✨Tam quốc diễn nghĩa

Tam quốc diễn nghĩa

Tam quốc diễn nghĩa (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: sān guó yǎn yì), nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử Trung Quốc được nhà văn La Quán Trung viết vào thế kỷ 14. Tiểu thuyết có nội dung kể về một thời kỳ hỗn loạn trong lịch sử Trung Hoa là giai đoạn cuối thời Đông Hán và sau đó là Tam Quốc (184–280). Tam quốc diễn nghĩa có tổng cộng 120 chương hồi, được kể theo phương pháp bảy phần thực, ba phần hư (七分實事, 三分虛構 - 7 phần thực tế, 3 phần hư cấu). Tiểu thuyết này được xem là một tác phẩm văn học kinh điển, và là một trong Tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc.

Nguồn gốc

thumb|left|Trang bìa của một bản Tam quốc diễn nghĩa được in vào năm [[1591.]] Tam quốc diễn nghĩa về phương diện biên soạn chủ yếu là công lao của La Quán Trung, nhưng thực ra bộ tiểu thuyết này trước sau đã trải qua một quá trình tập thể sáng tác lâu dài của rất nhiều người.

  • Trước La Quán Trung, từ lâu, chuyện Tam quốc đã lưu hành rộng rãi trong dân gian truyền miệng, các nghệ nhân kể chuyện, các nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch, đều không ngừng sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng các nhân vật phong phú thêm. Từ đầu thời Nguyên, các câu chuyện Tam quốc đã được thu thập thành một cốt truyện hoàn chỉnh có đầu có cuối, gọi là Tam quốc chí bình thoại.
  • Cuối đời Nguyên đầu đời Minh, nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã viết bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa chính là đã dựa trên cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của nhân dân quần chúng. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác (Tam quốc chí của Trần Thọ, Tam quốc chí chú của Bùi Tùng Chi), nhưng quan trọng hơn là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông và tài năng văn học kiệt xuất của ông.
  • Một trong những bản Tam quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện nay còn giữ được là bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị đời Minh (1494) và năm Nhâm Ngọ thời Gia Tĩnh (1522) gồm có 24 cuốn 240 tiết. Từ đó về sau (gần 300 năm), nhiều bản Tam quốc đã lưu hành, nhưng nội dung đều không có gì khác nhau lắm.

Truyện Tam quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của đời nhà Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:

Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình tiết "quá ư hoang đường".

Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú thêm rất nhiều, tô vẽ tính cách và hình tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.

Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.

Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về nước Thục và chống lại nước Ngụy trong toàn cuốn sách.

Nói tóm lại, La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong truyện Tam quốc mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân kể chuyện đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn học lớn lao nổi tiếng.

  • Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luân, Mao Tôn Cương (người Tràng Châu tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam quốc. Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ 18 (1679).
  • Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết nhỏ, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng hoặc những chỗ chưa thỏa đáng. Ông đã tước bỏ rất nhiều những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần, v.v... và thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho bộ Tam quốc cái tên là "cuốn sách đệ nhất tài tử". Làm cho truyện càng hoàn chỉnh, văn kể trong sáng, gọt giũa, trên một mức độ nào đó cũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả. Từ đó bản của Mao Tôn Cương thay bản của La Quán Trung, tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.
  • Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã chỉnh lý lại nhiều, bằng cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính rất kỹ từng câu, từng chữ, từng tên riêng có đối chiếu với bản của La Quán Trung rồi sửa chữa lại những chỗ mà bản của Mao Tôn Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên bản của La Quán Trung, nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn Cương. Còn những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất, tên triều đại... nếu cả hai bản trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử sách. Nên các lần in sau hầu hết đều lấy theo bản in này.

Cốt truyện

Một trong những thành công lớn nhất của Tam quốc diễn nghĩa là tính chất quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật. Do vậy mà phần sau đây chỉ cố gắng tóm tắt hết sức sơ lược toàn bộ truyện theo những nét chính yếu mà không đi vào chi tiết nhân vật và sự kiện:

Nhà Đông Hán suy yếu

thumb|left|Một hình minh họa cảnh Kết nghĩa vườn đào của bản Tam quốc diễn nghĩa được in vào thời [[nhà Minh năm 1591, thuộc bộ sưu tập của Đại học Bắc Kinh.]] Truyện lấy bối cảnh vào thời kỳ suy vi của nhà Đông Hán khi những hoàng đế cuối cùng của triều đại này chỉ lo ăn chơi sa đọa mà không quan tâm đến chính sự, bên cạnh việc quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều chính ngày càng suy đồi, hủ bại, khiến kinh tế, xã hội khủng hoảng và đời sống người dân trở nên cơ cực. Đến đời Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu. Sau đó là cuộc hội ngộ giữa ba nhân vật Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, cả ba người đều muốn dẹp loạn yên dân nên đã kết nghĩa huynh đệ với nhau ở vườn đào.

Hà Tiến huy động quân đội các trấn chẳng mấy chốc dập tắt được cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng. Nhờ là anh rể vua, ông được nhậm chức đại tướng quân của triều đình. Sau khi Hán Linh Đế mất, Hà Tiến lập con trưởng của vua là Hán Thiếu Đế lên kế vị. Lúc đó ông có mâu thuẫn với bọn hoạn quan Thập thường thị nên muốn trừ bỏ bọn chúng. Thủ hạ của Hà Tiến là Viên Thiệu khuyên ông kêu gọi quân các trấn trên cả nước vào kinh đô Lạc Dương diệt hoạn quan, Tiến nghe theo ngay. Khi mà mưu đồ diệt hoạn quan của Hà Tiến chưa thành thì ông lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung Trường Lạc và giết chết. Ngay sau đó các đại thần do Viên Thiệu, Tào Tháo cầm đầu đem quân vào cung giết sạch đám hoạn quan này.

Trong số các quan lại nhận lệnh Hà Tiến vào kinh diệt hoạn quan có cả gian thần Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội cả Hà Tiến và đám hoạn quan đều đã chết, liền tiến vào Lạc Dương làm loạn triều đình. Ông ta phế truất Hán Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm hoàng đế, rồi tự phong mình làm tướng quốc, thâu tóm triều chính. Chỉ mỗi thứ sử Tinh Châu Đinh Nguyên là dám phản đối sự lộng quyền của Trác, nhưng Trác không thể hại được ông do Đinh Nguyên có người con nuôi là Lã Bố rất dũng mãnh, hộ vệ. Tuy nhiên, Đổng Trác dùng kế mua chuộc Lã Bố, sai Lý Túc đem tặng cho Lã Bố vàng bạc và con ngựa Xích Thố của mình. Lã Bố nổi lòng tham, làm phản giết Đinh Nguyên ngay trong đêm hôm đó để quay sang quy phục Đổng Trác.

Cái chết của Đổng Trác và sự nổi dậy của Lý Thôi-Quách Dĩ

thumb|Hình ảnh Tam anh chiến Lã Bố được khắc họa trên một bức tranh hành lang dài ở [[Di hòa viên, mô tả cảnh một mình Lã Bố chiến đấu với ba anh em Lưu Bị.]] Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến các chư hầu vô cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu để cùng diệt Đổng Trác. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi cũng đi theo liên quân diệt gian tặc. Lã Bố thường xuyên được Đổng Trác sai đi trấn áp chư hầu, từng một mình giao chiến với cả ba anh em Lưu Bị, nhưng liên tục thất bại. Sau nhiều chiến thắng liên tiếp, liên quân Viên Thiệu tiến thẳng đến Lạc Dương. Đổng Trác hoảng sợ, liền bắt vua Hán dời đô về Trường An lánh nạn.

Trong thời kì Đổng Trác nắm quyền, vẫn còn nhiều trung thần như Vương Doãn luôn tìm cách diệt trừ hắn. Một lần, Vương Doãn đã sử dụng liên hoàn kế, ban đầu hứa gả con gái Điêu Thuyền cho Lã Bố, nhưng sau đó lại dâng cho Đổng Trác, khiến Lã Bố tức giận chất vấn Vương Doãn. Vương Doãn nói thác rằng Trác muốn giữ Điêu Thuyền trước để chọn ngày tốt mà gả lại cho Bố, nhưng sau đó Bố thấy Trác ăn ngủ với Điêu Thuyền như vợ chồng thì vô cùng tức giận. Có lần Lã Bố nhân lúc Đổng Trác đang cùng vua bàn chính sự, lén tới đình Phượng Nghi để gặp Điêu Thuyền. Điêu Thuyền nghe lời Vương Doãn, đã nói khích vài câu để ly gián Đổng Trác với Lã Bố. Khi Đổng Trác về điện, thấy Lã Bố đang ôm Điêu Thuyền, nổi giận ném long kích vào Lã Bố nhưng ông đã may mắn tránh được. Từ đó, Lã Bố hận thù Đổng Trác, Vương Doãn thấy vậy liền nói khích ông nhiều hơn, khiến Lã Bố càng quyết tâm giết Đổng Trác để trả thù. Cả hai đã bày mưu lừa Đổng Trác vào kinh thành để rồi đích thân Lã Bố vác họa kích lao đến đâm chết ông.

