✨Trận Bắc Lệ

Trận Bắc Lệ

Trận Bắc Lệ hay còn gọi là Trận cầu Quan Âm, đã diễn ra từ ngày 23 tháng 6 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 7 cùng năm, là một trận giao tranh lớn giữa quân thực dân Pháp và quân liên minh Việt - Thanh. Kết thúc trận, quân đội Pháp ở Bắc Kỳ (Việt Nam) phải chịu nhiều thiệt hại về người và của, khiến nó trở thành một sự kiện gây hoang mang cho thực dân Pháp và gây nhiều căng thẳng cho mối quan hệ Pháp - Thanh lúc bấy giờ.

Bối cảnh

Sau mấy trận thất bại ở Bắc Kỳ, Thanh đình đã trị tội các tướng tá của mình, rồi sai Phan Đình Tân (Tuần phủ Quảng Tây, nguyên tướng lĩnh Hoài quân) chỉ huy cuộc chiến đấu. Tháng 4 năm Giáp Thân (1884), Phan Đình Tân kéo quân qua cửa quan họp binh với Sầm Dục Anh (Tổng đốc Vân Quý), rồi phái Vương Đức Bảng (Bố Chính), Phương Hữu Thăng, Huỳnh Nguyện Xuân đem 17 doanh quân đóng ở Nam Quan, Lạng Sơn và Quan Âm.

Ở Lạng Sơn, các tướng Thanh đã liên lạc với các quan Việt là Lã Xuân Oai (Tuần phủ Lạng Sơn) Nguyễn Thiện Thuật (Tán tướng) Tạ Hiện (Đề đốc), Phạm Huy Quang (Ngự sử) để cùng kháng Pháp.

Để tránh các cuộc xung đột giữa đôi bên, Pháp và Thanh cùng ký kết tại Hòa ước Thiên Tân 1884 ngày 11 tháng 6 năm 1884 gồm 5 khoản, mà trong đó có khoản Thanh triều sẽ lần lượt rút hết quân ra khỏi Bắc Kỳ.

Biết nước Việt sau quy ước này, sẽ mất chỗ dựa duy nhất là nhà Thanh, và biết nhà Nguyễn cũng đã mệt nhoài vì mấy năm chiến tranh, nên nội các Tules Ferry (Pháp) đã cử Jules Patenôtre sang Huế để ký kết bản một hiệp ước mới, đó là hòa ước Patenôtre (hay còn gọi là Hòa ước Giáp Thân 1884) vào ngày 6 tháng 6 năm 1884. Hòa ước này, gồm 19 khoản, ngoài mục đích phân chia Việt Nam ra thành ba kỳ, xoa dịu sự công phẫn của nhân dân Việt Nam, nó còn nhằm cắt đứt hoàn nhà Nguyễn với toàn mọi mối quan hệ giữa nhà Thanh (Trung Quốc).

Giao tranh

Bản đồ Lạng Sơn năm 1885. Hay tin hai hiệp ước trên vừa được ký kết, quân Pháp ở Bắc Kỳ rất vui và nhẹ nhõm vì cho rằng chiến tranh, vậy là đã kết thúc. Bởi theo quy ước hòa ước Thiên Tân 1884 ký bởi Trung tá Fournier và Tổng đốc Trực Lệ Lý Hồng Chương, thì quân Thanh ở Lạng Sơn, Thất Khê và Cao Bằng sẽ phải rút hết về nước.

Tin vậy, nên ngày 13 tháng 6 năm 1884, tướng Millot phái Thiếu tá Dugenne dẫn hơn ngàn binh lính và khoảng ngần ấy phu khuân vác, từ Phủ Lạng Thương kéo lên tiếp quản các tỉnh thành trên.

Ngày 22 tháng 6, đoàn quân Pháp đi đến đồn Bắc Lệ. Nhưng khi quân Pháp đến bờ sông Hóa (một nhánh của sông Thương), cách cầu Quan Âm khoảng 8 dặm thì bị chặn lại. Ở phía bên kia cầu, quân Thanh và quân khởi nghĩa người Việt do Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện, Phạm Huy Quang cùng chỉ huy, vẫn còn đang đóng giữ.

