✨Vương Hoằng (Lưu Tống)

Vương Hoằng (Lưu Tống)

Vương Hoằng (chữ Hán: 王弘, 379 - 432), tên tự là Hưu Nguyên, người Lâm Nghi, Lang Tà , tể tướng, nhà thư pháp nổi tiếng đời Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc.

Sự nghiệp Quan trường

Đời nhà Tấn

Ông cụ là Vương Đạo, thừa tướng nhà Tấn. Ông nội là Vương Hiệp, làm Trung lĩnh quân. Cha là Vương Tuần, làm Tư đồ.

Ông từ nhỏ hiếu học, nhờ trong sạch mà nổi tiếng. Khi trưởng thành làm Phiêu kỵ chủ bộ cho Hội Kê vương Tư Mã Đạo Tử. Vương Tuần hay tích góp, cho vay mượn rất nhiều. Tuần hoăng, Hoằng đốt hết giấy nợ, không đòi lại gì, bao nhiêu gia sản, chia hết cho các em trai. Bấy giờ thiên hạ loạn lạc, ông không chịu phò tá ai cả! Hoàn Huyền hạ được Kiến Nghiệp, bắt Đạo Tử đến Đình úy, chẳng ai dám đưa tiễn, Hoằng đến viếng tang, ở bên đường đọc văn tế, vịn xe mà khóc, được người đời khen ngợi.

Lưu Dụ triệu bổ làm Trấn quân tư nghị tham quân, nhờ công được phong Hoa Dung huyện Ngũ đẳng hầu, sau đó được thăng làm Thái úy tả trưởng sử. Hoằng theo đại quân bắc chinh, tiền quân đã chiếm được Lạc Dương, mà triều đình chưa gởi Cửu tích, ông nhận lệnh quay về đòi.

Đời nhà Lưu Tống

Thời Vũ đế

Nhà Lưu Tống kiến lập, Hoằng làm Thượng thư bộc xạ, nắm quyền tuyển chọn quan lại, lĩnh Bành Thành thái thú. Tên lính Quế Hưng tư thông với người thiếp yêu của Thế tử tả vệ soái Tạ Linh Vận, Linh Vận giết Hưng, vất xác trôi sông. Ngự sử trung thừa Vương Hoài Chi bỏ qua, Hoằng tâu lên đàn hặc Linh Vận, Vũ đế cho rằng cần chỉnh đốn triều chánh nên miễn quan Linh Vận.

Sau đó được thăng làm Giang Châu thứ sử, giảm thuế má, bớt lao dịch, trăm họ được yên ổn. Năm Vĩnh Sơ đầu tiên (420), nhờ công tá mệnh, được phong Hoa Dung huyện công.

Năm thứ 3 (422) vào triều, được tiến hiệu Vệ tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư. Đế trong tiệc nói với mọi người: "Ta là kẻ áo vải, ban đầu không mong được như thế này!" Bọn Phó Lượng bàn nhau soạn từ, muốn ca tụng công đức của Đế. Hoằng đi đầu tâu rằng: "Đây là mạng trời, cầu thì không được, đẩy thì không đi." Người đời khen là giản tiện.

Thời Văn Đế

Năm Cảnh Bình thứ 2 (424) thời Thiếu đế, bọn Từ Tiện Chi mưu việc phế lập, triệu Hoằng vào triều. Văn đế tức vị, nhằm ổn định xã tắc, cho Hoằng tiến vị Tư không, phong Kiến An quận công, thực ấp 1000 hộ. Ông cố từ, Đế đồng ý, được tiến hiệu Xa kỵ đại tướng quân, Khai phủ, thứ sử như cũ. Bọn Từ Tiện Chi soán nghịch, đều phải đền tội. Hoằng vốn không phải là chủ mưu, thêm nữa em trai Vương Đàm Thủ lại là thân tín của Đế, nên sau khi bọn Tiện Chi bị giết, ông được thăng làm Thị trung, Tư đồ, Dương Châu thứ sử, Lục thượng thư sự, ban cho 30 võ sĩ. Đế tây chinh Tạ Hối, ông cùng Bành Thành vương Lưu Nghĩa Khang ở lại kinh thành, vào giữ Trung thư hạ tỉnh, được đưa cấm quân ra vào, trong phủ Tư đồ tạm đặt Tham quân.

