✨Tào Động tông

Tào Động tông

Tào Động tông (zh. 曹洞宗 cáo-dòng-zōng, ja. sōtō-shū) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch. Các giáo lý đặc trưng nhất của tông này để phân biệt với các tông phái khác có thể kể đến như Động Sơn Ngũ Vị, Thiền Mặc Chiếu. Tông này từng phát triển mạnh ở Trung Quốc và được truyền bá sang một số quốc gia như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Cùng với tông Lâm Tế, tông Tào Động là một trong hai phái của Thiền tông còn tồn tại cho tới ngày hôm nay.

Tại Nhật Bản, tông Tào Động là hệ phái Phật giáo lớn nhất với khoảng 15.000 ngôi chùa, 20.000 tu sĩ và 7 triệu tín đồ. Tông này được các Thiền sư Nhật Bản mang sang phương Tây vào giữa thế kỷ 20 và được biết đến rộng rãi với tên gọi "Soto Zen".

Lịch sử

Sơ khai

nhỏ|Thiền sư [[Động Sơn Lương Giới, Sơ tổ Tào Động tông|trái|270x270px]]Tông Tào Động được sáng lập vào khoảng giữa cuối thời Đường bởi Thiền sư Động Sơn Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch. Động Sơn từng tu học và đắc pháp với Thiền sư Vân Nham Đàm Thịnh. Sau, ông đến hoằng pháp tại Động Sơn Phổ Lợi Thiền Tự ở Giang Tây và xiển dương tông phong mạnh mẽ, sáng lập giáo lý Động Sơn Ngũ Vị để tiếp dẫn người học. Động Sơn có nhiều đệ tử nối pháp, nổi tiếng nhất là Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch ౼ người kế thừa và hoàn thiện giáo lý Động Sơn Ngũ Vị, làm chổ dựa vững chắc cho tư tưởng của tông Tào Động.

Theo các học giả Phật giáo, tên gọi "Tào Động" có lẽ được ghép từ chữ đầu trong pháp danh của hai vị Thiền sư sáng lập là Động Sơn và Tào Sơn, và ban đầu được gọi là "Động Tào tông". Nhưng sau này do âm vận nghe trắc trở hay vì một lý do khác, đã được gọi ngược lại là "Tào Động tông". Tuy nhiên một số học giả khác cho rằng chữ "Tào" có lẽ liên quan đến ngọn núi Tào Khê, nơi Lục Tổ Huệ Năng từng hoằng pháp hơn.

Sao khi Vân Cư thị tịch, đệ tử là Thiền sư Đồng An Đạo Phi kế tiếp tổ thống. Kế đến, Đạo Phi truyền pháp lại cho pháp tử là Thiền sư Đồng An Quán Chí và Quán Chí truyền pháp lại cho đệ tử là Lương Sơn Duyên Quán. Cũng giống tông Lâm Tế, các vị tổ đời đầu của tông Tào Động kể trên khá mờ nhạt và không có nhiều ảnh hưởng trong Thiền tông.nhỏ|Thiền sư [[Hoằng Trí Chính Giác - người sáng tạo phương pháp Thiền Mặc Chiếu.|200x200px]]Đến đời của Thiền sư Phù Dung Đạo Khải ౼ Tổ thứ 8, tông Tào Động bắt đầu phát triển mạnh. Đạo Khải đã xây dựng nhiều Thiền viện, phổ biến các lối tu và sinh hoạt riêng cho tông Tào Động. Nhờ vậy, tông này chính thức trở nên độc lập và có chổ đứng, gây ảnh hưởng ngày càng sâu rộng trong xã hội Trung Quốc.

Thời kỳ nhà Nguyên

Đến thời Nguyên, tông Tào Động cũng khá phát triển và có ảnh hưởng trong xã hội, lúc này chỉ còn hai phái Hoằng Trí và Lộc Môn còn tồn tại, phái Chân Yết đã thất truyền ở Trung Quốc và chỉ còn truyền tại Nhật Bản bởi các đời đệ tử của Đạo Nguyên Hi Huyền.

