Mai Chí (chữ Hán: 梅挚, ? – ?), tự Công Nghi, người huyện Tân Phồn, phủ Thành Đô , quan viên nhà Bắc Tống.
Sự nghiệp
Chí xuất thân tiến sĩ, ban đầu được làm Đại Lý bình sự, tri huyện của Thượng Nguyên thuộc phủ Lam Điền, dời làm Tri Chiêu Châu, Thông phán Tô Châu. 2 lộ Chiết Giang mất mùa, quan cho dân vay giống, rồi đòi nợ rất gấp, Chí nói cho vay bản chất là làm ơn, sao lại chất thêm khó khăn lên dân, triều đình giáng chiếu hoãn kỳ thu nợ ấy.
Trong niên hiệu Khánh Lịch (1041 – 1048) thời Tống Nhân Tông, Chí được cất nhắc làm Điện trung thị ngự sử. Bấy giờ có vài cơn thiên tai, Chí dẫn Hồng phạm để dâng lên bài sớ Biến giới (变戒, biến: thay đổi, giới: răn), khuyên hoàng đế trách mình sửa đức.
Chí được dời làm Khai Phong phủ Thôi quan, rồi thăng làm Phán quan. Tăng nhân Thường Oánh lấy thẻ tre gởi thư cho cung nhân, liễn quan Trịnh Ngọc say rượu la hét, ẩu đả đánh chết lính tuần, đều được phóng thích không hỏi; Chí xin phạt trượng tất cả bọn chúng. Chí được đổi làm Độ chi phán quan, tiến làm Thị ngự sử; luận Thạch Nguyên Tôn (cháu nội của Thạch Thủ Tín) đáng tội chết, tấu lên không được hoàng đế trả lời . Lý Dụng Hòa (em trai của Lý Thần phi) được trừ quan Tuyên huy sứ, gia chức Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự; Chí nói rằng Đỗ Thẩm Quỳnh (anh trai của Chiếu Hiến Đỗ thái hậu), Lý Kế Long (anh trai của Minh Đức Lý hoàng hậu, 1 trong 24 công thần trên gác Chiêu Huân) khi xưa không được vẻ vang như vậy. Sau đó Chí được làm Hộ bộ Viên ngoại lang kiêm Thị ngự sử tri tạp sự, quyền Phán Đại Lý tự; lại tham gia vào cuộc phản đối Nhân Tông thăng thưởng cho Trương Nghiêu Tá (bác của Trương quý phi). Đến khi Chí tâu xin giảm số học sĩ viên của điện Tư Chánh, muốn triệu quan Đãi chế cùng nghị chánh, sau đó lại đòi trăm quan chuyển đối . Nhân Tông nói với đại thần: “Mai Chí bàn việc đắc thể.” Nhân đó lấy Chí làm Hộ độ phó sứ.
Gặp lúc triều đình mở tiệc tiếp đãi sứ Khiết Đan ở điện Tử Thần, Tam tư phó sứ chỉ được ngồi ở Đông Vũ (hàng lang phía đông, dành cho thượng khách), còn quan viên có cấp bậc thấp hơn chỉ được ngồi ngoài cửa. Chí thấy vậy, cùng Lưu Thực, Trần Kịp bỏ ra ngoài. Vì thế Chí bị giáng làm Tri Hải Châu, rồi dời đi Tô Châu, nhờ đó được làm Độ chi phó sứ. Ban đầu Hà Bắc mất mùa, tam tư vận chuyển gạo ở Giang, Hoài cho Hà Bắc. Sau đó Giang, Hoài có nạn đói, hữu tư dâng tấu chỉ trích những người liên quan, Chí xin giảm tội cho họ.
Sau đó Chí được cất nhắc làm Thiên Chương các Đãi chế, Thiểm Tây Đô chuyển vận sứ; trở về triều làm Phán Lại bộ Lưu nội thuyên , tiến làm Long Đồ các Học sĩ, Tri Hoạt Châu. Châu hằng năm phòng bị Hoàng Hà, điều tráng đinh chặt cỏ lâu ven sông, Chí cho rằng như thế khiến dân mỏi mệt, tâu xin lấy châu binh thay thế. Hoàng Hà dâng cao, sắp vỡ đê, Chí trong đêm soái quan thuộc đốc thúc thầy thợ giữ đê, mới không còn nỗi lo lũ lụt, được nhận chiếu khen ngợi công lao. Sau đó Chí được đảm đương Tam ban viện, làm Đồng Tri cống cử . Chí xin làm Tri Hàng Châu, đế ban thơ Sủng hành ; dần được thăng quan Hữu Gián nghị đại phu, dời làm Tri Giang Ninh phủ, rồi dời đi Hà Trung.
Chánh sử không chép cụ thể thời điểm mất của Chí.
Nhận xét
Sử cũ nhận xét: Chí tính thuần tĩnh, không ra vẻ nghiêm trang, chánh tích đạt được đúng với cách làm người của ông, ở nhà chưa từng hỏi đến sanh kế.