Mùa xuân năm Nguyên Gia thứ 5 (428), có hạn hán lớn, Hoằng mượn dịp này xin từ nhiệm. Trước đó, Bình Lục lệnh Thành Sán (người Hà Nam) gởi thư khuyên ông ở ngôi cao đã lâu, nên nhường đi. Hoằng lấy làm phải, cố cầu xin, được thăng làm Vệ tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư. Năm thứ 6 (429), Hoằng dâng biểu đề nghị cho Bành Thành vương Lưu Nghĩa Khang vào triều nắm quyền chính, vì thế Nghĩa Khang thay ông làm Tư đồ, chia nhau nắm Lục Thượng thư sự. Hoằng lại từ nhiệm một lần nữa.

Năm thứ 9 (432), hoăng. Được tặng Thái bảo, Trung thư giám, ban cho Tiết, gia các bộ nhạc Vũ bảo, Cổ xuy, thêm võ sĩ cả thảy 60 người. Thụy là Văn Chiêu công, được thờ trong miếu của Vũ đế.

Tính cách

Ông hiểu biết sâu rộng, nắm rõ chính sự, dâng biểu xin giảm nhẹ hình phạt, bớt đi tội chết, nhiều người phản đối, nhưng Đế vẫn đồng ý. Hoằng lại dâng biểu cho rằng thiên hạ thái bình, xin tăng tuổi lao dịch, Đế cũng làm theo. Từng làm đến bậc tể phụ, nhưng không mưu tính tài lợi, nên sau khi ông mất, trong nhà không dư dả gì!

Hoằng khinh suất lại thiếu nghiêm túc. Đầy tớ có lần ngờ ông phạm húy của cha là Vương Tuần. Hoằng nói: "Húy của cha ta cũng như Tô Tử Cao." Tính lại hẹp hòi, ai làm trái ý, ông vạch mặt mà trách mắng, khuất nhục người ta. Thuở thiếu thời thường đánh Sư Bồ ở nhà Thành Tử Dã, về sau nắm quyền, có người đến xin Hoằng một chức tri huyện, lời lẽ thiết tha. Người này vì chơi Sư Bồ mà hay mắc tội, Hoằng vặn hỏi rằng: "Anh được tiền thì lại ăn chơi, sao có thể làm quan được?", người ấy đáp rằng: "Không nhớ đã cùng chơi với Thành Tử Dã hay sao?" Hoằng im lặng.

Vương Đàm Thủ mất, Văn đế thương tiếc không thôi, gặp Hoằng thì sụt sùi, còn sắc mặt của ông thì vẫn kiềm chế. Bành Thành vương Lưu Nghĩa Khang nói với Đế rằng: "Đàm Thủ đã là bảo vật gia đình, lại là nguyên khí quốc gia, Hoằng không tỏ thái độ gì, sao vậy?" Đế nói: "Suy nghĩ của hiền giả không thể đoán được!"

Sự nghiệp Thư pháp

Thư pháp của Hoằng sáng sủa lại còn sắc sảo, trở nên một tông phái được người đời ngưỡng mộ; những gì ông tạo ra được xem như phép tắc, cho dù là một chấm một nét, đều được người đời bắt chước, gọi là "Vương thái bảo gia pháp".