Phái Lộc Môn rất phát triển nhờ vào sự hoằng hóa của Thiền sư Vạn Tùng Hành Tú, tác giả của Thung Dung LụcThỉnh Ích Lục. Vạn Tùng có một đệ tử cư sĩ nổi tiếng là Gia Luật Sở Tài ౼ một chính khách quan trọng của triều đình nhà Nguyên. Sau Vạn Tùng, tông Tào Động tiếp tục phát triển dưới thời của Thiền sư Tuyết Đình Phúc Dụ và Lâm Tuyền Tùng Luân (zh. 林泉從倫, tác giả của Không Cốc TậpHư Đường Tập), họ có công lao rất lớn trong việc bảo vệ Phật giáo. Tính đến năm 1255, các Đạo sĩ Khâu Xử Cơ và Lý Chí Thường (?-1256) thuộc phái Toàn Chân Giáo ౼ Đạo giáo đã lãnh đạo nhiều Đạo sĩ đi phá hoại chùa chiền, tượng Phật, chiếm nhiều chùa Phật giáo; hủy hoại Khổng miếu, biến Khổng miếu thành đạo quán; phổ biến các ngụy kinh xuyên tạc về Phật giáo như Lão Tử Hóa Hồ Kinh, Lão Tử Bát Thập Nhất Hoá Đồ... Thiền sư Tuyết Đình Phúc Dụ vì bất bình đã dâng sớ lên Nguyên Hiến Tông để vạch tội các đạo sĩ này. Vua bèn cho mời Thiền sư Tuyết Đình và Đạo sĩ Lý Chí Thường vào trong cung để tranh luận lý lẽ với nhau, Lý Chí Thường thua và buộc phải dừng lại các hành vi xuyên tạc, phá hoại Phật Giáo của họ. Ngoài ra, Thiền sư Tuyết Đình cũng được Hốt Tất Liệt kính trọng và từng mời ông vào cung thuyết pháp và phong cho ông làm pháp chủ đứng đầu và lãnh đạo Phật Giáo đương thời. Phần về Thiền sư Lâm Tuyền Tùng Luân, ông là một trong những người cùng Thiền sư Tuyết Đình Phúc Dụ tranh biện lý lẽ với phái Toàn Chân Giáo. Khi phái này thua, vua ra chiếu giao cho Thiền sư Lâm Tuyền tiêu hủy tất cả các sách vở ngụy tạo của Đạo Giáo như Lão Tử Hóa Hồ Kinh và chỉ chừa lại duy nhất Đạo đức kinh là không đốt.

Ngoài ra, phái Hoằng Trí cũng phát triển với sự hoằng hoá của Thiền sư Trực Ông Đức Cử và đệ tử là Thiền sư Vân Ngoại Vân Tụ - người nổi tiếng với khả năng thuyết pháp độc đáo và rất giỏi biện luận. Có nhiều vị tăng từ Tân La và Nhật Bản đã không ngại đường xa đến để tham học với Vân Ngoại Vân Tụ. Trong thời gian này, phái Hoằng Trí đã được truyền sang Nhật thông qua đệ tử của Trực Ông Đức Cử là Thiền sư Đông Lăng Vĩnh Dư và đệ tử của Vân Ngoại Vân Tụ là Đông Minh Huệ Nhật. Đến cuối nhà Nguyên, phái Hoằng Trí bị tàn lụi và thất truyền. Cùng với sự thất truyền của phái này, phương pháp Thiền Mặc Chiếu do vị Tổ sư của phái là Thiền sư Hoằng Trí Chính Giác sáng lập cũng đi vào suy tàn và chấm dứt ở Trung Quốc. Bắt đầu từ đó, pháp môn tu tập chủ đạo trong giới tu hành của Tông Tào Động Trung Quốc là Thiền công án. Điều này đã làm cho đặc thù về phương pháp tu hành để cầu khai ngộ giữa tông Tào Động và tông Lâm Tế không còn có sự khác biệt.

Thời kỳ nhà Minh - Thanh

nhỏ|Vườn tháp [[Chùa Thiếu Lâm.|trái]] Đến thời Minh, Thiền tông nói riêng và Phật giáo Trung Quốc nói chung bị hạn chế phát triển do sự kiểm soát gắt gao của nhà Minh đối với Phật Giáo. Bên cạnh đó, Thiền tông cũng bị suy yếu và bị lai tạp với Tịnh Độ tông qua xu hướng Thiền -Tịnh song tu. Lúc này, tông Tào Động tại Trung Quốc chỉ còn một hệ phái duy nhất còn tồn tại và chủ lưu là hệ phái của Lộc Môn Tự Giác, tổ đình chính của phái này là chùa Thiếu Lâm, Tung Sơn và địa bàn hoạt động chủ yếu nằm ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Chùa Thiếu Lâm bắt đầu trở thành tổ đình của phái này vào nâm 1245 dưới thời của Thiền sư Tuyết Đình Phúc Dụ. Kể từ đó, các phương trượng của chùa đều do các thế hệ pháp tử, pháp tôn của Thiền sư Tuyết Đình kế tiếp trụ, từ Thiền sư Phúc Dụ kéo dài cho đến thế hệ của Thiền sư Đại Chương Tông Thư (zh. 宗鏡宗書, 1500-1567, đời thứ 24) là hơn 300 năm, tháp mộ của các vị này nay vẫn còn tại vườn tháp chùa Thiếu Lâm. Đến đời pháp tử của Đại Chương Tông Thư là Lẫm Sơn Thường Trung (zh. 蘊空常忠, 1514-1588) và Huyễn Hữu Thường Thuận (zh. 幻休常潤, ?-1585) thì phái này lại phân ra thành hai nhánh với ảnh hưởng ở nhiều nơi khác nhau. Từ đó, chùa Thiếu Lâm không còn là trụ sở chính của tông Tào Động như trước nữa. Tuy vậy, các đời trụ trì của chùa này vẫn được truyền thừa theo pháp mạch của tông Tào Động và duy trì cho đến thời hiện đại.

nhỏ|Thiền sư [[Trạm Nhiên Viên Trừng]]Từ cuối đời Minh cho đến đầu đời Thanh, nội bộ Thiền tông Trung Quốc bắt đầu có sự cải cách và phục hưng tông phái. Nhiều vị Thiền sư như Vô Minh Huệ Kinh, Trạm Nhiên Viên Trừng, Bác Sơn Nguyên Lai (zh. 博山元來, 1575-1630), Vĩnh Giác Nguyên Hiền, Thụy Bạch Minh Tuyết, Vi Lâm Đạo Bái, Giác Lãng Đạo Thịnh... đã nỗ lực khôi phục lại tông Tào Động thông qua nhiều hoạt động như ứng dụng lại các cơ phong tiếp dẫn người học của chư tổ sư Thiền tông (đối đáp thiền ngữ, Động Sơn Ngũ Vị), xây chùa độ chúng, hoạt động từ thiện và biên soạn các tác phẩm nói về đặc trưng của tông mình, mà nổi tiếng là bộ Động Thượng Cổ Triệt của Thiền sư Vĩnh Giác Nguyên Hiền đã giải thích rất rõ về triết lý Động Sơn Ngũ Vị của tông Tào Động. Nhờ vậy, ảnh hưởng của tông Tào Động đã lan rộng từ Hà Nam quay trở lại Giang Tây, Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông vốn là những nơi mà tông này từng truyền bá nhưng sau đó đã bị thay thế bởi tông Lâm Tế dưới thời Nguyên.

Thời kỳ này cũng diễn ra các cuộc tranh luận rất sôi nổi và kịch liệt giữa các Thiền sư của hai phái Lâm Tế và Tào Động về lịch sử, truyền thừa và pháp tu của Thiền tông. Một trong hai cuộc tranh luận điển hình nhất là cuộc tranh cãi về tác phẩm Ngũ Đăng Nghiêm Thống của Thiền sư Phí Ẩn Thông Dung (zh. 費隱通容, 1593-1661) mà trong đó Phí Ẩn cho rằng Thiên Hoàng Đạo Ngộ là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất chứ không phải Thạch Đầu Hi Thiên nên Vân Môn tông và Pháp Nhãn tông phải thuộc về nhánh Nam Nhạc Hoài Nhượng, còn nhánh Thanh Nguyên Hành Tư chỉ có duy nhất tông Tào Động. Cuộc tranh cãi này đã dẫn tới một vụ kiện pháp lý vào năm 1654.

Người truyền bá tông Tào Động từ Trung Quốc sang phương tây nổi tiếng là Thiền sư Thánh Nghiêm (zh. Shengyen). Ông kế thừa truyền thừa tông Lâm Tế đời thứ 57 từ pháp tôn của Thiền sư Hư Vân là Hòa thượng Linh Nguyên Hoằng Diệu (zh. 靈源宏妙 Lingyuan Hongmiao, 1902-1988) và kế thừa truyền thừa đời thứ 48 tông Tào Động - hệ phái Tiêu Sơn (zh. 焦山糸) từ Hòa thượng Đông Sơ Đăng Lãng (zh. 東初鐙朗 Dongchu Denglang, 1908-1977). Phương pháp giảng dạy Thiền của ông mang tính kết hợp giữa Thiền công án của tông Lâm Tế và Thiền Mặc Chiếu của tông Tào Động. Bên cạnh Thánh Nghiêm, Charles Luk (zh. 陸寬昱 Lù Kuānyù, 1898-1978) cũng là một cư sĩ và học giả Phật học thuộc tông Tào Động có tiếng ở Phương Tây. Charles Luk từng tham học với Thiền sư Hư Vân và được Thiền sư Hư Vân truyền pháp kế tiếp tông Tào Động. Ông có công trong việc phiên dịch các tác phẩm Phật học từ Hán văn sang Anh văn cũng như biên soạn các tác phẩm tiếng Anh liên quan đến Thiền tông Trung Quốc.

