✨Trần Vĩ (Nam Tống)

Trần Vĩ (Nam Tống)

Trần Vĩ (chữ Hán: 陈韡, 1179 – 1261), tên tự là Tử Hoa, người Hầu Quan, Phúc Châu , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân tiến sĩ, từng chỉ huy trấn áp khởi nghĩa nông dân ở Phúc Kiến.

Sự nghiệp

Hiến kế kháng Kim

Cha là Trần Khổng Thạc, từng theo học Chu Hi và Lữ Tổ Khiêm. Vĩ nhường ân huệ tế giao của cha cho em trai Trần Sướng .

Vĩ đỗ tiến sĩ năm Khai Hi đầu tiên (1205) thời Tống Ninh Tông, sau đó theo Diệp Thích học tập. Năm Gia Định thứ 14 (1221), Giả Thiệp (cha của Giả Tự Đạo) khai khẩn lưu vực sông Hoài, vời quan viên giỏi ở Kinh Đông, Hà Bắc. Vĩ đề nghị:

  • Khuyến khích di dân Sơn Đông, Hà Bắc quay về quê nhà, cấp cho bò và nông cụ.
  • Phát phối tử tội ở các quận trong nước.
  • Chiêu dụ các thủ lãnh nổi dậy ở nước Kim: xếp bọn Trương Lâm, Lý Toàn vào nhóm đầu – dành cho những người có công; thủ lãnh đem đôi ba châu về hàng thì cho làm Tiết độ sứ, đem 1 châu thì cho giữ ngay đất ấy.
  • Thu vén ruộng đất nhàn rỗi ở lưu vực sông Hoài, mô phỏng phép tổ chức nghĩa dũng của Hàn Kỳ, đem ruộng ấy cấp cho họ. Đối với nghĩa dũng thì chọn thổ hào làm chủ soái, riêng diêm đinh thì tập hợp riêng làm 1 cánh quân. Xem nghĩa dũng là lớp phên dậu bên ngoài của khu vực này.

Năm thứ 15 (1222), Hoài Tây báo tiệp , Vĩ tính rằng người Kim ắt nhắm vào An Phong, đề nghị chia binh giữ các quận, sai Biện Chỉnh, Trương Huệ, Lý Nhữ Chu, Phạm Thành Tiến đều đem binh đồn trú Lư Châu để đợi địch; tướng Kim là Lô Cổ Chúy mới thắng ở Đồng Quan, thừa thế đánh gấp, nên giằng co lâu ngày để khiến hắn khốn đốn, không quá 10 ngày ắt bỏ trốn, đặt mai phục chặn đánh, ắt có thể thắng; lại sai Thì Thanh, Hạ Toàn chờ người Kim thâm nhập, đem binh đánh úp sào huyệt của địch. Vĩ tự nhận đó là kế sách hay nhất, quả nhiên người Kim xâm phạm An Phong, ông được đi Hu Dị khao quân. Vĩ được đổi làm Hoài Đông chế trí tư Cán bạn công sự, trở lại Hu Dị gặp Hoài Đông chế trí sứ Lưu Trác, khiến ông ta điều các cánh quân của Hạ Chỉnh, Trương Huệ, Phạm Thành Tiến, Hạ Toàn tiếp ứng cho hành động đánh úp người Kim. Nhờ kế sách của Vĩ, quân Tống giành được chiến thắng Đường Môn, bắt sống 4 phò mã của người Kim.

Vĩ được thăng quan Tương Tác giám thừa, rồi thăng quan Thái Phủ tự thừa, sai khiển Tri Chân Châu, Hoài Đông đề điểm hình ngục. Sau đó Vĩ được gia quan Trực Bảo Chương các, sai khiển Đề điểm hình ngục như cũ, kiêm Tri Bảo Ứng châu. Vĩ được thăng quan Tông Chánh tự thừa, sai khiển Quyền Công bộ lang trung, đổi làm Thương bộ Viên ngoại lang. Nhờ vậy, Vĩ được gặp hoàng đế.