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Hoằng** (chữ Hán: 王弘, 379 - 432), tên tự là **Hưu Nguyên**, người Lâm Nghi, Lang Tà , tể tướng, nhà thư pháp nổi tiếng đời Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Lưu Tống Văn Đế** (chữ Hán: 劉宋文帝; 407–453), tên húy là **Lưu Nghĩa Long** (), tiểu tự **Xa Nhi** (車兒), là một hoàng đế của triều Lưu Tống thời Nam-Bắc triều. Ông là con trai
**Lưu Tống Minh Đế** (chữ Hán: 劉宋明帝; 439–472), tên húy là **Lưu Úc** (), tên tự **Hưu Bỉnh** (休炳), biệt danh **Vinh Kì** (榮期), là hoàng đế thứ 7 của triều Lưu Tống trong lịch
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Lưu Tống Tiền Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋前廢帝; 25 tháng 2, 449 – 1 tháng 1, 465), tên húy là **Lưu Tử Nghiệp** (劉子業), biểu tự **Pháp Sư** (法師), là Hoàng đế thứ sáu của
**(Lưu) Tống Hiếu Vũ Đế** (chữ Hán: 劉宋孝武帝; 19 tháng 9 năm 430 – 12 tháng 7 năm 464), tên húy là **Lưu Tuấn** (), tên tự là **Hưu Long** (休龍), tiểu tự **Đạo Dân**
**Lưu Thiệu** () (426–453), tên tự **Hưu Viễn** (休遠), thụy hiệu là **Nguyên Hung** (元凶, nghĩa là "đầu sỏ"), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều Lưu Tống trong
**Lưu Tống Hậu Phế Đế** (chữ Hán: 劉宋後廢帝; 463–477), tên húy là **Lưu Dục** (), tên tự **Đức Dung** (德融), pháp danh **Huệ Chấn** (慧震), là một hoàng đế của triều đại Lưu Tống trong
**Lưu Tống Thuận Đế** (chữ Hán: 劉宋順帝; 467–479), tên húy là **Lưu Chuẩn** (), tên tự **Trọng Mưu** (仲謀), biệt danh **Trí Quan** (智觀), là một hoàng đế của triều Lưu Tống trong lịch sử
**Lưu Tống Thiếu Đế** (chữ Hán: 劉宋少帝; 406–424), cũng được biết đến với tước hiệu sau khi bị phế truất là **Doanh Dương Vương** (營陽王), tên húy **Lưu Nghĩa Phù** (), biệt danh **Xa Binh**
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Lưu Sưởng** (chữ Hán: 刘昶, 436 – 497), tự **Hưu Đạo**, hoàng tử nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Sưởng lưu vong ở Bắc Ngụy đến 32 năm
**Lưu Miễn** (chữ Hán: 刘勔; 刘勉 , 418 – 474), hay **Lưu Mẫn**, tự Bá Du, người Bành Thành , tướng lãnh nhà Lưu Tống. ## Thân thế Miễn là hậu duệ của học giả
**Vương quốc Lưu Cầu** (tiếng Okinawa: _Ruuchuu-kuku_; _Ryūkyū Ōkoku_; ) là một vương quốc thống trị phần lớn quần đảo Ryukyu từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Các vua Lưu Cầu đã thống
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Hiếu Bình Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝平王皇后; 4 TCN – 23), còn gọi là **Hiếu Bình Vương hậu** (孝平王后) hoặc **Hoàng Hoàng Thất chúa** (黃皇室主), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Bình Đế
**Nhân Tông Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh **Thanh Ngộ** (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Dưới thời nhà Tống, bà
Trong lịch sử Trung Quốc, có rất nhiều hoàng hậu mang họ Vương. Danh sách dưới đây bao gồm những hoàng hậu được sách phong tại ngôi lúc sinh thời lẫn những người mang họ
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
nhỏ|SzungSu **Tống thư** (宋書) là một sách trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (_Nhị thập tứ sử_), do Thẩm Ước (沈約) (441 - 513) người nhà Lương thời Nam triều viết và biên soạn.