Ảnh hưởng

Bán đảo Triều Tiên

Tông chỉ của tông Tào Động được truyền vào bán đảo Triều Tiên lần đầu tiên là vào cuối thời đại Tân La. Năm 894 đời Đường, tăng sĩ người Triều Tiên là Lợi Nghiêm (zh. 利嚴, ko. iǒm) hành cước sang Trung Quốc và tham học với Thiền sư Vân Cư Đạo Ưng. Sau đó ông ngộ đạo và được Thiền sư Đạo Ưng ấn khả, truyền pháp. Ông trở về Triều Tiên hoằng pháp và đến năm 911 ông theo sắc lệnh của vua Thái Tổ Cao Ly sáng lập Quảng Chiếu Tự trên Tu Di Sơn. Tại đây, ông tích cực truyền bá Thiền tông và đào tạo ra nhiều vị đệ tử nổi danh như Xử Quang, Đạo Nhẫn... Ngoài ra, Lợi Nghiêm còn được biết đến là một trong chín vị tăng sĩ Triều Tiên đầu tiên sang Trung Quốc du học và truyền bá Thiền Tông vào bán đảo Triều Tiên. Phái Thiền của Lợi Nghiêm được gọi là Tu Di Sơn và là một trong chín phái Thiền (zh. 九山禪, Cửu Sơn Thiền) đại diện cho Thiền Tông Triều Tiên đương thời. Khoảng 200 năm sau, 9 phái Thiền này được Thiền sư Phổ Chiếu Trí Nột và Thái Cổ Phổ Ngu hợp nhất thành Tào Khê tông.

Đến thời Minh, tông này một lần nữa được truyền sang bán đảo Triều Tiên thông qua Thiền sư Viên Tông Bản Chỉnh (zh. 園宗本整), đệ tử nối pháp của Thiền sư Ngưng Nhiên Liễu Cải (đời thứ 20, trụ trì chùa Thiếu Lâm).

Nhật Bản

nhỏ|Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền, Khai tổ Tông Tào Động tại Nhật Bản.|211x211px nhỏ|Bút tích thư pháp của Thiền sư Tâm Việt Hưng Trù. Tông Tào Động được truyền vào Nhật Bản đầu tiên bởi Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền vào thế kỷ 13. Năm 1223, Đạo Nguyên sang Trung Quốc học Thiền và sau đó gặp được Thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh tại Thiên Đồng Cảnh Đức Thiền Tự ở Ninh Ba, Chiết Giang. Dưới sự chỉ dạy của Như Tịnh, ông đốn ngộ ý chỉ và được nối pháp tông Tào Động. Năm 1227, ông trở lại Nhật Bản và sáng lập Vĩnh Bình Tự để xiển dương tông phong của mình. Đạo Nguyên chủ trương pháp Thiền đơn giản, hành giả chỉ cần an nhiên toạ Thiền (Chỉ Quán Đả Toạ) là đủ, chẳng cần xem kinh, thắp hương, lễ bái, niệm Phật, tu sám. Lối Thiền đơn giản này của Đạo Nguyên đã tạo ra sức hút lớn đối với các tầng lớp bình dân trong xã hội Nhật Bản. Tuy vậy, Đạo Nguyên kịch liệt chỉ trích việc phân chia tông phái trong Phật giáo và rất kỵ gọi tông chỉ của mình là Thiền tông hay Tào Động tông nên ban đầu dòng truyền này được gọi là Chính Pháp Tông hay Đạo Nguyên Tông.

Việt Nam

nhỏ|Chùa Hòe Nhai, ngôi tổ đình của Thiền phái Tào Động miền bắc. Tông Tào Động được truyền vào miền bắc Việt Nam vào giữa cuối thế kỷ 17. Năm 1664, Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt sang Trung Quốc cầu đạo và gặp được Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo (đời thứ 30 tông Tào Động, trụ trì Nhân Vương Hộ Quốc Thiền tự tại núi Phụng Hoàng, vùng Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang). Sau vài năm tu hành ở đây, Thông Giác ngộ đạo và được nối pháp của tông Tào Động, dòng truyền thừa Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo. Hành trình sang Trung Quốc cầu đạo trong 6 năm này của Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt đã mở đầu Thiền phái Tào Động tại Đằng ngoài Việt Nam. Sau khi về nước, Thiền sư Thông Giác bắt đầu truyền bá Phật pháp tại chùa Hạ Long (Đông Sơn, Quảng Ninh) và chùa Nhẫm Dương (Kinh Môn, Hải Dương). Dưới toà của Thiền sư Thông Giác đã đào tạo được một đệ tử nổi danh là Thiền sư Chân Dung Tông Diễn, người nổi tiếng với tấm lòng hiếu hạnh và có công giải cứu Phật giáo khỏi pháp nạn phá chùa, đuổi tăng dưới triều Lê trung hưng. Thiền sư Tông Diễn từng có thời gian dài hoằng pháp tại Hồng Phúc tự (chùa Hoè Nhai) và nơi đây đã trở thành tổ đình chính của Thiền phái Tào Động Bắc Việt. Cận đại, hoà thượng Thích Mật Ứng và Thích Đức Nhuận là những truyền nhân của tông Tào Động đã làm rạng danh Phật giáo thông qua những đóng góp của mình cho công cuộc phục hưng và thống nhất Phật giáo Việt Nam.