Không lâu sau khi Đổng Trác bị giết chết, các thuộc hạ của hắn là Lý Thôi và Quách Dĩ đem quân Tây Lương nổi dậy làm loạn, lấy cớ báo thù cho chủ sau khi bọn chúng không được Vương Doãn ân xá. Lã Bố chống cự không nổi bèn bỏ thành mà chạy. Chẳng bao lâu sau, bọn Thôi, Dĩ chiếm được Trường An, giết được Vương Doãn, rồi nắm vua Hiến Đế thay Đổng Trác. Một số triều thần nhà Hán không chịu nổi sự lộng hành của chúng, bèn bí mật liên kết với chư hầu ở Tây Lương là Mã Đằng, Hàn Toại, âm mưu đem quân vào Trường An giúp vua Hán tiêu diệt bọn Lý Thôi, nhưng thất bại nặng nề. Cả hai may mắn chạy thoát nạn.

Liên minh chư hầu tan rã

trái|Lã Bố biểu diễn bắn kích viên môn cứu Lưu Bị, ảnh minh họa đời [[nhà Thanh.]] Trong lúc đó, các chư hầu trong liên quân chống Đổng Trác như Tào Tháo và Viên Thiệu lại lục đục với nhau. Tôn Kiên, cha của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ truyền quốc rồi bỏ trốn về Giang Đông. Viên Thiệu nghi ngờ, lệnh cho thái thú Lưu Biểu ở Kinh Châu đem quân đánh úp Tôn Kiên để đòi lại ngọc tỉ. Từ đó Tôn Kiên hận thù Lưu Biểu, không lâu sau dẫn quân đánh Kinh Châu báo thù nhưng bị Lưu Biểu đánh bại, bản thân ông cũng bị tử trận. Con của Tôn Kiên là Tôn Sách đem ngọc tỷ chạy sang Hoài Nam nương nhờ Viên Thuật. Lúc đó liên quân chống Đổng Trác đã bị tan rã, các chư hầu quay về địa phương của mình và bắt đầu giao chiến với nhau. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực lượng riêng.

Viên Thiệu lúc mới khởi sự địa bàn rất nhỏ. Có lúc lương thực cạn kiệt, Thiệu phải mượn lương của chư hầu Hàn Phức ở Ký Châu. Mưu sĩ Phùng Kỷ liền bày mưu cho Viên Thiệu một mặt dụ Công Tôn Toản cùng Thiệu đánh Ký châu rồi hai bên chia đất, mặt khác báo tin này cho Hàn Phức, khiến ông ta hoảng sợ. Sau khi nghe lời dụ của Viên Thiệu, Hàn Phức liền dâng Ký châu cho Thiệu nhằm bảo vệ Ký châu khỏi sự xâm phạm của Công Tôn Toản. Nhờ đó, Viên Thiệu lấy được Ký châu mà không tốn binh lực. Công Tôn Toản biết mình bị Viên Thiệu lừa gạt, lập tức cất quân báo thù, kết quả là thảm bại. Từ đó cả Viên Thiệu và Công Tôn Toản bắt đầu nảy sinh hận thù và liên tục đánh nhau.

Tào Tháo cho đón cha mình đang lánh nạn ở xa tới căn cứ của mình, có đi qua nghỉ đêm ở Từ Châu. Thứ sử Từ Châu là Đào Khiêm lệnh cho bộ tướng Trương Khải tiếp tục hộ tống ông ta về chỗ Tào Tháo. Nhưng Trương Khải thấy cha Tào Tháo mang nhiều vàng bạc của cải nên nổi lòng tham, đã giết ông ta trong đêm để cướp sạch. Tào Tháo nghe tin thì vô cùng tức giận, đem đại quân đánh Từ Châu báo thù. Quân đội của Đào Khiêm yếu thế, phải liên thủ với Lưu Bị lúc đó đang theo Công Tôn Toản, mới đẩy lui được quân Tào. Sau đó, Đào Khiêm ốm chết, Lưu Bị thay Đào Khiêm cai quản Từ châu.

Sau khi bị Lý Thôi và Quách Dĩ đánh đuổi khỏi Trường An, Lã Bố phiêu bạt qua nhiều nơi và nương tựa các chư hầu khác nhau. Sau này, Lã Bố thấy Tào Tháo mải đánh Từ châu mà lơi lỏng phòng bị, nên đã tập hợp quân đội cùng các thuộc hạ như Cao Thuận, Trương Liêu, Tang Bá đánh chiếm địa bàn Duyện Châu. Lã Bố cũng thu phục được mưu sĩ Trần Cung, người vốn muốn theo Tào Tháo nhưng bất mãn trước việc ông ta tàn sát dân Từ Châu khi đánh Đào Khiêm. Với tài túc trí đa mưu, Trần Cung giúp Lã Bố đánh thắng Tào Tháo ở trận Bộc Dương, thậm chí suýt bắt sống được ông. Tuy nhiên, Lã Bố sau đó đã trúng kế của Tào Tháo nên thất bại trong việc giữ địa bàn, cùng đường đành phải nương nhờ anh em Lưu Bị ở Từ Châu, nhưng phải tạm đóng quân ở quận Tiểu Bái. Tận dụng sự lơ là của Trương Phi khi được Lưu Bị tạm giao việc giữ Từ Châu, Lã Bố bất ngờ đánh úp Từ Châu. Để chuộc lỗi với Lưu Bị, Lã Bố vẫn cho ông ta đóng quân ở Tiểu Bái, nói thác là do Trương Phi nóng nảy dễ hỏng việc nên chỉ muốn thay Phi giữ Từ Châu. Khi Viên Thuật vây đánh căn cứ Tiểu Bái của Lưu Bị, Lã Bố đã bắn kích viên môn cứu ông, buộc Viên Thuật phải giải vây rút về. Tuy nhiên, Lã Bố sau đó lại trở mặt đánh Lưu Bị và chiếm được Tiểu Bái, buộc Lưu Bị phải dẫn quân về hàng Tào Tháo.

Viên Thuật xưng đế

Lúc này ở Hoài Nam, Tôn Sách không muốn đứng dưới trướng Viên Thuật nữa, cùng Trương Chiêu và các thuộc hạ thân tín ra sức tự lập. Tôn Sách lấy cớ đi đánh chư hầu Dương châu Lưu Do để bảo vệ gia quyến, đồng thời để ngọc tỷ lại làm tin. Viên Thuật chấp thuận. Sau khi đánh bại được Lưu Do ở Dương châu, Tôn Sách thừa thắng chinh phục Ngô quận và Cối Kê, đánh bại được các chư hầu Nghiêm Bạch Hổ và Vương Lãng. Nhờ đó Sách chính thức làm chủ Giang Đông, li khai với Viên Thuật và gửi thư yêu cầu ông ta trả lại ngọc tỉ. Viên Thuật thấy Tôn Sách làm phản mình thì vô cùng giận dữ, nên không chịu trả ngọc tỉ. Có ngọc tỉ truyền quốc, Viên Thuật đã tự xưng đế không lâu sau đó, dù nhà Hán vẫn còn. Hành động này của Thuật bị Tào Tháo và các chư hầu xem là tội phản nghịch, nên họ đã cùng liên minh với nhau để đánh ông.

Để đối phó với các chư hầu, Viên Thuật muốn liên minh với Lã Bố, thậm chí cho sứ giả đến xin kết nghĩa thông gia. Nhưng Lã Bố đã khước từ yêu cầu này, quyết định đi theo liên minh các chư hầu để thảo phạt Viên Thuật. Viên Thuật thua to nhiều trận liền, lực lượng trở nên suy yếu, đành phải an phận ở Hoài Nam để cố thủ.

Tào Tháo nắm thiên tử

nhỏ|phải|Minh họa [[Tào Tháo, nhân vật phản diện chính trong Tam quốc diễn nghĩa, ảnh minh họa vào thời nhà Thanh.]] Lúc đó ở Trường An, các đại thần triều đình thấy bọn Thôi, Dĩ chuyên quyền, đã bày mưu với vua Hán để li gián bọn chúng, buộc Lý Thôi và Quách Dĩ nảy sinh mâu thuẫn và trở mặt đánh lẫn nhau. Nhân lúc bọn chúng tiêu diệt nhau, các quần thần bí mật hộ tống thiên tử về Lạc Dương để thoát khỏi bọn chúng. Lý Thôi và Quách Dĩ nghe tin phải giảng hòa rồi đem quân đuổi theo cướp giá. Các bộ tướng triều đình như Đổng Thừa, Dương Phụng, Từ Hoảng nhiều lần giúp vua đẩy lui được bọn chúng nhưng binh lực cứ hao hụt dần. Hán Hiến Đế đành triệu Tào Tháo đem quân đến cứu giá, cả Lý Thôi và Quách Dĩ đều bị Tào Tháo đánh bại. Cuối cùng, Tào Tháo nắm được vua Hán, dời đô về Hứa Xương, có thể dùng lệnh thiên tử để hiệu triệu chư hầu.