**Vương Hiến Nguyên** (chữ Hán: 王憲嫄; 427 – 9 tháng 10, 464), thụy hiệu **Văn Mục hoàng hậu** (文穆皇后), là hoàng hậu của Lưu Tống Hiếu Vũ Đế Lưu Tuấn, mẹ của Tiền Phế Đế
**Vương Trinh Phong** (chữ Hán: 王貞風, 436–479), thụy hiệu: **Minh Cung hoàng hậu** (明恭皇后), là hoàng hậu dưới triều Lưu Tống Minh Đế (劉宋明帝) Lưu Úc trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Vương
**Lưu Nghĩa Khang** (chữ Hán: 刘义康, 409 – 451), tên lúc nhỏ là **Xa Tử**, người Tuy Lý, Bành Thành , là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ##
Giang Hạ Văn Hiến vương **Lưu Nghĩa Cung** (chữ Hán: 刘义恭, 413 – 18 tháng 9, 465), người Tuy Lý, Bành Thành, là tể tướng, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Thiếu thời Nghĩa Cung
**Lưu Nghĩa Tuyên** (chữ Hán: 刘义宣, 413 – 454), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Nghĩa Tuyên là con
**Lưu Tổng** (chữ Hán: 劉總, bính âm: Liu Zong, ? - 2 tháng 5 năm 821), pháp hiệu **Đại Giác** (大覺), tước hiệu **Sở công** (楚公), là Tiết độ sứ Lư Long dưới thời nhà
**Lưu Đạo Liên** (chữ Hán: 刘道鄰, 368 - 21 tháng 7, 422), tức **Trường Sa Cảnh vương** (长沙景王), là một vị tướng lĩnh nhà Đông Tấn và tông thất nhà Lưu Tống, em trai của
**Vương Huyền Mô** (chữ Hán: 王玄谟, 388 – 468) là tướng lãnh nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Huyền Mô tự Ngạn Đức. Gia đình của
**Lưu Tử Huân** () (456–466), tên tự **Hiếu Đức** (孝德), là một thân vương và người tranh chấp ngôi vua triều Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã nhận được lời tuyên bố
Lâm Xuyên Khang vương **Lưu Nghĩa Khánh** (chữ Hán: 刘义庆, 403 – 444), người Tuy Lý, Bành Thành, quan viên, nhà văn, hoàng thân nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thăng tiến
Hành Dương Văn vương **Lưu Nghĩa Quý** (chữ Hán: 刘义季, 415 – 15 tháng 9, 447), người Tuy Lý, Bành Thành , là quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. Ông là người duy nhất
**Hoàng Hồi** (chữ Hán: 黃回, 427 – 478 hoặc 428 – 479) là tướng lĩnh nhà Lưu Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Văn đế Hoàng Hồi sinh ra trong 1 quân hộ
**Vương Ý** (chữ Hán: 王懿, 367 – 438) hay **Vương Trọng Đức** (王仲德) là tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế
**Lưu Tuân Khảo** (chữ Hán: 刘遵考, 392 – 473), người Tuy Lý, Bành Thành, tướng lãnh, quan viên, hoàng thân nhà Lưu Tống. ## Đời Đông Tấn Ông cụ là Lưu Thuần, làm đến Chánh
**Lưu Sở Ngọc** (chữ Hán: 劉楚玉; ? - 2 tháng 1, 466), còn được biết đến qua phong hiệu **Sơn Âm công chúa** (山陰公主), là một công chúa của triều đại Lưu Tống, con gái
**Tông Việt** (chữ Hán: 宗越, 408 – 466), người đất Diệp, quận Nam Dương, là tướng lĩnh nhà Lưu Tống thời Nam triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Binh nghiệp Tông Việt xuất thân
**Chiến tranh Nhật Bản-Lưu Cầu** là cuộc chiến do phiên Satsuma của Nhật Bản tiến hành vào năm 1609, tấn công Vương quốc Lưu Cầu. Cuộc chiến không dẫn đến nhiều thương vong vì Lưu
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế