ([[551 TCN - 479 TCN)]]

Khoảng năm 492 TCN, Khổng Tử vì loạn ở nước Vệ mà muốn đến nương nhờ nước Sái. Sở Chiêu vương thấy Khổng Tử ở nơi giữa nước Trần và nước Sái, mới sai người đi đón. Các quan đại phu nước Trần và nước Sái sợ nước Sở dùng Khổng Tử thì nguy cho nước mình, bèn sai người đem quân vây Khổng Tử. Khổng Tử sai Tử Cống đến Dĩnh đô cầu cứu, Chiêu vương bèn cho quân đi đón Khổng Tử.

Sở Chiêu vương muốn phong cho Khổng Tử đất Lý Xa, nhưng lệnh doãn là Tử Tây đem việc Chu Văn vương là người biết tu thân tích đức mà từ 100 dặm đất đã đoạt cả thiên hạ, mà nay Khổng Tử cũng bậc đại hiền, e nếu phong đất thì sẽ có ngày thay quyền nước Sở. Vì thế Chiêư vương không dùng Khổng Tử, và Khổng Tử lại trở về nước Vệ.

Đánh giá

Giả Huyền Ông nói về việc Sở Chiêu vương mượn cớ báo thù, tiêu diệt các nước Hồ và Đốn, vây nước Sái là một hành vi hèn hạ và trục lợi :Vào đất Dĩnh, là nước Ngô. Quật mã Sở Bình vương cũng là nước Ngô. Sở đã không báo được thù vì Ngô là nước mạnh, lại đi chiếm cứ vài nước nhỏ như nước Sái mà cũng gọi là báo thù. Thù thật, thì không dám báo. Năm trước diệt nước Đốn, năm sau diệt nước Hồ, nay lại đem quân tới Sái. Chẳng qua chỉ là tằm ăn lá, ăn các nước nhỏ để có lợi.

Gia đình

Cha: Sở Bình vương Hùng Cư Mẹ: Bá Doanh *Anh chị em Thái tử Kiến Công tử Thân, tự Tử Tây Vương tử Kết, tự Tử Kỳ Vương tử Khải, tự Tử Lự ** Quý Mễ