Tào Tháo lấy danh nghĩa của thiên tử, yêu cầu Lã Bố để Lưu Bị trở lại đóng quân ở Tiểu Bái, hai bên không được xâm phạm nhau. Tuy nhiên, Lã Bố về sau nhận ra hai bên Tào-Lưu đang cùng âm mưu đánh mình nên rất tức giận, liền đem quân đánh chiếm Tiểu Bái lần nữa, buộc Lưu Bị phải bỏ thành mà chạy. Tào Tháo thấy vậy bèn lấy danh nghĩa giúp Lưu Bị, đem đại quân đánh Lã Bố. Lã Bố thua trận liên tiếp, cả Tiêu Quan, Tiểu Bái và cả Từ Châu đều thất thủ, cuối cùng bị vây khốn ở Hạ Bì, cùng đường đành xin kết nghĩa thông gia với Viên Thuật để được ông ta gửi quân chi viện. Viên Thuật không tin ông, đòi Lã Bố phải đem con gái mình qua Hoài Nam trước rồi mới xuất binh. Do bị quân Tào vây chặt thành, kế hoạch này đã thất bại. Lã Bố sau đó bị các thủ hạ làm phản, trói lại nộp cho Tào Tháo và cuối cùng bị xử tử. Tuy lấy được Từ Châu, Tào Tháo đã không trao lại châu này cho Lưu Bị như đã hứa, mà quyết định giữ ông ta ở lại Hứa Xương để dễ bề kiểm soát.

Viên Thuật tuy không cứu Lã Bố, nhưng khi thấy thế lực của Tào Tháo ngày càng lớn mạnh, ông muốn đem ngọc tỷ và ngôi vua sang trao cho anh là Viên Thiệu ở Ký Châu để cùng liên minh chống Tào. Tào Tháo sai Lưu Bị đem quân chặn đánh Viên Thuật ở Từ Châu khi ông ta đang trên đường sang chỗ Viên Thiệu. Quân Viên Thuật thua to phải rút về Hoài Nam. Trên đường rút quân, quân của Viên Thuật hết lương không còn gạo để ăn, sĩ tốt bỏ trốn gần hết, khiến ông tuyệt vọng mà qua đời. Thế lực của ông sau đó nhanh chóng bị Tào Tháo thôn tính. Tào Tháo cũng tịch thu được ngọc tỷ của Viên Thuật.

Khi Tào Tháo nắm vua Hán, trở nên lộng quyền ngang ngược, khi quân phạm thượng. Hán Hiến Đế không cam chịu thân phận đó, lập tức viết một mật chiếu cho Đổng Thừa, khuyên Thừa trừ giặc. Đổng Thừa lập ra hội Nghĩa trạng, tức là hội chống Tào Tháo. Ít lâu sau có bảy người tham dự, trong đó có Mã Đằng và Lưu Bị. Về sau, Mã Đằng về Tây Lương, Lưu Bị về Từ Châu, Đổng Thừa giận họ nên phát bệnh. Khi chữa bệnh cho Đổng Thừa, thái y Cát Bình phát hiện Thừa muốn diệt Tào Tháo, xin tham gia vào Nghĩa trạng. Nhưng ngay sau đó kế hoạch đã bị bại lộ khi người đầy tớ của Đổng Thừa, do bị chủ trách phạt nên oán giận, bí mật tố giác vụ hội Nghĩa trạng cho Tào Tháo biết. Tào Tháo bèn cho bắt Cát Bình đem tra tấn để lấy lời khai nhưng Cát Bình đã tự sát. Sau một hồi điều tra, vụ việc đã bị phát hiện, và cả năm người bọn Đổng Thừa đều bị Tào Tháo tru di.

Lưu Bị sau khi tiêu diệt Viên Thuật đã không thu quân về Hứa Xương theo lệnh của Tào Tháo mà giết thái thú Từ Châu là Xa Trụ và đóng quân tại đây để ngầm củng cố thế lực, dù chưa chính thức li khai. Tào Tháo nghi ngờ, đã sai người đem quân tới Từ Châu giám sát Lưu Bị nhưng bị ông bức đuổi về. Biết Lưu Bị nằm trong hội Nghĩa trạng nên ngay sau khi trừ Đổng Thừa, Tào Tháo dẫn quân đánh Từ Châu, Lưu Bị không chống cự nổi phải chạy sang Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam còn Quan Vũ do cùng đường nên phải tạm hàng Tào Tháo. Tào Tháo rất mến mộ tài đức của Quan Vũ nên tìm mọi cách thu phục ông. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Lưu Bị đang ở Hà Bắc cùng Viên Thiệu, Quan Vũ đã từ chối tiếp tục phụng sự Tào Tháo, tự mình cưỡi ngựa "qua năm ải chém sáu tướng" để về với Lưu Bị. Trên đường đến Hà Bắc, Quan Vũ gặp lại Trương Phi khi đó đang lánh ở Nhữ Nam. Khi đó Lưu Bị cũng muốn rời bỏ Viên Thiệu, bèn lấy cớ đi Kinh Châu để thương thuyết với Lưu Biểu rồi trốn đi hẳn, nên cuối cùng cả ba anh em huynh đệ đã hội ngộ trở lại ở Cổ Thành.

Chiến tranh Viên-Tào

Viên Thiệu sau khi tiêu diệt được kẻ thù phía bắc của mình là Công Tôn Toản đã kiểm soát được bốn châu lớn ở Hà Bắc, trở thành một thế lực quân phiệt hùng mạnh mà ngay cả Tào Tháo cũng phải e ngại. Do đó Lưu Bị sau khi li khai Tào Tháo ban đầu đã quyết định sang Ký Châu với Viên Thiệu để cùng đánh Tào, song do sớm nhận thấy Viên Thiệu không có khả năng bình định thiên hạ nên ông đành bỏ đi. Và trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, Tào Tháo với chiến thuật "lấy ít địch nhiều" cùng tài mưu lược của mình, đã giành được thắng lợi ban đầu ở trận Bạch Mã - Diên Tân và chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ. Nỗ lực báo thù của Viên Thiệu sau đó đã bị phá sản hoàn toàn khi ông lại để thua tiếp một trận đánh lớn khác với Tào Tháo ở Thương Đình nên từ đó sức khỏe bắt đầu suy sụp, lực lượng cũng trở nên kiệt quệ.

Sau khi Viên Thiệu qua đời, do Thiệu bỏ con trưởng Viên Đàm để lập con út Viên Thượng lên kế vị, các con của ông đã nảy sinh mâu thuẫn rồi dấy binh đánh lẫn nhau. Tào Tháo thừa cơ hội anh em họ Viên cắn xé lẫn nhau, đem quân chiếm được cả bốn châu Hà Bắc, buộc hai anh em Viên Thượng và Viên Hy phải chạy sang Liêu Đông nương nhờ thái thú Công Tôn Khang. Tào Tháo quyết định không đem quân truy kích, khiến Công Tôn Khang quyết định giết hai anh em Viên Thượng và Viên Hy để giữ quan hệ tốt với ông. Thất bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc.

Lưu Bị kháng Tào

thumb|[[Lưu Bị chiêu mộ Gia Cát Lượng, trong Ba lần đến thăm túp lều tranh, tác phẩm được vẽ vào thời nhà Minh.]] Cũng trong thời gian này, Lưu Bị lập được căn cứ mới ở Nhữ Nam để chống Tào Tháo. Ban đầu ông tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại nặng nề, bèn tới Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của mình cho lánh nạn. Lưu Bị được Lưu Biểu cho đóng quân ở quận Tân Dã để đề phòng Tào Tháo, tại đó ông đã thu phục được mưu sĩ Từ Thứ. Từ Thứ với tài mưu lược của mình, ông đã giúp Lưu Bị thắng quân Tào nhiều trận. Nhưng Tào Tháo lập mưu bắt mẹ của Từ Thứ, buộc Từ Thứ phải theo mình. Trước khi buộc phải rời bỏ Lưu Bị, Từ Thứ tiến cử Gia Cát Lượng với Lưu Bị. Sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, Lưu Bị đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần đầu tiên, Gia Cát Lượng lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá.

Không lâu sau Lưu Biểu mất, để lại di chúc trao Kinh Châu cho con trưởng là Lưu Kỳ. Nội bộ Kinh Châu bắt đầu lục đục khi bộ tướng của Lưu Biểu là Sái Mạo đưa con thứ Lưu Tông lên làm chúa rồi định giết Lưu Kỳ để trừ họa, nhưng Lưu Kỳ đã chủ động trốn về Giang Hạ. Tào Tháo biết tin Kinh Châu đang có biến loạn, lập tức cho quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị nhận thấy binh mã ở Tân Dã không đủ khả năng chống Tào nên muốn tạm rút lui. Do được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị quân Tào xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của Lưu Tông, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏), là thành của Lưu Kỳ, do bị Sái Mạo hãm hại nên bỏ trốn đến đây. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ dung thân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo. Tào Tháo sai người đưa thư tới Tương Dương chiêu hàng Lưu Tông. Lưu Tông đồng ý, dẫn tùy tùng ra đầu hàng, chủ động nộp hết chín quận Kinh Châu cho Tào Tháo.