Trấn áp khởi nghĩa

Mùa đông năm Thiệu Định thứ 2 (1229) thời Tống Lý Tông, nghĩa quân nổi lên ở Mân Trung, Tri Phúc Châu Vương Cư An gởi gắm Vĩ làm Đề cử Tứ ngung bảo giáp, nhưng ông đang có tang, nên từ chối. Chuyển vận sử Trần Vấn, Đề cử Thường Bình Sử Di Trung cáo cấp lên triều đình, cho rằng không phải Vĩ thì không ai có thể bình định. Năm sau (1230), Vĩ được lấy quan Bảo Chương các Trực học sĩ để khởi phục sai khiển Tri Nam Kiếm châu, Đề cử Đinh Châu, Thiệu Vũ quân Binh giáp công sự, Phúc Kiến lộ Binh mã kiềm hạt, tham gia sắp đặt việc chiêu hàng – bắt bớ nghĩa quân, kiêm sai khiển Phúc Kiến lộ Chiêu bộ sứ. Chưa lâu sau, Vĩ được gia quan Đề điểm hình ngục. Vĩ biên chế trai tráng của thổ dân làm 1 cánh quân, trong khi ấy nghĩa quân theo lối tắt lẻn vào thành huyện Sa, bị Trung Dũng quân đẩy lui, bèn chạy đi Thiệu Vũ, thế lực ngày càng đáng kể. Có người bàn nên chiêu hàng, không nên bắt bớ, Vĩ nói: "Ban đầu giặc chỉ có trăm tên, chiêu mà không bắt, nuôi chúng đến ngàn, lại nuôi chúng đến vạn, nay còn nuôi nữa, sẽ đến không đếm xuể. Mong 5000 binh Hoài Tây có thể dẹp hết sao?" Sau đó triều đình giáng chiếu cho Vĩ được kiêm sai khiển Phúc Kiến lộ Chiêu bộ sứ (ý nói lần này ông được chuyên quyết, không phải hội nghị với mọi người nữa).

Tháng 6 ÂL, quan quân hội binh, Vĩ được gia quan Phúc Kiến đề điểm hình ngục. Tháng 7 ÂL, Vĩ đích thân kéo binh đi huyện Sa, Thuận Xương, Tương Nhạc, Thanh Lưu, Ninh Hóa, đốc thúc việc bắt bớ, đến đâu thắng đấy. Tháng 9 ÂL, Vĩ chia binh đánh dẹp. Tháng 10 ÂL, quan quân tấn công 5 doanh trại nghĩa quân, đều bình được. Tháng 11 ÂL, quan quân phá căn cứ của nghĩa quân Đàm Ngõa Thế. Tháng 12 ÂL, Vĩ làm tội lính Đinh Châu làm loạn, dụ hàng 72 trại ở Liên Thành, dẹp xong Đinh Châu.

Tháng giêng ÂL năm thứ 4 (1231), Vĩ sai tướng đánh hạ trại Cù Trương Nguyên. Tháng 2 ÂL, Vĩ đích thân đi Thiệu Vũ đốc thúc bắt bớ tàn dư nghĩa quân, thủ lãnh Yến Bưu ra hàng, ông cho rằng hắn ta sức cạn mới hàng, bèn làm tội. Vĩ được tiến chức Hữu Văn điện tu soạn, còn Đề điểm hình ngục, Chiêu bộ sứ như cũ, kiêm Tri Kiến Ninh phủ. Nghĩa quân Cù Châu của Uông Từ, Lai Nhị phá Thường Sơn, Khai Hóa, thế ngày càng lớn. Vĩ mệnh cho Hoài tướng Lý Đại Thanh đem 700 binh, nhân đêm tối, bất ngờ tấn công trại địch; nghĩa quân nghênh chiến, thấy cờ Toán Tử, sợ hãi nói: "Đây là quân của Trần chiêu bộ đấy!" rồi khóc lớn. Quan quân đánh gấp, dẹp xong nghĩa quân ở Cù Châu.