Tác phẩm
Chí thích làm thơ, phần nhiều là những lời răn dạy, ngoài ra còn có hơn 40 thiên tấu nghị, ngày nay còn rất ít, nổi bật nhất là bài văn Ngũ chướng thuyết (五瘴说). Ngũ chướng thuyết có 120 chữ, được sáng tác vào lúc Chí làm Tri Chiêu Châu, nội dung bộc lộ nỗi oán ghét đối với quan lại tham tàn, gây hại cho dân. Bài văn được nhiều thế hệ khắc đá ghi lại, ngày nay ít nhất còn ở 2 nơi: Long Ẩn nhai thuộc Quế Lâm và bến Đông Hồ ở Tân Đô.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mai Chí** (chữ Hán: 梅挚, ? – ?), tự **Công Nghi**, người huyện Tân Phồn, phủ Thành Đô , quan viên nhà Bắc Tống. ## Sự nghiệp Chí xuất thân tiến sĩ, ban đầu được
**Phan Mỹ** (chữ Hán: 潘美, 925 – 991), tên tự là **Trọng Tuân**, người phủ Đại Danh , là tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nguyên mẫu của
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Mai Trung** là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. ## Địa lý Xã Mai Trung nằm ở phía tây nam huyện Hiệp Hòa, cách trung tâm huyện khoảng 8 km, cách
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
thumb|Đĩa sơn mài khắc chữ "Thọ", Trung Quốc _Hoa loa kèn_ _Phong cảnh chùa Thầy_ của [[Hoàng Tích Chù]] **Sơn mài** là một phát minh quan trọng trong công nghệ hóa học và nghệ thuật
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Bắc Giang** là một tỉnh cũ thuộc trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang chiếm phần lớn diện tích
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
Các mái nhà trắng ở [[Bermuda.]] **Mái phản xạ** là các loại mái nhà, hoặc bề mặt của công trình xây dựng nói chung, có thể mang lại độ phản xạ ánh sáng Mặt Trời
**Bắc thuộc** là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Báo hoa mai** (_Panthera pardus_), thường gọi tắt là **báo hoa**, (tiếng Anh: **Leopard**) là một trong năm loài mèo lớn thuộc chi _Panthera_ sinh sống ở châu Phi và châu Á. Chúng dài từ
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
tự **Thánh Du**, được người đời gọi là **Uyển Lăng tiên sinh** (vì quê ông xưa được gọi là Uyển Lăng); là quan thời Bắc Tống, và là thi nhân nổi danh trong lịch sử
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張俊, 1086 - 1154), tên tự là **Bá Anh** (伯英), nguyên quán ở Thành Kỉ, phủ Phượng Tường, là tướng lĩnh dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử
**Lý Thái Tông** (chữ Hán: 李太宗 29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị
**_Kim Bình Mai_** (金瓶梅, _Jīnpíngméi_), tên đầy đủ là **_Kim Bình Mai từ thoại_** (_Truyện kể có xen thi từ về Kim Bình Mai_); là bộ tiểu thuyết dài gồm 100 hồi và là một
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
phải|nhỏ|Năm 560
**Bắc Chu** (tiếng Trung: 北周) là một triều đại tiếp theo nhà Tây Ngụy thời Nam Bắc triều, có chủ quyền đối với miền Bắc Trung Quốc từ năm 557 tới năm
**Hồ Bắc** (, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Hiển Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯仁皇后, 1080 - 1159), còn gọi là **Vi Hiền phi** (韋賢妃), là một phi tần của Tống Huy Tông Triệu Cát và là sinh mẫu của Tống Cao Tông
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Tuyến 2** (tên tuyến theo giai đoạn 1: **Bến Thành – Tham Lương**) là một tuyến metro thuộc hệ thống Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh đang được xây dựng từ năm
**Giao thông Thành phố Hồ Chí Minh** là tổng hòa của nhiều loại hình giao thông hiện hữu phục vụ nhu cầu đi lại trong phạm vi thành phố và giữa Thành phố Hồ Chí
**Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây** (gọi tất là **Đường cao tốc Long Thành – Dầu Giây**, ký hiệu toàn tuyến là **CT.29**) là một đoạn đường
**Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh** là một bảo tàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, lạc tại số 65 Lý Tự Trọng, thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Nguyễn Hữu Mai** tức Nguyễn Từ (1914-1987), quê ở tại Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, là nhà hoạt động cách mạng, nhà chính trị Việt Nam, Ủy viên Ban
**Đại lộ Đông – Tây** hay **Đại lộ Võ Văn Kiệt – Mai Chí Thọ**, là một tuyến đường đi qua trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, được khôi phục, nâng cấp từ tuyến
nhỏ|phải|Chùa Pháp Hoa Quận 3 nằm tại [[Kênh Nhiêu Lộc vào năm 2006]] Ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều cơ sở Phật giáo mang tên **Pháp Hoa**. Riêng bài viết này chỉ nói
nhỏ|Các nước "cộng hòa tổng thống" với mức độ "tổng thống chế toàn phần" được biểu thị bằng màu **Xanh biển**. Các quốc gia có một mức độ "tổng thống chế bán phần" được biểu
**Tổng cục Chiến tranh Chính trị** là cơ quan tuyên truyền, ban đầu trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Cơ quan này được thành lập dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa với
**Tống Anh Tông** (chữ Hán: 宋英宗, 16 tháng 2, 1032 - 25 tháng 1, 1067), thụy hiệu đầy đủ **Thể Càn Ứng Lịch Long Công Thịnh Đức Hiến Văn Túc Vũ Duệ Thánh Tuyên Hiếu
**Trương Thị Mai** (sinh ngày 23 tháng 1 năm 1958) từng là nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII,
**Lý Đường** (chữ Hán: 李棠, ? – 553), tự Trường Khanh, người huyện Điệu, quận Bột Hải , quan viên nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy và Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều. Ông đi
## Thời Pháp thuộc Dưới thời thực dân Pháp, báo chí bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam và bị người Pháp áp dụng chế độ kiểm duyệt, nhất là với báo chí tiếng Việt.
**Tổng cục Tình báo Quốc phòng**, gọi tắt là **Tổng cục Tình báo** hoặc** Tổng cục II**, là cơ quan tình báo chiến lược của Đảng, Nhà nước, cơ quan tình báo chuyên ngành quân