Trận Xích Bích

thumb|Khu vực đánh dấu được cho là nơi đã diễn ra [[trận Xích Bích.]] Còn ở Giang Đông, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết bất ngờ của người anh Tôn Sách. Sau khi chiếm Kinh Châu mà không tốn binh lực, Tào Tháo tiếp tục huy động đại quân sang phía đông nam, chuẩn bị thảo phạt Tôn Quyền. Tháo ban đầu cho người sang Giang Đông dụ hàng, tuy nhiên Gia Cát Lượng đã tự mình đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết phục được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị để kháng Tào. Các bề tôi của Tôn Quyền chia thành hai phe là chủ hàng và chủ chiến. Đứng đầu phe chủ hàng là Trương Chiêu, đứng đầu phe chủ chiến là Chu Du. Tôn Quyền nghe theo Chu Du, quyết liên minh với Lưu Bị để đánh Tào Tháo. Mùa đông năm 208, Tào Tháo dẫn đại quân hơn tám mươi vạn người tiến xuống Giang Đông tiêu diệt Tôn Quyền để thống nhất Trung Hoa. Biết quân Tào không giỏi thủy chiến lại dễ bị say sóng, Chu Du và Gia Cát Lượng đã lệnh cho mưu sĩ Bàng Thống đến trại Tào bày liên hoàn kế, dụ Tào Tháo cho nối các thuyền chiến lại với nhau để dễ bày binh bố trận. Chu Du tận dụng cơ hội này để dùng hỏa công kháng Tào, đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích.

Thế chân vạc hình thành

Sau khi thua trận Xích Bích, lực lượng của Tào Tháo về cơ bản không còn trội hơn so với Lưu Bị và Tôn Quyền như trước nữa. Thế chân vạc dần hình thành từ đây.

Do trước đó đã chiếm được Kinh Châu, Tào Tháo đã giao ba quận lớn của châu này là Nam Quận, Tương Dương và Hợp Phì lần lượt cho Tào Nhân, Hạ Hầu Đôn và Trương Liêu coi giữ. Liên minh Tôn-Lưu thừa thắng trận Xích Bích, cùng nhau đánh chiếm những vùng đất này, nhưng Lưu Bị đã chiếm ưu thế nhờ tài mưu lược của Gia Cát Lượng. Chu Du dẫn quân chiếm Nam Quận, đánh bật được Tào Nhân nhưng Nam Quận đã bị tướng của Lưu Bị là Triệu Vân chiếm mất trước đó, và Tương Dương sau đó cũng bị Quan Vũ thừa cơ chiếm trước. Trong khi đó, Tôn Quyền dẫn quân đánh trận Hợp Phì thì bị Trương Liêu đánh bại.

Để lấy Kinh Châu mà không phải cất quân, Chu Du chỉ cho Lưu Bị "mượn Kinh Châu" và khi Lưu Kỳ (con trưởng Lưu Biểu) chết thì phải trả, do Lưu Kỳ trên danh nghĩa vẫn đang kế thừa Lưu Biểu ở Kinh Châu. Tuy nhiên, Lưu Kỳ mất sớm, Chu Du lại sai Lỗ Túc đến đòi. Một lần nữa Gia Cát Lượng lại dùng mưu mẹo để trì hoãn vấn đề này khi nói rằng muốn mượn Kinh Châu cho đến khi Lưu Bị đánh chiếm được đất Tây Xuyên của Lưu Chương, nếu không sẽ không có chỗ dung thân. Vì thế Chu Du rất tức giận và thề sẽ tìm kế trả đũa Gia Cát Lượng.

Với ý định loại trừ Lưu Bị, Chu Du bày mưu cho Tôn Quyền gả em gái mình cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ mình là Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do tài mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới. Chu Du liền dùng cách khác đánh Kinh Châu khi chủ động sửa soạn binh mã rồi mượn tiếng đánh Tây Xuyên giúp Lưu Bị nhưng thực ra là muốn chiếm Kinh Châu để Lưu Bị chủ quan không phòng bị, nhưng mưu kế này cuối cùng vẫn thất bại bởi những kế sách đúng đắn của Gia Cát Lượng. Thất vọng, Chu Du buồn bã về Sài Tang rồi quá uất ức mà qua đời.

Tào Tháo sau khi nam chinh thất bại đã tiêu diệt chư hầu Hàn Toại, Mã Đằng và đánh bại con Mã Đằng là Mã Siêu ở Tây Lương, trước khi bình định Trương Lỗ ở Hán Trung, nhưng vẫn không thể thống nhất Trung Hoa. Về sau Mã Siêu quay lại đánh Tào Tháo ở trận Ký Thành để báo thù nhưng vẫn thất bại nặng nề, phải liều chết phá vây để chạy thoát. Mã Siêu ban đầu phiêu bạt qua Trương Lỗ, sau này do nghe lời dụ hàng của Lưu Bị mà Mã Siêu mới về theo Lưu Bị.

Trong thời gian đó, Lưu Bị cũng dẫn quân Tây chinh đánh Lưu Chương, chiếm được Thành Đô (Ích Châu). Tuy nhiên đó là một cuộc chiến không mấy dễ dàng vì dù thắng trận nhưng quân đội Lưu Bị chịu nhiều tổn thất, đặc biệt cái chết trong đám loạn tiễn của mưu sĩ Bàng Thống ở gò Lạc Phượng. Một thời gian sau Lưu Bị nhận ra cơ hội chinh phục Trung Nguyên đã đến, liền sai hai tướng Hoàng Trung và Triệu Vân đánh vào đất Hán Trung của Tào Tháo, giết được tướng Tào là Hạ Hầu Uyên. Tào Tháo tức giận đem quân đến báo thù nhưng lại thất bại nặng nề phải rút về Nghiệp Thành. Sau chiến thắng này, Lưu Bị lên ngôi Hán Trung vương.

Cái chết của Quan Vũ

thumb|Hai con rối bóng mô tả [[Quan Vũ và Trương Phi, tại bảo tàng tỉnh Tứ Xuyên ở Thành Đô.]] Khi Lưu Bị đang đánh Hán Trung thì Quan Vũ (lúc đó đang được Lưu Bị giao việc giữ Kinh Châu) cũng đem quân đánh hai quận Tương Dương và Phàn Thành. Tướng giữ Phàn Thành là Tào Nhân thua trận liên tiếp. Tào Tháo phải sai Vu Cấm và Bàng Đức đem quân đi cứu viện. Quan Vũ đánh thắng cả đại quân cứu viện, Vu Cấm bị bắt sống, Bàng Đức không hàng bị chém, còn Tào Nhân bị Quan Vũ vây chặt ở Phàn Thành. Tào Tháo thấy tình hình nguy khốn đành phải nhân lúc Tôn Quyền đang muốn chiếm Kinh Châu, để liên minh với Đông Ngô cùng đánh Quan Vũ. Tháo sai Từ Hoảng đem quân đến chi viện cho Phàn Thành để dụ Quan Vũ đem quân ở Kinh Châu ra đánh. Do Tôn Quyền trước đó đã giả vờ cách chức Lã Mông để cho Lục Tốn, lúc đó còn là một vị tướng trẻ ít danh tiếng, lên làm đô đốc nước Ngô; Quan Vũ chủ quan khinh địch, liền dồn hết binh lực ở Kinh Châu tới đánh Từ Hoảng, khiến thành Kinh Châu gần như bỏ không. Tôn Quyền thừa cơ sai Lã Mông đem quân đánh úp Kinh Châu. Quan Vũ nghe tin đó thì hoảng hốt, đem quân từ Phàn Thành về định chiếm lại Kinh Châu thì thất bại và bị quân Ngô vây chặt ở Mạch Thành. Quan Vũ cùng đường phải sai sứ sang Thượng Dung yêu cầu hai bộ tướng khác của Lưu Bị là Mạnh Đạt và Lưu Phong đem quân tới cứu viện nhưng họ không đồng ý. Nỗ lực phá vây của Quan Vũ cũng không thành, ông cuối cùng đã bị Tôn Quyền bắt giết.

Ba nước cùng xưng đế

thumb|Một bức tranh vẽ [[Gia Cát Lượng, một nhân vật nổi bật trong Tam quốc diễn nghĩa.]] Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết vào năm 220, có lẽ do bị u não. Năm đó, con trưởng của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô Thục). Trước khi lên ngôi, Lưu Bị cũng tập trung diệt trừ Lưu Phong và Mạnh Đạt vì trước đó họ đã không cứu Quan Vũ. Lưu Phong bị giết nhưng Mạnh Đạt thì chạy thoát và đầu hàng Tào Phi.

Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông chịu để Tào Phi phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Thục do Lưu Bị đã quyết tâm đông tiến đánh Ngô. Vì báo thù cho Quan Vũ, Tiên chủ Lưu Bị khởi binh phạt Ngô, cất 75 vạn đại quân tiến về phía đông đến Di Lăng. Ban đầu, quân Thục thắng liên tiếp nhiều trận, quân Ngô bại liên tục. Trong quá trình giao tranh, do thời tiết oi bức, Lưu Bị cho toàn quân hạ trại trong rừng để tránh nắng. Đô đốc Lục Tốn (陆逊) phía Ngô đã thừa cơ đó, ngay trong đêm dùng hỏa công thiêu cháy khu rừng nơi quân Thục hạ trại, khiến Lưu Bị đại bại trong trận Di Lăng, tướng sĩ chết vô số kể. Lục Tốn ban đầu định thừa thắng tấn công về phía nước Thục, nhưng sau khi phát hiện kế dụ địch của Gia Cát Lượng đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào quyết tâm đánh Thục của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng quân Ngô vẫn còn ở ngoài địa phận. Cuộc tấn công này đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát bên phía quân Ngụy. Những chiến thắng liên tiếp trước Thục và Ngụy đã giúp thanh thế của Đông Ngô ngày càng lớn mạnh, tạo điều kiện để Tôn Quyền quyết định xưng đế.

Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị sau khi thua trận Di Lăng đã quá u uất mà qua đời, để lại con trai Lưu Thiện còn nhỏ dại. Trương Phi đã chết trước đó nên Lưu Bị đành phó thác Lưu Thiện cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết phục được Tôn Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số.

Một trong những mưu lược tài ba của Gia Cát Lượng trong thời gian này là tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch trong các cuộc trấn áp bộ tộc này, nhưng lần nào cũng cho thả ông ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên sau đó đã thề mãi mãi gắn bó với nhà Thục.

Trong lúc này, Tào Phi cũng bất ngờ lâm bệnh mà chết, các vua Ngụy về sau dần mất thực quyền vào tay họ Tư Mã. Gia Cát Lượng do đó liền nhìn về phía bắc. Tuy nhiên, bản thân ông cũng không còn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông trong chiến dịch chống lại quân Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, có tài năng quân sự. Sau sáu lần xuất quân ra Kỳ Sơn, Gia Cát Lượng dù đánh thắng nhiều trận nhưng với quá nhiều khó khăn về tiếp tế lương thảo và tướng Ngụy là Tư Mã Ý chủ trương cố thủ không giao chiến, ông không thể đạt mục tiêu là đánh chiếm Trường An.

Đến khi Gia Cát Lượng mất, vua Thục Lưu Thiện lúc ấy làm theo lời dặn dò của ông, lần lượt cho Tưởng Uyển và Phí Y nhiếp chính. Sau khi cả hai người này qua đời, Khương Duy trở thành đại tướng quân thống lĩnh binh mã, tiếp tục các cuộc Bắc phạt với nước Ngụy, nhưng không giành được kết quả nào đáng kể.

Ở nước Ngô, sau khi Tôn Quyền qua đời, các vua còn lại của Đông Ngô là Tôn Lượng, Tôn Hưu và Tôn Hạo đều chỉ là những kẻ bất tài khiến triều chính rối ren. Nước Ngô suy yếu từ đó.

Nhà Tây Tấn thống nhất Trung Hoa

Khi cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục đang diễn ra thì phía triều đình nhà Ngụy liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Họ Tư Mã ở nước Ngụy liên tục lớn mạnh. Sau khi Tư Mã Ý mất, các con của ông là Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu lần lượt thay nhau nắm quyền chính. Nhận thấy nước Thục suy yếu, Tư Mã Chiêu đem quân diệt Thục, bắt được Lưu Thiện. Tuy nhiên, Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại Tào Ngụy, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy là Chung Hội và Đặng Ngải. Kế sách này đã tiến rất sát đến thành công, cho đến khi một tướng Ngụy trung thành là Hồ Liệt phao tin ra ngoài. Thật không may, bệnh tim của Khương Duy bộc phát ngay giữa trận đánh cuối cùng. Ông liền dùng kiếm tự vẫn, đánh dấu sự kháng cự cuối cùng của nhà Thục Hán.

Sau khi Tư Mã Chiêu qua đời, con trai ông và là cháu của đại thần Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm kế nghiệp. Cuối cùng, vào thời Tào Hoán, Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép phế Hán Hiến Đế, trở thành vua Tấn Vũ Đế, sáng lập ra nhà Tấn.

Vua cuối cùng của Đông Ngô là Tôn Hạo (孙皓) đến năm 280 cũng bị quân đội của Tấn Vũ Đế đánh bại. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán, Lưu Thiện và Tôn Hạo đều được triều đình nhà Tấn cho sống cho đến tận cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng đã chấm dứt sau gần một thế kỷ đầy xung đột.

Và người đời sau có một bài ca tóm tắt câu chuyện trong Tam Quốc diễn nghĩa:

Gươm Cao Tổ Hàm Dương thưở nọ,

Vầng bình minh soi đỏ góc trời.

Chân nhân Bạch Thuỷ nối ngôi,

Quạ vàng bay bổng tuyệt vời mây xanh.

Vận suy yếu khi đời vua Hiến,

Mảnh kim ô đã xế non đoài.

Tiếc thay Hà Tiến vô tài,

Gian thần Đổng Trác giữ ngôi triều đường.

Vương tư đồ mưu toan vận đổi,

Đảng Dĩ-Thôi lại nổi bên song.

Tứ phương trộm giặc như ong,

Ầm ầm sáu cõi anh hùng kéo ra:

Viên minh chúa đánh nơi Thanh Hải;

Mã Phục ba chiếm dải Hà Dương;

Ba Tây có gã Lưu Chương;

Cảnh Thăng cát cứ Kinh Tương xưng hùng;

Ông Trương Lỗ đóng vùng Nam Trịnh;

Lão Hàn Toại giữ tỉnh Lương Châu;

Công Tôn Toản; Lã Ôn hầu;

Nọ thành Trương Tú; kìa lầu Trọng Gia;…

Tào Tháo mới gian hùng quỷ quyệt,

Nắm lệnh vua sai khiến chư hầu.

Đường đường trướng phủ ngôi cao,

Quyền uy hiển hách, ai nào dám đương?!

Huyền Đức gặp Quan, Trương kết nghĩa,

Thề cùng nhau đem lại sơn hà.

Chỉ thương bốn bể không nhà,

Nay đông, mai bắc, lân la cõi trần.

Cầu Gia Cát ân cần quyến cố,

Giãi tấm lòng gắn bó nhỏ to.

Rồng bay, hổ nhảy, tranh đua,

Tây Xuyên gây dựng cơ đồ một nơi.

Thành Bạch Đế mấy lời thấm thót,

Tình thác cô chua xót nhường bao.

Kỳ Sơn trỏ ngọn cờ đào,

Một tay mong chống trời cao nghìn trùng.

Thế nhưng vận đã cùng khôn gượng,

Nửa đêm gò Ngũ Trượng sao sa.

Khương Duy cậy sức làm già,

Chín phen đánh Nguỵ kể đà uổng công.

Đường vào Thục, Đặng, Chung kéo đến,

Vận Viêm Lưu phút biến thành Tào.

Tào kia cũng chẳng được bao,

Lại đem cơ nghiệp mà trao tay người.

Họ Tư Mã nối ngôi thiên mệnh,

Đánh Kiến Xương hiệu lệnh non sông.

Thành Ngụy, núi Thục, sông Ngô,

Bốn phương tám hướng cùng nhau quy về.

Đài Thụ Thiện ngất trời mây phủ,

Sông Tam Giang sóng gió êm dòng.

Hàng vương xiết nỗi thẹn thùng,

Công hầu may cũng thong dong trọn đời.

Ngẫm thế sự bời bời ngán nỗi,

Cuộc ganh đua biến đổi khôn lường.

Tam phân một giấc mơ màng,

Tiếng đời gọi có mấy hàng nôm na.

Sự thực của một số tình tiết hư cấu

Các sĩ phu thời phong kiến tuy khen ngợi giá trị nghệ thuật của tác phẩm nhưng cũng có người chỉ trích vấn đề bảy thực ba hư của Tam quốc diễn nghĩa, nói là có nhiều chỗ vô căn cứ, hoang đường, vì vậy làm cho độc giả hiểu sai nhiều diễn biến trong chính sử. Trương Học Thành đời nhà Thanh và một số người khác nêu ra một số tình tiết như: kết nghĩa vườn đào, Quan Vũ hiển thánh ở Ngọc Toàn, Quan Vũ đốt đuốc ngồi suốt đêm trước cửa buồng hai Cam, My phu nhân, đường Hoa Dung Quan Vũ chặn Tào Tháo, Bàng Sĩ Nguyên chết ở gò Lạc Phượng, Chu Du uất hận nói "Đã sinh ra Du sao còn sinh Lượng", Gia Cát Lượng tế ở sông Lô, nặn bột làm đầu người... là vô căn cứ vì không thấy có ghi trong chính sử. Gần đây, các học giả Trung Quốc đã đề cập nhiều tình tiết không có thực trong lịch sử mà nhà văn La Quán Trung (hay nói chính xác hơn là những câu chuyện dân gian mà ông tập hợp để viết nên tác phẩm) đã hư cấu. Một số tài liệu khác cũng đề cập tới sự so sánh giữa sự thực lịch sử và những tình tiết hư cấu của tiểu thuyết. Một số tình tiết tiêu biểu là:

Kết nghĩa vườn đào.
Ba người Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi đúng là thân thiết như anh em nhưng không có ghi chép trong sử sách về việc 3 người từng làm lễ kết nghĩa.

Tào Tháo ám sát Đổng Trác không thành, bỏ trốn đi hiệu triệu chư hầu đánh Trác:
Sử không nêu rõ lý do Tào Tháo bỏ Đổng Trác; người hiệu triệu chư hầu đánh Đổng Trác là Viên Thiệu.