Ngày 23, sau khi thăm dò được một quãng sông không sâu lắm, dưới làn mưa đạn, quân Pháp vẫn cố vượt sông. Trước tình thế căng thẳng, tướng nhà Thanh sai quân đưa thư, đại ý nói rằng đã biết có hòa ước, nhưng vì chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoãn lại mấy ngày nữa để đợi chỉ dụ của Bắc Kinh.

Sách Việt Nam sử lược kể: :(Nhưng) Trung tá Dugenne không chịu; đến quá trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu rằng trong một giờ nữa mà quân Tàu không rút về thì quân Pháp cứ việc tiến lên. Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, thì quân Tàu phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối. Sáng ngày hôm sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn rút quân về bên này sông Thương, để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên. Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử trận, 46 người bị thương, còn những phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể.'' :Thống tướng Millot tiếp được tin quân Pháp thua ở Bắc Lệ, liền sai thiếu tướng De Négrier đem 2 đại đội quân bộ, 2 đội pháo binh và một toán công binh đi đường Phủ Lạng Thương qua làng Kép, lên tiếp ứng cho trung tá Dugenne. Khi tiếp được quân của trung tá rồi, thiếu tướng Millot triệu thiếu tướng De Négrier về Hà Nội, để chờ lệnh và quân ở bên Pháp sang...

Sách Việt sử tân biên (quyển 5, tập thượng) kể: :Tiền đồn của Pháp khi ấy là Phủ Lạng Thương, nằm trên con đường đi Lạng Sơn. Từ Hà Nội, quân của Trung tá Dugenne đã mất 2 ngày mới đến được nơi này. Dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời mùa hạ xứ Bắc, thấy quân lính mỏi mệt quá, Dugenne phải cho nghỉ 4 ngày rồi mới tiến lên. Họ lên đường vào ngày 12 tháng 6 mang theo 4, 5 ngày lương. Ngày đầu, họ đi được không quá 8 cây số qua những khúc đường mà chỗ nào cũng ngập nước và bùn lên tới đầu gối, cây cỏ che kín đầu người... :''Ngày 19 tháng 6, quân Pháp đi từ 3 giờ rưỡi sáng. Đến 8 giờ, trời nóng quá không thể lê bước được phải ghé vào làng Bắc Lệ. Mưa lại đổ xuống luôn mấy ngày khi họ tới Cao sơn. Liền trong 3 ngày, quân Pháp ngừng bước trước một khúc của con sông Thương. :''Ngày 23 tháng 6, họ phải lội qua sông, nước lên tới ngang thắt lưng. Nhưng vừa đặt chân lên bờ bên kia thì cách 250 thước, trên một ngọn đồi quân Việt và quân Thanh bắn vào họ. Đến 9 giờ, thì một sứ giả của bên Thanh, mặc áo xanh, không đem vũ khí, nhưng mang một bức thư buộc trên đầu một cành tre, đến xin gặp Dugenne...và vụ việc thương thảo (bên đòi tiến, bên đòi hẹn) cứ nhùng nhằng... :...Lúc bấy giờ, Trung tá Dugenne cần có một sự dứt khoát bởi tối sắp đến nơi, mà họ thì không thể đóng quân trên bờ sông vì e bị tấn công. Vì vậy, trong khi chờ gặp viên Tư lệnh quân Thanh, tiền đạo của Pháp kéo đến một nơi gần khe núi. Quân Thanh bắn ra từ các lùm cây rậm rạp. Đám lính tập bỏ chạy. Vào khoảng 5 giờ rưỡi, đạn của quân Thanh lại bắn ra như mưa rào, gây khủng hoảng dữ dội trong đám lao công. Đêm tối, súng im bặt, lính Pháp phải đào hố và đặt trạm cứu thương. Vào 11 giờ đêm, mưa to lại đổ. :Ngày sau (26 tháng 6), tình trạng của Pháp quân bi đát hơn. Tám ngàn quân Thanh vây kín quân Pháp. Trung tá Dugenne thấy nguy quá ra lệnh chiến đấu mãnh liệt hơn nhưng rồi cũng phải hô mở một con đường máu để rút lui. Quân Thanh nấp trên các hang, các khe, các bụi rậm cứ chĩa súng bắn xuống đoàn quân đang cố tháo chạy. Đến 5 giờ chiều, quân Pháp mới vượt sông về tới Bắc Lệ....