Năm thứ 6 (1233), Vĩ được tiến quan Bảo Chương các đãi chế, sai khiển Tri Long Hưng phủ. Nghĩa quân Trần Tam Thương ở Cống Châu chiếm trại Tông Tử Sơn, ra vào Giang Tây, Quảng Đông, đi đâu thì tàn phá đến đấy. Vĩ sai quan lại dụ hàng, bị nghĩa quân giết ngay. Vĩ cho rằng nghĩa quân nổi dậy là do các viên lại tham nhũng, hặc 2 kẻ quá đáng nhất, rồi khẳng định nếu được trao toàn quyền thì vài tháng nữa sẽ dẹp xong nghĩa quân. Tháng 11 ÂL, Vĩ nhận chiếu được làm Tiết chế Giang Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến 3 lộ Bộ khấu quân mã. Vĩ tâu xin lấy Lưu Sư Trực chẹn Mai Châu, Tề Mẫn chẹn Tuần Châu, tự kéo binh Hoài Tây cùng thân binh tấn công sào huyệt của nghĩa quân. Tháng 12 ÂL, Vĩ được kiêm sai khiển Tri Cống Châu.

Tháng giêng ÂL năm Đoan Bình đầu tiên (1234), Vĩ được tiến chức Hoa Văn các Đãi chế, sai khiển Giang Tây an phủ sứ. Tháng 2 ÂL, Vĩ đến Cống Châu, chém kẻ nào trong tướng sĩ có tội từ sợ giặc cho đến cướp bóc trai gái, tài sản. Bấy giờ Tề Mẫn, Lý Đại Thanh đến đâu thắng đấy. Tháng 3 ÂL, Vĩ chia binh giữ Đại Thạch Bảo, chẹn đường vận lương của nghĩa quân, rồi nhắm đến Tông Tử Sơn. Vĩ đích thân đốc thúc chư tướng, nhân lúc khí chướng mùa xuân chưa nổi lên, tấn công Tông Tử Sơn. Nghĩa quân dốc hết tinh nhuệ xuống núi chống trả, cờ xí trang phục rất đầy đủ. Vĩ đưa bộ kỵ giáp kích, lại phóng hỏa thiêu đốt, binh sĩ đều vịn vách núi trèo lên; sào huyệt nghĩa quân chìm trong khói bụi, tướng nghĩa quân là Trương Ma Vương tự thiêu. Quan quân chém được 1500 thủ cấp, bắt được 12 tướng, bắt được phụ nữ, bò ngựa bị cướp cùng trang phục – đồ vật tiếm ngụy vài trăm món. Trần Tam Thương trúng tên, cùng dư đảng thòng dây trèo khỏi vách núi để trốn, gặp quân của Tề Mẫn, lại bị đánh bại, nhưng chạy thoát. Ngày kế, nghĩa quân bị bắt kịp ở Hạ Hoàng, lại thua trận, còn hơn ngàn người. Liên tiếp bị chặn đánh, Trần Tam Thương chỉ còn vài mươi người, trốn đến Hưng Ninh thì bị bắt. Vĩ dùng xe tù chở bọn Trần Tam Thương 6 người, đem về chém đầu ở chợ của Long Hưng.

Thăng tiến tột cùng

Như vậy thế lực hoành hành 60 trại, mấy châu, 3 lộ đã bị đập tan, triều đình giáng chiếu khen ngợi, cho Vĩ tiến quan Quyền Công bộ thị lang, vẫn sai khiển Tri Long Hưng kiêm quan Giang Tây an phủ sứ. Chưa lâu sau, được nhận quan Công bộ thị lang, đổi quan Giang Đông an phủ sứ, sai khiển Tri Kiến Khang phủ, kiêm Hành cung lưu thủ. Năm thứ 2 (1235), Vĩ vào chầu, được thăng quan Quyền Công bộ thượng thư, rồi Quyền Hình bộ thượng thư, Duyên giang Chế trí đại sứ, Giang Đông an phủ sứ, sai khiển Tri Kiến Khang phủ như cũ. Vĩ đi lại tuần thị mặt sông Trường Giang ở Ngạc Châu, sắp đặt phòng ngự.