Tào Tháo được Trần Cung thả ở Trung Mâu, cùng nhau giết nhà Lã Bá Sa:
Việc giết Lã Bá Sa không có mặt Trần Cung và sử không chép rõ viên huyện lệnh Trung Mâu có phải Trần Cung hay không.

Quan Vũ giết Hoa Hùng: truyện Tam quốc diễn nghĩa kể Quan Vũ chém Hùng trong nháy mắt, khi chén rượu mời của Tào Tháo trước khi ra trận còn nóng.
Nhưng thực tế theo sử sách thì người giết Hoa Hùng - bộ tướng của Đổng Trác - là Tôn Kiên, người khai nghiệp ở Giang Đông.

Tam anh chiến Lã Bố:
Ba anh em Lưu Bị cũng không tham gia liên minh đánh Đổng Trác và do đó sự kiện "Tam anh chiến Lã Bố" ở Hổ Lao là không có thực.

Điêu Thuyền và câu chuyện Phụng Nghi Đình.
Điêu Thuyền không có thật, Lã Bố và Đổng Trác chỉ cùng thích một con hầu gái. Vương Doãn mới khích Bố để Bố giết Trác.

Quan Vũ "qua 5 ải chém 6 tướng" sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ, và cả tướng Sái Dương sau đó ở Cổ Thành.
Thực ra không có việc qua ải chém tướng của Quan Vũ và Sái Dương bị giết ở trận Nhữ Nam (xảy ra sau trận Quan Độ).

Từ Thứ quy Tào: Từ Thứ theo giúp Lưu Bị chống Tào Tháo. Tào dùng kế bắt mẹ Từ Thứ và buộc bà viết thư dụ con. Từ mẫu không chịu, Tào Tháo sai người mạo nét chữ bà mẹ để viết thư dụ Từ Thứ. Từ Thứ đành bỏ Lưu Bị sang Tào Tháo để trọn đạo hiếu; trước khi đi tiến cử Gia Cát Lượng với Lưu Bị.
Sự thực: khi Gia Cát Lượng đến với Lưu Bị, Từ Thứ vẫn còn ở với Lưu Bị và cả hai người cùng làm mưu sĩ chống Tào. Khi Lưu Bị bị thua ở Đương Dương - Tràng Bản, chẳng những hai con gái Lưu Bị bị bắt mà mẹ Từ Thứ cũng bị bắt tại đây. Tào Tháo sai mẹ Từ Thứ viết thư dụ con. Bà không cự tuyệt Tào Tháo như trong Tam quốc diễn nghĩa mô tả. Từ Thứ lúc đó mới sang Tào.

Gia Cát Lượng mượn bài phú Đài Đồng Tước của Tào Thực để khích Chu Du: Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Khổng Minh gợi chuyện Tào Tháo xây đài Đồng Tước vì muốn bắt 2 nàng Kiều là vợ Tôn Sách và Chu Du, còn sai Tào Thực làm bài phú.
Sự thực là sau trận Xích Bích, Tào Tháo mới xây đài và khi đó Tào Thực mới làm bài phú.

Thuyền cỏ mượn tên: Trong trận Xích Bích nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ Túc và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến Tào Tháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên ra. Thế là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay ngang. Gia Cát Lượng thu tên về nộp cho Chu Du.
Sự thực không có việc dùng "thuyền cỏ mượn tên".

Ngô Quốc thái đến chùa xem rể hiền.
Ngô quốc thái (vợ Tôn Kiên) chết rất lâu trước khi Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị, do đó không có chuyện "Ngô quốc thái đến chùa xem rể hiền". Ngô Quốc Thái thực ra là chị em của vợ Tôn Kiên, sau khi mẹ ruột tôn quyền chết và mới thay chị lên làm quốc thái.

"Sinh Du hà sinh Lượng?" Tam quốc diễn nghĩa kể chuyện Gia Cát Lượng ba lần chọc tức Chu Du khiến Du tức phải than: "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?" rồi chết.
Sự thực là Chu Du chết vì bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức.

Bàng Thống chết ở gò Lạc Phượng rồi Gia Cát Lượng mới vào Tây Xuyên: Tam quốc diễn nghĩa kể việc Bàng Thống bị tướng Tây Xuyên là Trương Nhiệm mai phục ở gò Lạc Phượng bắn chết; Lưu Bị không có người phụ tá, phải gọi Khổng Minh từ Kinh Châu vào Tây Xuyên hỗ trợ; Khổng Minh lừa bắt được Trương Nhiệm.
Thực tế thì khi đánh Tây Xuyên khó khăn, Lưu Bị đã gọi Gia Cát Lượng vào tham chiến. Gia Cát Lượng cùng Trương Phi và Triệu Vân vào Tây Xuyên nửa năm sau thì Bàng Thống mới chết tại Lạc Thành (không phải tại gò Lạc Phượng) khi đụng độ với Trương Nhiệm. Trận này Lưu Bị và Bàng Thống tác chiến độc lập không có Khổng Minh và các tướng khác tham gia nhưng vẫn thắng được Trương Nhiệm ở Lạc Thành. Bàng Thống thắng trận nhưng bị tên lạc mà chết. Trương Nhiệm bị Lưu Bị bắt sống, không chịu hàng mà chết.

Triệu Vân và Trương Phi đòi A Đẩu.
Tôn Thượng Hương chủ động trốn về Ngô theo sứ giả của Ngô và đem A Đẩu theo chỉ để làm con tin để về nhà an toàn. Do đó Triệu Vân đòi lại A Đẩu cũng chỉ là cuộc trao đổi (tha cho bà về, đổi lại phải trả lại A Đầu) chứ Vân không hề xông vào thuyền bà.

Trận lụt Phàn Thành.
Không phải do kế dẫn nước sông gây lụt của Quan Vũ mà là do thiên tai, Vũ tận dụng cơ hội nên bắt được Vu Cấm.

Gia Cát Lượng mắng chết Vương Lãng: trong lần ra Kỳ Sơn đánh Ngụy (thời Ngụy Minh Đế Tào Duệ), Gia Cát Lượng gặp lão thần Tào Ngụy là Vương Lãng trước trận; Vương Lãng khuyên Gia Cát hàng nhưng bị Gia Cát dùng lời lẽ mắng lại việc bỏ nhà Hán theo họ Tào cướp ngôi là trái lẽ; Vương Lãng nghe xong uất quá ngã xuống đất chết.
Sự thực, việc này diễn ra thời Văn Đế Tào Phi. Tào Phi chỉ sai Vương Lãng cùng các danh sĩ Hoa Hâm, Trần Quần, Hứa Chi viết thư cho Gia Cát Lượng, khuyên ông nên hiểu rõ thời thế, vận nhà Hán đã hết, nên bỏ Hán sang Ngụy. Gia Cát Lượng nhận thư, công khai trả lời, khẳng định lập trường phò tá nhà Hán không dao động; ngược lại còn tỏ ý tiếc cho lão thần Vương Lãng đã a dua theo những người ủng hộ họ Tào. Sự việc dừng lại ở đó và Vương Lãng không chết vì bức thư trả lời của Gia Cát Lượng. Hai người chỉ có lời lẽ qua lại bằng thư từ, không gặp nhau ngoài chiến trường.

Không thành kế: Tam quốc diễn nghĩa kể việc sau khi để mất Nhai Đình, Gia Cát Lượng ở Tây Thành bị Tư Mã Ý kéo đến toan vây đánh nhưng đã áp dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành khiến Tư Mã Ý nghi có phục binh nên rút đi.
Trên thực tế sự kiện này phải gọi là "khích tướng kế", Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước doanh trại quân Tào để chơi cờ, xung quanh chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ để khích quân Ngụy ra đánh, nhưng quân Ngụy sợ phục binh nên không dám ra đánh (không phải là Gia Cát Lượng ngồi trong thành gảy đàn để phòng thủ quân Ngụy tấn công).
"Không thành kế" thực sự trong lịch sử xảy ra tại chiến tranh Lưu Tống-Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều. Khi quân Ngụy đuổi theo quân Tống đến Lịch Thành, Thái thú Tế Nam của Lưu Tống là Tiêu Thừa Chi chỉ có vài trăm quân, liệu chừng không thể chống lại đại quân Ngụy, bèn áp dụng "không thành kế", cho mở toang cổng thành. Quân Bắc Ngụy sợ có phục binh không dám vào thành.

Những ấn phẩm liên quan

Ngay từ khi mới vào Việt Nam, Tam quốc diễn nghĩa còn kéo theo nó hàng loạt ấn phẩm khác về các nhân vật, sự kiện liên quan đến thời Tam quốc, hoặc những cuốn khảo cứu về bản thân tác phẩm Tam quốc diễn nghĩa. Tất cả những ấn phẩm đó được các tác giả người Việt sáng tác, hoặc được dịch sang tiếng Việt để giúp cho những người yêu thích Tam quốc diễn nghĩa có thêm được những góc nhìn khác nhau về tác phẩm văn chương bất hủ này của thế giới.

Có thể kể ra những tác phẩm liên quan đến sự kiện, nhân vật Tam quốc như:

Hậu Tam quốc, Tam quốc ngoại truyện của Tạ Mỹ Sinh

Tào Tháo của Tào Trọng Hoài

Điêu Thuyền của Chu Tường

Mưu chí và sách lược của Tào Tháo của Trí Tuệ

Người tình nhỏ của Trương Phi của Tất Trân...

Còn sách viết riêng về Khổng Minh Gia cát Lượng cũng có hàng loạt tác phẩm như:

Khổng Minh Gia Cát Lượng của Trần Văn Đức

Khổng Minh Gia Cát Lượng của Lê Xuân Mai

Khổng Minh (song ngữ Hoa-Việt) của Mã Nguyên Lương - Lê Xuân Mai

Gia Cát Lượng nhà quân sự tiên tri của Bùi Biên Hòa

Gia Cát Lượng cuộc đời tài trí của Tào Hải Đông

100 điều chưa biết về Gia Cát Lượng của Lý Điện Nguyên

Mưu hay kế lạ của Khổng Minh Gia Cát Lượng của Nguyễn Nguyên Quân

Khổng Minh Gia Cát Lượng của Dư Đại Cát...

Loại sách khảo cứu như:

Long Trung quyết sách của Kiến Hoa

Tam quốc bình giảng, Khảo luận về Tam quốc chí diễn nghĩa của Nguyễn Tử Quảng

Thuật dùng người thời Tam quốc của Phùng Thế Bản

Chân dung nhân vật Tam quốc chí của Việt Chương

Nói chuyện Tam quốc của Vũ Tài Lục

Lược khảo Tam quốc chí diễn nghĩa của Nguyễn Quang Tô

Tam quốc diễn nghĩa phụ lục của Moss Robert và Jim Waters...

Phê bình văn học

Giữa tác phẩm văn học và ghi chép lịch sử, giữa tiểu thuyết và sử, đặc biệt là giữa loại tiểu thuyết lịch sử có tính chất sáng tác tập thể của nhân dân quần chúng như Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa với loại sách gọi là "chính sử" do các sĩ phu phong kiến biên soạn, giữa hai thứ đó bản chất khác hẳn nhau. Quên mất điểm khác nhau đó sẽ dẫn tới cái nhìn sai lầm lệch lạc. Hiểu rõ và đánh giá một tác phẩm văn học nổi tiếng như Tam quốc là việc không đơn giản. Cách kể chuyện thời Tam quốc của La Quán Trung cũng cho chúng ta thấy sự phản ánh tình hình chính trị thời tác giả sống. Hoàng đế nhà Minh Vạn Lịch đã chính thức nâng Quan Vũ thành thánh để nhấn mạnh đức tính quả cảm và tuyệt đối trung thành của ông (những tính cách mà rõ ràng hoàng đế muốn đề cao để các bề tôi, thần dân noi theo). Tuy nhiên La Quán Trung lại xây dựng cho chúng ta một nhân vật Quan Vũ tinh tế hơn ở chỗ Quan Vũ chết như một thần tượng tan vỡ, đáng thương vì tính cả tin của mình. Các lời bình cổ đã không chú ý đến chi tiết này nhưng khám phá gần đây cho thấy nhân vật Quan Vũ của La Quán Trung là một sự phản ánh hấp dẫn của văn hoá Trung Quốc dưới luật thời nhà Minh, tác giả vừa theo chương trình tuyên truyền của triều đình phong kiến thời đấy mà vẫn phá luật một cách khá tinh tế.

Ý nghĩa, giá trị của tác phẩm

Lịch sử Trung Quốc đã từng xuất hiện rất nhiều thời loạn thế, chẳng hạn như Xuân Thu Chiến Quốc, Hán Sở tranh hùng, Tam Quốc, Ngũ Hồ Thập lục quốc, Nam Bắc triều hay Ngũ Đại Thập Quốc; nhưng nếu nói về độ nổi tiếng và phổ biến nhất, các nhân vật được biết tới nhiều nhất thì không có thời đại nào có thể vượt qua Tam Quốc. Sở dĩ có điều đó là do thành công và ấn tượng mà cuốn tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" đem lại cho hậu thế. Tiểu thuyết này là ví dụ tuyệt vời cho mối tương tác hết sức phức tạp giữa chính sử, dã sử, văn học viết hư cấu, văn chương dân gian và sinh hoạt văn hoá bình dân diễn ra trong một truyền thống văn hoá lớn - truyền thống Trung Hoa kéo dài qua bao thời đại. Người Trung Hoa ví các tác phẩm văn chương bất hủ như "mặt trăng mặt trời trường tồn cùng sông núi", Tam Quốc Diễn Nghĩa có thể nói chính là "Nhật nguyệt treo cao" trong kho tàng văn học Trung Quốc.

Tư tưởng ủng Lưu phản Tào

nhỏ|phải|Ba anh em nhà Lưu Bị, tranh lụa của [[Sekkan Sakurai (1715-1790).]] Tam quốc diễn nghĩa được xếp là 1 trong "Tứ đại danh tác" của Trung Hoa. Tác giả La Quán Trung đã nói rõ chủ đề ngay từ tên tác phẩm: ông dùng lịch sử của ba quốc gia thời Tam quốc để diễn giải về "nghĩa" (tư tưởng chính nghĩa) của con người, lấy đó làm chủ đề chính. Tam quốc diễn nghĩa bao hàm ý nghĩa cao siêu của tiêu chuẩn đạo đức, luân lý truyền thống Trung Hoa, ngoài ra còn có đạo lý "Nhân quả báo ứng", "Thuận theo tự nhiên", "Người tính không bằng trời tính". Tác phẩm không chỉ là tiểu thuyết đơn thuần, mà còn ẩn chứa những bài học răn dạy về đạo đức, những tấm gương được mọi người tôn kính thông qua những câu chuyện lịch sử. Bởi vì nắm chắc được điểm này cho nên Tam quốc diễn nghĩa mới có thể "trường thịnh không suy", đi sâu vào lòng người đọc suốt nhiều thời đại như vậy, không chỉ ở Trung Quốc mà cả ở những nước đồng văn như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam,...

Tam quốc diễn nghĩa là câu chuyện gần một trăm năm, sự việc nhiều nhưng không rối, đó là do ngòi bút có khuynh hướng rõ ràng của La Quán Trung. Tác giả đứng về phía Thục Hán, lên án Tào Ngụy, còn Tôn Ngô chỉ là lực lượng trung gian. Những nhân vật của Thục Hán như hoàng đế Lưu Bị với tư tưởng "trọng nhân hòa, lấy dân làm gốc", gia đình thừa tướng Gia Cát Lượng suốt 3 đời phò tá triều đình với tấm lòng "cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi", các đại tướng Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Khương Duy võ nghệ xuất chúng lại tận trung vì nước, bao phen xả thân để bảo vệ cơ nghiệp nhà Hán; Cam phu nhân chỉ là nữ nhi mà thấu hiểu đạo nghĩa, My phu nhân sẵn lòng hy sinh tính mạng để cứu dòng dõi Lưu Bị,... Mỗi nhân vật chính của nhà Thục Hán đều được khắc họa với chính khí lẫm liệt, là những tấm gương về trung thần nghĩa sĩ, con hiếu thảo, vợ tiết trinh. Nhà Thục Hán là sự kết tinh nguyện vọng của quần chúng nhân dân về một vị vua xuất thân hàn vi, biết thấu hiểu nỗi khổ và yêu thương quý trọng nhân dân, một triều đình thực hiện "nhân chính", một xã hội giàu đạo đức với những tấm gương tôi trung vợ tiết, một đất nước thống nhất và hoà bình.

Đặc biệt trong bối cảnh tác phẩm ra đời, khi nhà Nguyên của ngoại tộc Mông Cổ đang thống trị Trung Hoa, tư tưởng "ủng Lưu phản Tào" còn thể hiện khát vọng của nhân dân Trung Hoa để có một vị vua kế thừa dòng máu người Hán (Lưu Bị là dòng dõi hoàng thất nhà Hán), đánh đuổi triều đình ngoại tộc để giành lại giang sơn cho dân tộc Hoa Hạ (một kiệt tác sân khấu ra đời trong cùng thời kỳ cũng mang tư tưởng này, đó là Con côi nhà họ Triệu).