Về phương pháp tu hành, do ảnh hưởng từ xu hướng "Thiền-Tịnh song tu" của Thiền tông đời Minh nên tông Tào Động tại Việt Nam cũng có sự kết hợp giữa tu Thiền và niệm Phật. Điển hình, trong bài pháp Cảnh tỉnh người tu của Thiền sư Đạo Nguyên Thanh Lãng (đời thứ 6 tông Tào Động Bắc Việt), ông vừa khuyên các đệ tử tham Thiền để thấy tánh, vừa niệm Phật để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Tuy nhiên, càng về sau thì các vị tăng ni trong sơn môn Tào Động Việt Nam càng nhấn mạnh vào việc tu tập Tịnh Độ và họ không còn chú trọng đến tu Thiền như trước. Điều này đã dẫn đến việc có nhiều vị tăng ni trên danh nghĩa là truyền thừa tông Tào Động nhưng về tu hành thì không có gì liên hệ đến Thiền tông mà mang đậm màu sắc của Tịnh độ tông và Mật tông.

Phương Tây

nhỏ|Thiền đường của Tassajara Zen Mountain Center. Hoạt động giới thiệu Thiền tông tại Hoa Kỳ của Học giả Suzuki Daisetsu (Linh Mộc Đại Chuyết) vào đầu thập niên 50 của thế kỷ 20 đã tạo nên phong trào tu Thiền rầm rộ ở Mỹ, còn được gọi là "Zen Boom". Phong trào này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các vị Thiền sư Nhật Bản truyền bá Thiền vào phương Tây và người đầu tiên giới thiệu tông Tào Động sang Mỹ là Thiền sư Suzuki Shunryuu (Linh Mộc Tuấn Long, ?-1971). Shunryuu đã có thời gian cư ngụ ở Mỹ khá lâu và có đóng góp trong việc hướng dẫn, lãnh đạo nhiều khoá tu Thiền cho các Thiền sinh người Mỹ. Vào năm 1967, ông sáng lập Thiền Lâm tự (Tassajara Zen Mountain Center) tại Montery, bang California để đào tạo các vị sư người Mỹ. Đây được coi là ngôi chùa Thiền tông đầu tiên ở trên đất Mỹ.

nhỏ|Hình ảnh Thiền sư [[Taisen Deshimaru đang hướng dẫn tập Thiền cho một nhóm Thiền sinh người Châu Âu. |trái]] Người được giao sứ mệnh truyền bá tông Tào Động sang Châu Âu là Thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982). Ông là đệ tử của Thiền sư Kodo Sawaki, một trong những người phục hưng tông Tào Động Nhật Bản thời cận đại. Trước khi qua đời, Kodo Sawaki hy vọng Taisen Deshimaru có thể thay mình hoàn thành ước mơ truyền bá Thiền khắp nơi. Năm 1967, Taisen Deshimaru đặt chân đến Pháp và bắt đầu truyền bá Thiền tại Paris. Kể từ năm 1970, ảnh hưởng Taisen Deshimaru tại Châu Âu ngày càng lớn và có nhiều người theo ông học Thiền. Cũng năm 1970, ông nhận được ấn khả, truyền pháp từ Thiền sư Reirin Yamada (trụ trì đời thứ 75 của đại bản sơn Vĩnh Bình tự) và được bầu làm Trưởng môn tông Tào Động Nhật Bản phân nhánh Châu Âu. Sau nhiều năm cố gắng, ông đã sáng lập được đạo tràng Thiền tông bên bờ sông Loire mang tên Thái Tây Phật Giáo Đệ Nhất Đạo Tràng. Bắt đầu từ Pháp, đạo tràng này đã lan rộng ảnh hưởng sang nhiều nước Châu Âu khác và góp phần giới thiệu Phật giáo, Thiền tông đến nhiều quốc gia chưa từng biết đến Phật giáo.

Thiền Mặc Chiếu ban đầu phát triển mạnh mẽ song song cùng với pháp Thiền công án của tông Lâm Tế tại Trung Quốc. Tuy nhiên, vài trăm năm sau nó bị mai một và thất truyền do ít người kế thừa xuất sắc. Dù vậy, phương pháp này được truyền bá mạnh mẽ ở Nhật từ thế kỷ 13 cho tới nay do Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền mang về và được gọi là "Chỉ quán đả toạ" (ja. Shikantaza).

Việt Nam

Miền Bắc

31/ Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt (1637-1704), đệ tử nối pháp của Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo, hiệu Đạo Nam Quốc sư.

32/ Thiền sư Chân Dung Tông Diễn (1640 - 1711), hiệu Đại Huệ Quốc sư.

33/ Thiền sư Từ Sơn Hạnh Nhất (1681-1737), tăng thống.

34/ Thiền sư Tính Chúc Đạo Chu (1698- 1775), tăng chính.

35/ Thiền sư Hải Điện Mật Đa, hiệu Viên Thông tăng thống.

36/ Thiền sư Khoan Dực Phổ Chiếu, hiệu Đạo Nguyên tăng thống.

37/ Thiền sư Thanh Đàm Minh Chính (1786-1848), hiệu Thanh Đàm tăng cương.

38/ Thiền sư Giác Lâm Minh Liễu

39/ Thiền sư Đạo Sinh Quang Lịch

40/ Thiền sư Quang Lư Đường Đường

41/ Thiền sư Chính Bỉnh Vô Tướng

42/ Thiền sư Tâm Nghĩa Nhân Từ

43/ Thiền sư Huyền Cơ Mật Ứng (1889-1957), Thiền gia Pháp chủ Giáo hội Tăng già Bắc Việt thời kỳ chấn hưng Phật giáo Việt Nam.

44/ Thiền sư Đức Nhuận Thanh Thiệu (1897-1993), Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Miền Trung

29/ Thiền sư Thạch Liêm Đại Sán (zh. 石濂大汕, 1633-1704), đệ tử nối pháp của Thiền sư Giác Lãng Đạo Thịnh.

Miền Nam

47/ Thiền sư Duy Lực Giác Khai (1923-2000), cũng được gọi là Thích Duy Lực, đệ tử của Hoà thượng Thích Hoằng Tu thuộc hệ phái Cổ Sơn - Thọ Xương pháp phái