  • Vợ Trinh Khương, con gái Tề Cảnh công Việt Cơ ** Thái Cơ
  • Con cái ** Sở Huệ vương Hùng Chương
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sở Chiêu vương** (chữ Hán: 楚昭王, bính âm: Chŭ Zhāo Wáng, 526 TCN - 489 TCN), thị **Hùng** (熊) tính **Mị** (芈), tên **Trân** (轸), là vị quốc vương thứ 13 của nước Sở -
**Sở Chiêu Vương** (_chữ Hán_:楚昭王) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Sở Chiêu vương Hùng Chẩn, vị vua thứ 32 của nước Sở thời Tây Chu và Xuân Thu
**Sở Cung vương** (chữ Hán: 楚共王 hay 楚龔王, 600 TCN-560 TCN), tên thật là **Hùng Thẩm** (熊審) hay **Mị Thẩm** (羋審), là vị vua thứ 26 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Sở Bình vương** (chữ Hán: 楚平王; trị vì: 528 TCN-516 TCN), nguyên tên thật là **Hùng Khí Tật** (熊弃疾), sau khi lên ngôi đổi là **Hùng Cư** (熊居) hay **Mị Cư** (羋居), là vị vua
**Sở Huệ vương** (chữ Hán: 楚惠王, trị vì: 488 TCN-432 TCN), còn gọi là **Sở Hiến Huệ vương** (楚獻惠王), tên thật là **Hùng Chương** (熊章) hay **Mị Chương** (羋章), là vị vua thứ 33 của
**Sở Linh vương** (chữ Hán: 楚靈王, trị vì 541 TCN-529 TCN), tên thật là **Hùng Kiền** (熊虔) hay **Hùng Vi** (熊圍), là vị vua thứ 29 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Sở Hoài vương** (楚懷王,355 TCN- 296 TCN, trị vì: 328 TCN-299 TCN), tên thật là **Hùng Hoè** (熊槐) hay **Mị Hòe** (芈槐), là vị vua thứ 40 của nước Sở - chư hầu nhà Chu
**Chiêu Vương** (chữ Hán: 昭王) là thụy hiệu của một số vị thiên tử và chư hầu hoặc phiên vương trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Trung Quốc ### Quân
**Sở Khang vương** (chữ Hán: 楚康王, ?-545 TCN, trị vì: 559 TCN-545 TCN), tên thật là **Hùng Chiêu** (熊審) hay **Mị Chiêu** (羋審), là vị vua thứ 27 của nước Sở - chư hầu nhà
**Sở Tuyên vương** (chữ Hán: 楚宣王, trị vì 369 TCN-340 TCN), tên thật là **Hùng Sự** (熊该), hay **Mị Sự** (羋该), là vị vua thứ 38 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Sở Thành vương** (chữ Hán: 楚成王, ?-626 TCN, trị vì 671 TCN-626 TCN), tên thật là **Hùng Uẩn** (熊恽) hay **Mị Uẩn** (芈恽), là vị vua thứ 23 của nước Sở - chư hầu nhà
**Sở Uy vương** (chữ Hán: 楚威王; 378 TCN - 329 TCN), tên thật là **Hùng Thương** (熊商) hoặc **Mị Thương** (芈商), là vị vua thứ 39 của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong
**Sở Mục vương** (chữ Hán: 楚穆王, trị vì 625 TCN-614 TCN), tên thật là **Hùng Thương Thần** (熊商臣) hay **Mị Thương Thần** (羋商臣), là vị vua thứ 24 của nước Sở - chư hầu nhà
thumb|Ước lượng Số chiều Hausdorff của bờ biển nước Anh Trong toán học, **Số chiều Hausdorff** (còn được biết đến như là **Số chiều Hausdorff - Besicovitch**) là một số thực không âm mở rộng
**Sở** (chữ Hán: 楚國), (chữ Phạn: श्रीक्रुंग / **Srikrung**) đôi khi được gọi **Kinh Sở** (chữ Hán: 荆楚), là một chư hầu của nhà Chu tồn tại thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời
**Ngụy Chiêu vương** (chữ Hán: 魏昭王, trị vì: 295 TCN – 277 TCN), tên thật là **Ngụy Sắc** (魏遫) hay **Ngụy Chính**, là vị vua thứ năm nước Ngụy - chư hầu nhà Chu thời
**Chu Chiêu vương** (chữ Hán: 周昭王, 1027 TCN - 977 TCN), là vị vua thứ tư của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 995 TCN đến năm 977 TCN.
**Hiếu Chiêu Vương** (trị vì 692–702) là người trị vì thứ 32 của Tân La. Ông là con trai cả của Thần Văn Vương cùng người phu nhân thứ hai là Thần Mục (神穆, Sinmok).
**Văn Chiêu Vương** (chữ Hán: 文昭王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. ## Danh sách *Ngũ Hồ thập lục quốc Tây Tần Văn Chiêu Vương *Bắc Ngụy Nhiệm Thành Văn Chiêu Vương
**Hiếu Chiêu Vương** (chữ Hán: 孝昭王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ trong lịch sử khu vực Á Đông. ## Danh sách *Ngũ Hồ thập lục quốc Cừu Trì Hiếu Chiêu Vương
**Vũ Chiêu Vương** (_chữ Hán_:武昭王) là thụy hiệu của một số vị vương gia trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách * Đông Tấn Tây Lương Vũ
**Xung Chiêu Vương** (_chữ Hán_:沖昭王) là thụy hiệu được truy tặng của một số vị hoàng tử chết trẻ thời Lưỡng Tống trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách
**Cảnh Chiêu Vương** (_chữ Hán_:景昭王) là thụy hiệu của một số nhân vật lịch sử bên Trung Quốc thời phong kiến. ## Danh sách *Ngũ Hồ Thập lục quốc Hậu Lương Cảnh Chiêu Vương Lã
**Sở Khang Vương** (_chữ Hán_:楚康王) có thể là những nhân vật lịch sử sau: ## Danh sách *Sở Khang vương Hùng Chiêu, vị quân chủ thứ 27 của nước Sở thời Tây Chu và Xuân
[[Tập tin:Passports-assorted.jpg|nhỏ|Hộ chiếu thông thường của Hà Lan, ngoại giao Nepal, hộ chiếu phổ thông của Ba Lan và Hộ chiếu Công vụ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] nhỏ|Kiểm soát hộ chiếu tại
**Sở Khoảnh Tương vương** (chữ Hán: 楚頃襄王, 329 TCN-263 TCN, trị vì 298 TCN - 263 TCN. Trong thời gian ở Tần, Hùng Hoành có mâu thuẫn với đại phu Hữu Tư của Tần. Năm
**Hình chiếu** (3D projection) là hình biểu diễn 3 chiều của đối tượng lên mặt phẳng hai chiều. Yếu tố cơ bản tạo nên hình chính là đối tượng cần chiếu, mặt phẳng chiếu và
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
Trong hình học sơ cấp, tính chất **vuông góc** là mối quan hệ giữa hai đường thẳng mà tạo thành một góc vuông (90 độ). Tính chất này cũng được mở rộng cho các đối
nhỏ|phải|Quách Nữ vương **Văn Đức Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 文德郭皇后; 8 tháng 4 năm 184 – 14 tháng 3 năm 235), không rõ tên, biểu tự là **Nữ Vương** (女王), tuy là kế thất
**_Sở Từ_** (楚辞) là tuyển tập thi ca lãng mạn đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc, tương truyền là một thể thơ mới do quan đại phu nước Sở Khuất Nguyên sáng
**Đại Vương** (chữ Hán: 大王) là thụy hiệu hoặc tôn hiệu của một số vị quân chủ, ngoài ra **Đại Vương** (代王) còn là tước hiệu của một số vị quân chủ. ## Thụy hiệu
**Sái Chiêu hầu** (chữ Hán: 蔡昭侯; trị vì: 518 TCN-491 TCN), tên thật là **Cơ Thân** (姬申), là vị vua thứ 21 của nước Sái – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Đây là **danh sách những trường hợp được cho là đã nhìn thấy vật thể bay không xác định (UFO) đáng chú ý ở Vương quốc Liên hiệp Anh**. Nhiều vụ chứng kiến hơn đã
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Vương quốc Sicilia** (tiếng La Tinh: _Regnum Siciliae_; tiếng Ý: _Regno di Sicilia_; tiếng Sicilia: _Regnu di Sicilia_) là một nhà nước tồn tại ở phía Nam Bán đảo Ý và trong một thời gian
**Sở Khảo Liệt Vương** (chữ Hán: 楚考烈王,310 TCN-238 TCN, trị vì 262 TCN-238 TCN), tên thật là **Hùng Nguyên** (熊元) hay **Mị Nguyên** (芈元), còn gọi là **Hùng Hoàn** (熊完), là vị vua thứ 42
**Chiêu Thiệp Điêu Vĩ** (; ? - 179 TCN), họ kép Chiêu Thiệp, là tướng lĩnh nước Yên thời Hán Sở, khai quốc công thần nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc
phải|khung|Phép biến đổi _P_ là phép chiếu vuông góc lên đường thẳng _m_. Trong đại số tuyến tính và giải tích hàm, **phép chiếu** là một biến đổi tuyến tính P từ một không gian
**Sở Hùng Ngải** (chữ Hán: 楚熊艾), là vị vua thứ năm của nước Sở - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai của Sở Hùng Dịch, vị vua thứ
Trong đại số tuyến tính, **hạng** (rank) của một ma trận là số chiều của không gian vectơ được sinh (span) bởi các vectơ cột của nó. Điều này tương đương với số cột độc
**Vương Tiễn** (chữ Hán: 王翦; 304 TCN-214 TCN) là đại danh tướng nước Tần cuối thời Chiến Quốc, có công đánh dẹp các nước chư hầu ở Sơn Đông giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất
**Vương hậu** (chữ Hán: 王后; Hangul: 왕후Wanghu; tiếng Anh: Queen Consort) là một Vương tước thời phong kiến của một số quốc gia phương Đông như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và các quốc
**Nhà Liechtenstein** (tiếng Đức: _Haus Liechtenstein_) là gia tộc hoàng gia cai trị Thân vương quốc Liechtenstein, theo luật định, chỉ có những thành viên gia tộc này mới đủ điều kiện thừa kế ngai
phải|nhỏ|300x300px| Hệ [[Hệ tọa độ Descartes|tọa độ Descartes hai chiều ]] **Không gian hai chiều** là một bối cảnh hình học trong đó hai giá trị (được gọi là tham số) là cần thiết để
Trong toán học, một cơ sở có thứ tự của một không gian vectơ hữu hạn chiều cho phép biểu diễn duy nhất một phần tử bất kỳ trong không gian vectơ bởi một vectơ
nhỏ|alt=Balcony snap|Hai vợ chồng mới cưới là [[William, Thân vương xứ Wales|Vương tôn William, Công tước xứ Cambridge và Kate, Công tước phu nhân xứ Cambridge trên ban công của điện Buckingham. Bên trái là
**Vương Lạc Đan** (, sinh ngày 30 tháng 1 năm 1984) là nữ diễn viên, ca sĩ sinh ra tại Nội Mông, Trung Quốc. Vương Lạc Đan gây được tiếng vang lớn nhờ vào vai
**Thân vương xứ Wales** (, ), còn gọi là **Công tước xứ Wales** (tại Việt Nam thường dịch sai thành **Hoàng tử/Hoàng thân xứ Wales**), là một tước hiệu theo truyền thống thường được trao
**Vương quốc Napoli** (tiếng La Tinh: _Regnum Neapolitanum_; tiếng Ý: _Regno di Napoli_; tiếng Napoli: _Regno 'e Napule_), còn được gọi là **Vương quốc Sicily**, là một nhà nước cai trị một phần Bán đảo