Năm thứ 3 (1236), Vĩ được gia chức Bảo Mô các học sĩ. Tháng 10 ÂL, triều đình giáng chiếu chọn mãnh tướng, tinh binh, Vĩ so sánh tình hình hoãn – gấp của các nơi, tiến hành chiếm giữ địa lợi, chẹn giữ xung yếu, phòng ngừa mưu đồ nổi loạn.

Năm Gia Hi đầu tiên (1237), Vĩ được tiến chức Hoán Chương các học sĩ. Năm thứ 4 (1240), Vĩ được bái quan Hình bộ thượng thư, nhưng ông từ chối; được gia chức Huy Du các học sĩ, sai khiển Tri Đàm Châu, quan Kinh Hồ Nam lộ an phủ sứ.

Năm Thuần Hữu thứ 4 (1244), Vĩ được triệu làm quan Binh bộ thượng thư, thăng Lễ bộ thượng thư kiêm Thị độc, kiêm sai khiển Đồng tu quốc sử, Thực lục viện Đồng tu soạn; sau đó được bái chức Đoan Minh điện học sĩ, quan Đồng Thiêm thư Xu mật viện sự kiêm Tham tri chánh sự; ít lâu lại được bái quan Tham tri chánh sự kiêm Đồng tri Xu mật viện sự. Năm thứ 7 (1247), Vĩ được làm quan Tri Xu mật viện sự, Hồ Nam an phủ đại sứ kiêm sai khiển Tri Đàm Châu.

Khẩn cầu trí sĩ

Năm thứ 9 (1249), Vĩ được chức Quan Văn điện học sĩ, quan Phúc Kiến an phủ đại sứ, sai khiển Tri Phúc Châu; ông 5 lần dâng chương từ chối, được lấy chức cũ để nhận quan Đề cử Động Tiêu cung.

Năm Khai Khánh đầu tiên (1259), Vĩ được triệu vào cung, hoàng đế không cho ông trí sĩ, sung chức Lễ Tuyền quan sứ kiêm quan Thị độc. Năm Cảnh Định đầu tiên (1260), Vĩ được thụ quan Phúc Kiến an phủ đại sứ kiêm Tri Phúc Châu. Hồi lâu, Vĩ được quan Đề cử Hữu Thần quan, ông ra sức xin trí sĩ. Năm sau (1261), Vĩ mất, hưởng thọ 83 tuổi, được tặng Thiếu sư, thụy Trung Túc.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Vĩ** (chữ Hán: 陈韡, 1179 – 1261), tên tự là **Tử Hoa**, người Hầu Quan, Phúc Châu , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân tiến sĩ, từng
**Trần Hàm** (chữ Hán: 陈咸, ? – ?), tên tự là **Phùng Nho**, người huyện Thiệp , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công ổn định tình hình tài
**Trần Dần** (chữ Hán: 陈寅, ? – 1227), không rõ tên tự, người huyện Thiệp , quan viên nhà Nam Tống. ## Cuộc đời Cha là Bảo Mô các đãi chế Trần Hàm. Dần hai
**Phú Bình** (chữ Hán phồn thể:富平縣, chữ Hán giản thể: 富平县) là một huyện thuộc địa cấp thị Vị Nam, tỉnh Thiểm Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 1233
**Trần Đông** (chữ Hán: 陈东, 1086 – 1127), tự Thiếu Dương, người Đan Dương, Trấn Giang , nhân vật yêu nước cuối đời Bắc Tống. Ông là người lãnh đạo phong trào vận động của
Các hướng tiến công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở đầu Chiến dịch Nguyễn Huệ **Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972** là một trong các chiến trường quan trọng trong Chiến
**Trần Văn Nam** (sinh ngày 30 tháng 8 năm 1963) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương. Ông cũng từng
**Trần Vi Dân** là Phó giáo sư, Tiến sĩ, tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam hàm Trung tướng. Ông hiện là Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an,
**Trần Quốc Nam** (sinh ngày 27 tháng 12 năm 1971) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Trần Liễu** (chữ Hán: 陳柳; 1210 - 1251), hay **An Sinh vương** (安生王) hoặc **Khâm Minh Đại vương** (欽明大王), một tông thất vương công thuộc hoàng tộc nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Trần Nhật Duật** (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu **Chiêu Văn vương** (昭文王) hay **Chiêu Văn đại vương** (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
**Chiến dịch Xuân Lộc** hay **Trận Xuân Lộc**, tên đầy đủ là **_Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch
**Đế quốc Việt Nam** (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự _Etsunan Teikoku,_ tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam thân Nhật
**Mặt trận Miến Điện 1944 - 1945** là các chiến dịch quân sự diễn ra tại Miến Điện trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ tháng 11 năm 1944 đến tháng 8 năm 1945
**Tổng cục Tình báo Quốc phòng**, gọi tắt là **Tổng cục Tình báo** hoặc** Tổng cục II**, là cơ quan tình báo chiến lược của Đảng, Nhà nước, cơ quan tình báo chuyên ngành quân
**Trần Tĩnh** (chữ Hán: 陳靖, 948 – 1025), tên tự là **Đạo Khanh**, người huyện Phủ Điền, quân Hưng Hóa , là quan viên nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông được sử
**Trần Hòa** (chữ Hán: 陈禾, ? – ?), tên tự là **Tú Thực**, người huyện Ngân, phủ Minh Châu , là quan viên cuối đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Gia nhập
**Mặt trận Miến Điện** là một loạt các trận đánh và chiến dịch diễn ra tại Miến Điện (ngày nay là Myanmar). Là một phần của Mặt trận Đông Nam Á trong Thế chiến 2,
**Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam** hay **Tổng Công đoàn Việt Nam** (, viết tắt là VGCL) là một tổ chức chính trị-xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tổng Liên đoàn
**Trần Dịch** (chữ Hán: 陈绎, ? – ?), tự **Hòa Thúc**, người Khai Phong , quan viên nhà Bắc Tống. ## Thời Tống Anh Tông Dịch đỗ tiến sĩ, được làm Quán các hiệu khám,
**Tổng cục Chính trị** là cơ quan đã kết thúc hoạt động trực thuộc Bộ Công an Việt Nam là cơ quan đầu ngành giúp Bộ trưởng quản lý, điều hành về công tác quản
**Trần Việt** (chữ Hán: 陈越, 973 – 1012), tự Tổn Chi, người huyện Úy Thị, phủ Khai Phong , quan viên, nhà thơ phái Tây Côn thể đời Bắc Tống. ## Cuộc đời Ông nội
**Trần Diễn** (chữ Hán: 陈衍, ? – ?), người phủ Khai Phong (nay thuộc Hà Nam), hoạn quan nhà Bắc Tống, bị quy kết là thành viên của đảng Nguyên Hữu và chịu tội chết.
**Tổng cục Hậu cần – Kỹ thuật ** là cơ quan cũ, đã kết thúc hoạt động trực thuộc Bộ Công an Việt Nam là cơ quan chiến lược đầu ngành tham mưu giúp Bộ
phải|Mỗi phần tử của một ma trận thường được ký hiệu bằng một biến với hai chỉ số ở dưới. Ví dụ, a2,1 biểu diễn phần tử ở hàng thứ hai và cột thứ nhất
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam** là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho Việt Nam thi đấu tại các giải đấu bóng đá quốc tế do Liên đoàn bóng đá
**Nam Định** là một tỉnh cũ nằm ở phía Nam Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2023, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam đứng thứ 13 về số dân, xếp thứ
**Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975** là sự kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) tiến vào Sài Gòn, dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa và chấm dứt
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
nhỏ|Một chiến sĩ [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang đứng dưới cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, tay cầm khẩu AK47.]] **Quân Giải phóng miền Nam Việt
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