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Thiên Đồng Tông Giác** (zh. 天童宗珏, ko. 천동종각 _Ch'ŏndong Chonggak_, ja. _Tendō Shūkaku,_ 1091-1162), cũng được gọi là **Đại Hưu Tông Giác**, là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc đời thứ 11 của Tào
nhỏ|Biểu tượng (logo) của Thiền phái Tào Khê, ba chấm tròn tượng trưng cho [[Tam Bảo.]] **Tào Khê tông** (zh. 曹溪宗 c_aóxī zōng_, ko. _chogye chong_, ja. _sōkei-shū_, en. _Jogye Order_), tên chính thức là
**Tào Sơn Bản Tịch** (zh. _cáoshān běnjì_ 曹山本寂, ja. _sōzan honjaku_), 840-901, là một Thiền sư Trung Quốc, môn đệ đắc pháp của Động Sơn Lương Giới và cùng với thầy, sư thành lập tông
**Động Sơn Lương Giới** (zh. _dòngshān liángjiè_ 洞山良价, ja. _tōzan ryōkai,_ năm 807 - ngày 8 tháng 3 năm 869) là Thiền sư Trung Quốc đời Đường, pháp tự của Thiền sư Vân Nham Đàm
**Chân Dung Tông Diễn** (chữ Hán: 真融宗演, 1638–1709 hoặc 1640–1711), còn có hiệu là **Đại Tuệ Quốc sư**, là Thiền sư Việt Nam đời Lê trung hưng. Ông thuộc đời pháp thứ 32 tông Tào
**Đông Minh Huệ Nhật** (zh. 東明慧日, ja. _Tōmei Enichi_, 1272-1340) là Thiền sư Trung Quốc đời Nguyên, thuộc phái Hoằng Trí, tông Tào Động, sống dưới thời nhà Nguyên. Sư đắc pháp nơi Thiền sư
**Thiên Đồng Như Tịnh** (zh. 天童如淨, _Tiāntóng Rújìng_, ja. _Tendō Nyōjo,_ ngày 7 tháng 7 năm 1163 - ngày 17 tháng 7 năm 1228) là một Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc Tông Tào Động đời
**Đông Lăng Vĩnh Dư** (zh. 東陵永璵, ja. _Tōrei Eiyo_, 1285-1365) là Thiền sư Trung Quốc đời Nguyên, thuộc phái Hoằng Trí, tông Tào Động, pháp tử của Thiền sư Vân Ngoại Vân Tụ. Sư sang
**Tào Sơn Huệ Hà** (zh. 曹山慧霞, ja. _Sōzan Eka_, ?-?) là vị Thiền sư Trung Quốc dưới thời Ngũ đại Thập quốc, đời thứ 3 Tào Động tông. Sư là đệ tử nối pháp của
**Đồng An Đạo Phi** (zh. 同安道丕, ja. _Dōan Dōhi_, ko. 동안도비 _Tongan Tobi_) là Thiền sư Trung Quốc cuối đời nhà Đường và đầu đời Ngũ Đại Thập Quốc. Sư là Tổ đời thứ 3
**Đồng An Quán Chí** (zh. 同安觀志, ja. _Dōan Kanshi_, 910-970) là Thiền sư Trung Quốc thời Ngũ Đại, Tổ thứ 4 của Tào Động tông. Sư đắc pháp từ Thiền sư Đồng An Đạo Phi
**Đông Cốc Minh Quang** (zh. 東谷妙光, ja. _Tōkoku Myōkō_, ?-1253), còn được gọi là **Đông Cốc Diệu Quang**, là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc phái Hoằng Trí, Tông Tào Động. Sử liệu về
**Thái Nguyên Tông Chân** (zh. 太源宗真, ja. _taigen sōshin_), ?-1370, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc
**Đại Triệt Tông Linh** (zh. 大徹宗令, ja. _daisetsu sōrei_), 1333-1408, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc
**Thông Giác Thủy Nguyệt** (zh. 通覺水月, năm 1637 – ngày 6 tháng 3 năm 1704), còn có hiệu là **Đạo Nam Quốc sư**, là Thiền sư Việt Nam thời Lê Trung Hưng, thuộc đời thứ
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Thái Dương Cảnh Huyền** (zh. 太陽警玄 _tàiyáng jǐngxuán_, ja. _taiyō keigen_, 943-1027) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, Tổ thứ 6 của Tào Động Tông. Sư là pháp tử của Thiền Sư Lương Sơn
**Nhất Cú Trí Giáo** (zh. 一句智教 _yījù zhìjiào_, ?-?) là một vị Thiền sư Trung Quốc cuối đời Minh và đầu đời Thanh, thuộc tông Tào Động đời thứ 30, là đệ tử nối pháp
**Vĩnh Giác Nguyên Hiền** (zh. 永覺元賢, ja. _Yōkaku Genken_, 1578-1657) là Thiền sư Trung Quốc cuối đời Minh và đầu đời Thanh, thuộc Tông Tào Động đời thứ 27. Sư là pháp tử của Thiền
**Trạm Nhiên Viên Trừng** (zh. 湛然圓澄, ja. _Tannen Enchō_, ngày 5 tháng 8 năm 1561 - ngày 4 tháng 12 năm 1626), còn có hiệu là **Tán Mộc Đạo Nhân**, là Thiền sư Trung Quốc
**Vân Cư Đạo Ưng** (zh. 雲居道膺, ja. _Ungo Dōyō_, 835-902) là một vị Thiền sư Trung Quốc đời Hậu Đường. Sư là một trong các đệ tử nổi tiếng nhất của Thiền sư Động Sơn
**Hoằng Trí Chính Giác** (zh. 宏智正覺, ja. _Wanshi Shōgaku,_ 1091-1157) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc đời pháp thứ 10 của Tào Động tông. Người đời sau còn nhớ đến sư qua những
**Đầu Tử Nghĩa Thanh** (zh. 投子義青, ja. _Tōsu Gisei_, ko. _T'uja Ŭich'ǒn,_ 1032-1083) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, Tổ thứ 7 của Tào Động tông. Sư đạt đạo nơi Thiền sư Phù Sơn
**Tuyết Đình Phúc Dụ** (zh. 雪庭福裕, ja. _Setsutei Fukuyū_, 1203-1275) là Thiền sư Trung Quốc đời Nguyên, thuộc Tông Tào Động, là pháp tử của Thiền sư Vạn Tùng Hành Tú. Vì sư từng trụ
**Đạo Nguyên Hi Huyền** , 1200-1253 - cũng được gọi là **Vĩnh Bình Đạo Nguyên** vì Sư có công khai sáng Tào Động tông (ja. _sōtō_) tại Nhật Bản và lập Vĩnh Bình tự một
**Chân Yết Thanh Liễu** (zh. 真歇清了, _Zhēnxiē Qīngliăo,_ ja. _Shinketsu Seiryō_, 1089-1151) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc đời thứ 10 Tào Động Tông, nối pháp Thiền sư Đan Hà Tử Thuần. Sư
**Giác Lãng Đạo Thịnh** (zh. 覺浪道盛, ja. _Kakurō Dōsei_, 1592-1659) là Thiền sư Trung Quốc cuối đời Minh và đầu đời Thanh. Sư thuộc đời thứ 28 tông Tào Động, là đệ tử nối pháp
, còn gọi là **Vạn Tùng Lão Nhân**, là Thiền sư Trung Quốc, thuộc đời thứ 14 của tông Tào Động. Sư là một trong những vị Thiền sư có ảnh hưởng nhất trong Tông
**Phù Dung Đạo Khải** (zh. 芙 蓉 道 楷 _fúróng dàokăi_, ja. _fuyo dōkai_; 1043-1118), còn gọi là **Đạo Giai**, là Thiền Sư Trung Quốc đời Tống, Tổ thứ 8 của Tông Tào Động, pháp
**Hối Đài Nguyên Cảnh** (zh. 晦臺元鏡, ja. _Maidai Genkyō_, ngày 25 tháng 6 năm 1577 – ngày 13 tháng 7 năm 1630) là Thiền sư Trung Quốc đời Minh, thuộc tông Tào Động đời thứ
**Vân Ngoại Vân Tụ** (zh. 雲外雲岫, ja. _Ungai Unshū_, 1242-1324) là Thiền sư Trung Quốc đời Nguyên, thuộc phái Hoằng Trí, tông Tào Động. Sư còn có các tên gọi khác như Trí Môn Vân
**Thiền tông** (, ), còn gọi là **Phật Tâm tông**, **Tổ sư Thiền** hay **Tối Thượng thừa**. Đây là một tông phái Phật giáo Đại thừa xuất phát từ 28 đời Tổ sư Ấn Độ
**Tâm Việt Hưng Trù** (zh. 心越興儔, ja. _Shinotsu Kōchū_, ngày 21 tháng 8 năm 1639 - ngày 29 tháng 9 năm 1696), còn gọi là **Đông Cao**, là Thiền sư Trung Quốc cuối đời Minh
là Thiền sư Trung Quốc cuối đời Nguyên và đầu đời Minh, thuộc Tông Tào Động. Sư là môn đệ đắc pháp của Thiền sư Tùng Đình Tử Nghiêm và có pháp tử là Thiền
**Vô Minh Huệ Kinh** (zh. 無明慧經, ja. _Mumyō Ekyō_, 1547-1617) là Thiền sư Trung Quốc đời Minh, thuộc đời thứ 26 tông Tào Động, pháp tử duy nhất của Thiền sư Uẩn Không Thường Trung.
**Đan Hà Tử Thuần** (zh. 丹霞子淳, ja. _Tanka Shijun_, 1064-1117) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống. Sư là pháp tử của Thiền sư Phù Dung Đạo Khải, thuộc đời thứ 9 của Tông Tào
**Tuyết Đậu Trí Giám** (zh. 雪窦智鑑, ja. _Setchō Chikan,_ 1105-1192), cũng được gọi là **Túc Am Trí Giám**, là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc đời thứ 12 của Tông Tào Động. Sư nối
**Trực Ông Đức Cử** (zh. 直翁德擧, ja. _Jikiō Tokkyo_, ?-?), còn được gọi là **Nhất Cử**, là Thiền sư Trung Quốc đời Nguyên, thuộc phái Hoằng Trí, tông Tào Động. Sư từng đến tham vấn
**Lương Sơn Duyên Quán** (zh. 梁山緣觀, ko. 량산연관 _Lyangsan Yŏngwan,_ ja. _Ryōzan Enkan_, 920-990) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, Tổ đời thứ 5 của Tông Tào Động. Sư là đệ tử đắc pháp
**Lộc Môn Tự Giác** (zh. 鹿門自覺, ja. _Rokumon Jikaku_, ?-1117) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc đời thứ 9 tông Tào Động, là pháp tử của Thiền sư Phù Dung Đạo Khải. Ngoài
là Thiền sư Trung Quốc cuối đời Minh, thuộc đời thứ 28 của tông Tào Động. Sư là pháp tử của Thiền sư Trạm Nhiên Viên Trừng và có nhiều đệ tử nổi danh như:
**Hư Vân** (zh. 虛雲; _Xūyún_; 17 tháng 8 năm 1840?−13 tháng 10 năm 1959), còn có hiệu là **Đức Thanh Diễn Triệt**, là một Thiền sư Trung Quốc thời cận đại. Sư là vị Thiền
**Vi Lâm Đạo Bái** (zh. 爲霖道霈, ja. _Irin Dōhai_, 1615-1702) là Thiền sư Trung Quốc cuối nhà Minh và đầu nhà Thanh, thuộc tông Tào Động đời thứ 28. Sư là môn đệ nối pháp
**Ngũ gia thất tông** (zh. 五家七宗, ja. _goke-shishishū_) là năm nhà và bảy tông của Thiền tông Trung Quốc. Ngũ gia gồm có: #Quy Ngưỡng tông, do hai Thiền sư khai lập là Quy Sơn
**Long Nha Cư Độn** (zh. 龍牙居遁 _lóngyō jūxún_; ja. _ryūge koton_; 834/835-920/923) là Thiền sư Trung Quốc đời Đường, môn đệ đắc pháp của Thiền Sư Động Sơn Lương Giới - Khai tổ Tông Tào
**Tự Đắc Huệ Huy** (zh. 自得慧暉, ja. _Jitoku Eki_, 1097-1183) là một Thiền sư Trung Quốc đời Tống. Sư nối pháp Thiền sư Hoằng Trí Chính Giác, thuộc phái Hoằng Trí, Tào Động tông. Đệ
**Phổ Chiếu Nhất Biện** (zh. 普照一辯, _Puzhao Yibian_, 1081- 1149) là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc đời thứ 10 của Tông Tào Động. Sư là pháp tử của Thiền sư Lộc Môn Tự
**Tính Chúc Đạo Chu** (năm 1698 – ngày 25 tháng 5 năm 1775) là một vị Thiền sư, cao tăng Việt Nam đời Lê Trung Hưng, thuộc đời thứ 34 tông Tào Động. ## Tiểu
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