Thiệt hại

Quân Pháp dừng chân bên bờ sông ở gần Lạng Sơn. Theo sách Đại Nam thực lục thì con số thiệt hại của Pháp như sau: Bên bờ sông Hóa: Liên quân Thanh - Việt bắt được 1 quan tư, 2 quan hai, 20 người lính, hơn 100 mã tà và thu được áo, mũ, lừa, ngựa rất nhiều. Còn số người chết đuối ở sông Hóa, không biết đâu mà kể. Nơi đồn Bắc Lệ: Nghĩa quân bắt được 1 quan hai, 1 quan một và 6, 7 người lính. *Nơi núi Thiên Cầu, không biết chính xác, vì chính sử viết như thế này: Ngày 11, lại phái nghĩa dũng chặn núi Thiên Cầu đánh chém quân ấy, hơn 50 người, giải nộp dinh nhà Thanh lãnh thưởng. Bên liên quân liên minh Việt–Thanh, số thiệt hại không rõ.

Bàn luận

Nói đến sự kiện Bắc Lệ, sách Tổng tập (tập I) của GS. Trần Văn Giàu có đoạn: :...Bị bao vây ba mặt và bị đe dọa cắt đứt đường rút lui về Hà Nội, Dugenne thất thế, vội vã ra lệnh rút lui. Số quân Pháp và số dân phu bỏ chạy tán loạn, bỏ cả lương thực, ngựa, lừa, đạn dược. Tới chiều, binh đoàn của Pháp mới qua sông Thương, rút về Bắc Lệ với một số đông tử thương, trong số đó có 2 quan ba, 2 quan hai, 1 bác sĩ; và gần một phần mười số quân bị thương nặng nhẹ. Đến được đồn Bắc Lệ, số quân Pháp trên lại bị nghĩa quân Việt do Tán tương Hoàng Đình Kính chỉ huy, tổ chức tấn công, bắt được một quan hai. Rồi ông còn phái nghĩa dũng tiến mau ngăn quân Pháp ở núi Thiên Cầu, giết và bắt được một số đối phương giải về doanh của quân Thanh. Trung tá Dugenne và số quân còn lại lui riết về Đáp Cầu Kép)....

Lời kết

Trận cầu Quan Âm mà Pháp gọi là sự kiện Bắc Lệ, có tiếng vang rất lớn ở Pháp và Việt Nam, khiến thực dân Pháp rất hoang mang, lo ngại. Đây thật sự là một thất bại nặng nề của quân Pháp, một thắng lợi to lớn của liên quân Việt – Thanh. Cho nên khi nhận được tin, thủ tướng Jules Ferry liền đánh điện khẩn cho Lý Hồng Chương, để phản đối kịch liệt sự việc này. Và sau đó, đã hai lần (12 tháng 7 & 19 tháng 8) Jules Ferry gửi tối hậu thư đòi quân Thanh phải rút ngay khỏi Bắc Kỳ và phải đòi thường thiệt hại cho Pháp 250 triệu francs (khoản tiền này sau cứ giảm dần đi). Nhưng mặc dù tình hình giao thiệp giữa Pháp và Thanh rất căng thẳng, nhưng cả đôi bên đều muốn dùng con đường thương thuyết để tránh một cuộc chiến tranh lớn.

Nhưng trước những yêu sách quá đáng của Pháp, triều đình Bắc Kinh không thể nào nhượng bộ được nữa, cuối cùng, cuộc chiến tranh Trung - Pháp cũng đã nổ ra (tháng 8 năm 1884).

Sau trận Bắc Lệ, Trung tướng Millot bị triệu hồi, Thiếu tướng Brière de l'Isle lên thay thế, để tiếp tục công việc đánh dẹp và bình định Bắc Kỳ...

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Bắc Lệ** hay còn gọi là **Trận cầu Quan Âm**, đã diễn ra từ ngày 23 tháng 6 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 7 cùng năm, là một trận giao
**Mặt trận Bắc Phi** hay **chiến trường Bắc Phi** là một trong những mặt trận chính của chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra tại vùng sa mạc Bắc Phi từ ngày 10 tháng
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Trần Minh Lệ** là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, cấp bậc hàm Trung tướng. Ông hiện giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Cảnh sát
**Quân đoàn bộ binh Bắc Kỳ** (_tirailleurs tonkinois_) là một Quân đoàn bộ binh nhẹ Bắc Kỳ, được thành lập năm 1884 để hỗ trợ cho các hoạt động của Quân đoàn viễn chinh Bắc
**Trận Lạng Sơn (1885)** hay **Pháp đánh Lạng Sơn** là một chiến dịch gồm vài trận giao tranh lớn nhỏ giữa quân Pháp và quân Thanh, đã diễn ra từ đầu tháng 2 năm 1885
**Trận Gazala** là một trận chiến quan trọng thuộc Chiến dịch Sa mạc Tây trên Mặt trận Bắc Phi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra xung quanh thành phố cảng Tobruk tại
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Lê Đại Cương** (chữ Hán: 黎大綱, 1771 - 1847) còn gọi là **Lê Đại Cang**, tự **Thống Thiện**, hiệu **Kỳ Phong**. Ông là một vị quan nổi tiếng tài năng, trung chính thời Nguyễn, trải
**Trần Lựu** (chữ Hán: 陳榴; ?-?), còn được chép là **Lê Lựu** (黎榴), là một khai quốc công thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong số các tướng lĩnh
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
**Trần Danh Án** (陳名案, 1754–1794), tự **Liễu Am** (了庵), hiệu **Tản Ông** (散翁); là nhà thơ và là quan viên nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là tác giả của "Nam
**Trận Kasserine** là một chuỗi trận đánh trong Chiến dịch Tunisia thời Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 19 cho đến ngày 22 tháng 2 năm 1943 quanh đèo Kasserine –
Lễ hội làng Vân Côn - Hoài Đức - Hà Nội Lễ hội đua bò 7 núi An Giang **Lễ hội Việt Nam** là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng.
Di tích đài tưởng niệm kênh Nhà Lê ở Nghệ An năm 2009 Âu cầu Hội - [[cửa biển Thần Phù|cửa Thần Phù trên sông Nhà Lê ở Yên Mô, Ninh Bình]] **Kênh Nhà Lê**
**Trận Villiers**, còn gọi là **Trận Champigny-Villiers**, **Trận Champigny** hay **Trận Đại đột vây từ Paris**, diễn ra từ ngày 29 tháng 11 cho tới ngày 3 tháng 12 năm 1870 khi quân đội Phổ-Đức
nhỏ|phải|Vị trí vùng Bắc Trung Bộ trên bản đồ Việt Nam **Bắc Trung Bộ** là phần phía bắc của Trung Bộ Việt Nam từ Thanh Hóa tới phía bắc Đèo Hải Vân. Vùng Bắc Trung
**Trần Văn Đế** (chữ Hán: 陳文帝; 522 – 566), tên húy là **Trần Thiến** (), tên tự **Tử Hoa** (子華), là một hoàng đế của triều đại Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
_[[Chiếu dời đô_ – bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.|thế=]] nhỏ|330x330px|Một góc phố Hà Nội đêm 10 tháng 10 năm 2010 **Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà
phải|Ải Lê Hoa trong bản đồ châu Thủy Vĩ thời kỳ 1397 - 1688, trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688. **Ải Lê
**Trận Đồng Quan** hay **Chiến dịch Đồng Quan** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
**Trận Le Mans** diễn ra từ ngày 10 cho đến ngày 12 tháng 1 năm 1871 trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 71), khi Tập đoàn quân số 2 (Đức) do Thân vương Friedrich
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trần Nguyên Hãn** (chữ Hán: 陳元扞, 1390–1429) là nhà quân sự Đại Việt thời Trần - Lê sơ. Ông là người thuộc dòng dõi nhà Trần, nổi bật với việc tham gia khởi nghĩa Lam
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
**Bắc Giang** là một tỉnh cũ thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía nam giáp tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Hải Dương, phía đông giáp tỉnh
Thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc được chia ra thành các đơn vị hành chính sau: * 16 đơn vị cấp huyện ** 6 khu (quận) nội thành ** 6 khu (quận) ngoại thành **
**Trần Nhật Duật** (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu **Chiêu Văn vương** (昭文王) hay **Chiêu Văn đại vương** (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
**Lê Đình Kiên** (1621 - 1704) là một viên quan dưới triều Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có tài về chính trị, quân sự, ngoại giao, ngoại thương, nên
**Trần Văn Chơn** (1920–2019), nguyên là một tướng lĩnh Hải Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hải hàm Đề đốc, cấp bậc Thiếu tướng. Ông đã tốt nghiệp và phục vụ trong ngành
**Lê Tắc**, **Lê Trắc** (1263 - 1342, chữ Hán: 黎崱), hay **Lê Trực,** trước là họ Nguyễn sau đổi thành họ Lê, tự là **Cảnh Cao** (景高), hiệu là **Đông Sơn** (東山); người thuộc Ái
**Trận Ardennes**, còn gọi là **các trận Longwy và Neufchateau**, diễn ra từ ngày 21 cho đến ngày 23 tháng 8 năm 1914, trong chuỗi trận Biên giới Bắc Pháp giữa quân đội Đức với
**Bắc Ninh** hình thành lâu đời gắn liền với nền Văn minh sông Hồng. Luy Lâu không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn là trung tâm kinh tế - thương mại, trung tâm
**Trận thành Đồ Bàn** diễn ra ngày 24 tháng Giêng ÂL năm Đinh Tỵ (1377) tại thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Quy
**Trần Dụ Tông** (chữ Hán: 陳裕宗) 22 tháng 11 năm 1336 – 25 tháng 5 năm 1369) là vị hoàng đế thứ 7 của triều đại nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi 28 năm
**Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947** là chiến dịch phản công của lực lượng vũ trang nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước **Cuộc hành quân Léa** do quân đội Pháp thực
thumb|Kinh Bắc (màu xanh lá) ở phía bắc Thăng Long thumb|Bản đồ tỉnh Bắc Ninh năm 1891 thumb|Bản đồ tỉnh Lục Nam năm 1891 **Kinh Bắc** là một trong bốn Trấn quanh Thăng Long xưa,
**Trận El Alamein thứ nhất** (1–27 tháng 7 năm 1942) là một trận đánh thuộc Chiến dịch Sa mạc Tây trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra trên bờ biển phía bắc Ai
nhỏ|Lược đồ chiến dịch Thổ Mộc bảo **Trận bảo vệ kinh sư**, còn gọi là **Trận bảo vệ Bắc Kinh**, diễn ra vào tháng 10 năm Chính Thống thứ 14 (1449) dưới thời Minh Anh
**Trận Gaugamela** (tiếng Hy Lạp: _Γαυγάμηλα_) còn gọi là **trận Arbela**, diễn ra vào ngày 1 tháng 10 năm 331 trước Công nguyên, giữa liên quân Hy Lạp do vua xứ Macedonia Alexandros III chỉ
**Dương Khoan** (, ? – 561), tự Cảnh Nhân hay Mông Nhân , người Hoa Âm, Hoằng Nông, quan viên nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy và nhà Bắc Chu. Ông sinh gặp thời loạn,
**Trận Tương Dương – Phàn Thành** là trận chiến thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa phe Lưu Bị (người sáng lập nước Thục Hán) và Tào Tháo (người sáng lập nước Tào
**Trần Sở Hà** (; sinh ngày 9 tháng 5 năm 1978) là một diễn viên và người mẫu Đài Loan. ## Tiểu sử Sở Hà là con trai cả của Trần Khải Lễ , không
phải|Quân [[Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ|Liên bang miền Bắc xung phong]]Trong 4 năm của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ quân Liên bang miền Bắc và quân Liên minh miền Nam đánh nhau trong nhiều
**Trận Dunkerque** (hay **Trận Dunkirk**) là một trận đánh quan trọng nổi tiếng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra tại xã Dunkerque, Pháp từ ngày 26 tháng 5 cho đến ngày 4
**Bắc Ninh** là một tỉnh của Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Tỉnh cũng nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