Tuy Tam quốc diễn nghĩa có một số tình tiết hư cấu về lịch sử, nhưng về nét chính, các bộ chính sử Trung Quốc cũng công nhận triều đình Thục Hán có rất nhiều nhân vật đáng khen ngợi: vua nhà Thục Hán là Lưu Bị vốn có xuất thân hàn vi, thuở nhỏ phải đan dép cỏ kiếm sống nên rất thấu hiểu nỗi khổ của nhân dân, ông từ hai tay trắng gây dựng cơ đồ nhờ sự trợ giúp trung thành của các tướng sĩ, khi lên ngôi lại thi hành chính sách khoan hòa với nhân dân. Gia đình của thừa tướng Thục Hán là Gia Cát Lượng thì suốt ba đời đều hết lòng tận tụy vì nước và rất liêm khiết, "trong nhà chẳng để thừa gấm vóc, bên ngoài không có điền sản dư dôi". Đại tướng Khương Duy là tổng chỉ huy quân đội cũng sống rất giản dị, "ăn uống rất mực tiết kiệm, trong nhà không có thiếp hầu, sau sân chẳng nghe thấy tiếng đàn hát". Danh tướng Triệu Vân không quản hiểm nguy một mình cứu ấu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản. Các cặp cha con Triệu Vân - Triệu Quảng, Gia Cát Chiêm - Gia Cát Thượng, Phó Đồng - Phó Thiêm thì _"thụ mệnh lúc lâm nguy, cha con nối

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
**_Tam quốc diễn nghĩa_** () là một bộ phim truyền hình sử thi cổ trang của Trung Quốc được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên (một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc)
Tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" về cơ bản dựa trên chính sử "Tam quốc chí" tiểu thuyết hóa. Các học giả đều thống nhất nhận định rằng "Tam quốc diễn nghĩa" sử dụng thủ
nhỏ|phải|Tranh vẽ Ngũ hổ tướng nhà Thục Hán **Ngũ hổ tướng** (五虎將) là chức danh hư cấu để gọi 5 vị tướng của Thục Hán là Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và
Dưới đây là danh sách tập phim của bộ phim truyền hình _Tam quốc diễn nghĩa_ (1994), chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của La Quán Trung. ## Danh sách tập ### Phần 1:
**Dương Phong** (chữ Hán:楊鋒, bính âm: Yang Feng) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này, Dương Phong
**_Tam Quốc: Long Mệnh_** (tiếng Anh: _Three Kingdoms: Fate of the Dragon_) là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian thực lịch sử dựa trên câu truyện lịch sử Tam quốc
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
Được vinh danh là một trong Tứ đại danh tác hay Tứ đại kỳ thư của Trung Quốc, cho đến nay Tam Quốc Diễn Nghĩa đã trở thành danh tác thế giới bởi số lượng
Tam Quốc Diễn Nghĩa Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc như Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký, Nho lâm ngoại sử, Hồng lâu mộng đã được liệt vào kho tàng văn hóa
**Tân Tam Quốc** (tiếng Trung: 三国, tiếng Anh: Three Kingdoms) là một bộ phim truyền hình Trung Quốc do Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc sản xuất và phát hành vào năm 2010 dựa
Xuất bản lần đầu năm 2003, Tam quốc diễn nghĩa ngay lập tức trở thành một quyển sách bán chạy ở cả trong và ngoài Trung Quốc. Nó trở thành truyền kỳ trong số các
Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong những kiệt tác của văn học thế giới. Ngay từ khi được dịch sang chữ quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết
**Tuân Úc** (chữ Hán: 荀彧, bính âm: _Xún Yù_; 163-216), biểu tự **Văn Nhược** (文若), là một mưu sĩ, chính trị gia và quan đại thần thời cuối Đông Hán, có công lớn giúp Tào
Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong những kiệt tác của văn học thế giới. Ngay từ khi được dịch sang chữ quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX,tiểu thuyếtnày đã
Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong những kiệt tác của văn học thế giới. Ngay từ khi được dịch sang chữ quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX,tiểu thuyếtnày đã
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 張昭; [156|] - 236) là khai quốc công thần của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Chối từ tiến cử Trương Chiêu có tên tự
Tam Quốc Diễn Nghĩa Trọn Bộ 6 Tập Thông tin chung Tác giả La Quán Trung Dịch giả Phan Kế Bính Hiệu đính Bùi Kỷ Lời bàn Mao Tôn Cương Minh họa Nhiều họa sĩ
Tam Quốc Diễn Nghĩa Trọn Bộ 6 Tập Thông tin chung Tác giả La Quán Trung Dịch giả Phan Kế Bính Hiệu đính Bùi Kỷ Lời bàn Mao Tôn Cương Minh họa Nhiều họa sĩ
**Lý Thông** (chữ Hán: 李通, 168 - 209), tên tự là **Văn Đạt**, tên lúc nhỏ là **Vạn Ức**, người huyện Bình Xuân, quận Giang Hạ thuộc Kinh châu, là tướng lĩnh tập đoàn quân
**Đỗ Tập** (chữ Hán: 杜袭), tự **Tử Tự**, người huyện Định Lăng, quận Dĩnh Xuyên , quan viên cuối đời Đông Hán, đầu đời Tào Ngụy thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 195 – 256) tự **Tử Ung**, quan viên, học giả nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Túc là người huyện Đàm, quận
**Lưu Phong** (chữ Hán: 劉封; 190-220) là tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con nuôi Lưu Bị - Hoàng đế sáng lập nước Thục Hán. ## Theo
**Trần Đăng** (chữ Hán: 陳登; 163 - 208), tên tự là **Nguyên Long** (元龍), là mưu sĩ thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Giúp Tào Tháo trừ Lã Bố Trần Đăng là
thumb|right|Bìa quyển "Chí Trị tân san toàn tướng Bình thoại Tam quốc chí" (thế kỷ 14)|page=2 **Tam quốc chí bình thoại** (giản thể: 三国志平话 hoặc 三国志评话), là một tập hợp các truyện kể dân gian
**Vương Sưởng** (chữ Hán: 王昶, ? – 259) tự **Văn Thư**, người Tấn Dương, Thái Nguyên , quan viên, tướng lãnh nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc. ## Thiếu thời Bác của Sưởng là Nhu,
Tam Quốc Diễn Nghĩa, bộ tiểu thuyết lịch sử chương hồi đầu tiên của văn học Trung Quốc, do tác giả la Quán Trung đời Minh sáng tác. Với bối cảnh lịch sử trong gần
Tam Quốc Diễn Nghĩa, bộ tiểu thuyết lịch sử chương hồi đầu tiên của văn học Trung Quốc, do tác giả la Quán Trung đời Minh sáng tác. Với bối cảnh lịch sử trong gần
**_Tam quốc chí_** là một bộ phim hoạt hình 2009 được phối hợp sản xuất giữa Beijing Huihuang Animation Company ở Trung Quốc và Future Planet ở Nhật Bản. Phim dựa trên tác phẩm Tam
Ngay từ khi được dịch sang chữ quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết này đã được bạn đọc Việt Nam đón nhận nồng nhiệt từ đó đến nay có vô vàn ấn
**Trần Lâm** (chữ Hán: 陈琳, ? – 217) là nhà văn cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, một trong Kiến An thất tử. ## Cuộc đời Lâm tự Khổng Chương, người huyện
**Chu Thiện** (chữ Hán: 周善; bính âm: Zhou Shan) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này, Chu
**Dương Thu** (chữ Hán: 楊秋, bính âm: Yang Qiu) là một thế lực quân phiệt cát cứ ở Tây Lương ở thời kỳ Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Khi Mã Siêu cất quân
**Thẩm Oánh** (; ? - 280), là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không rõ quê quán, hành trạng ban đầu của Thẩm Oánh. Cuối thời
**Vương Trung** (; ? - 242), không rõ tên tự, là tướng lĩnh Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Trung quê ở quận Phù Phong, Tư Lệ,
**Tào Vũ** (chữ Hán: 曹宇, ? – 278), tên tự là **Bành Tổ**, người huyện Tiếu, nước (quận) Bái, là hoàng thân nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân
#đổi Ân Quán#Ân Thuần Thể loại:Nhân vật chính trị Tam Quốc Thể loại:Nhân vật chính trị Thục Hán Thể loại:Nhân vật Tam quốc diễn nghĩa
**Tam Quốc** (giai đoạn 220–280, theo nghĩa rộng từ 184/190/208–280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc khi ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại,
**_Tam quốc chí_** (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: _Sanguo Chih_; bính âm: _Sānguó Zhì_), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ
nhỏ|phải|Tượng kết nghĩa vườn đào **Kết nghĩa vườn đào** (chữ Hán: 桃園結義 - _Đào viên kết nghĩa_; tiếng Anh: _Oath of the Peach Garden_) là một sự kiện hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử
**Khởi nghĩa Khăn Vàng**, tức** loạn Hoàng Cân**, **loạn Huỳnh Cân** hay** loạn Khăn Vàng** (Trung văn giản thể: 黄巾之乱, Trung văn phồn thể: 黃巾之亂, bính âm: Huáng Jīn zhī luàn, âm Hán-Việt: _Hoàng Cân
**Vấn đề Kinh châu thời Tam Quốc** phản ánh những hoạt động quân sự, ngoại giao của những nước và thế lực quân phiệt liên quan tới địa bàn Kinh Châu thời Tam Quốc trong
Nếu không nói trên diện rộng là toàn cõi Á Đông này, hay cho đến toàn thế giới, riêng ở Việt Nam thì hầu như không ai không biết đến tác phẩm trứ danh của
Nếu không nói trên diện rộng là toàn cõi Á Đông này, hay cho đến toàn thế giới, riêng ở Việt Nam thì hầu như không ai không biết đến tác phẩm trứ danh của
**Kim Hoàn Tam Kết** (chữ Hán:金環三結, bính âm: Jinhuan Sanjie) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này,
**Khúc Nghĩa** (chữ Hán: 麴義, bính âm: Qū Yì) là một vị tướng lĩnh quân sự cuối thời Đông Hán. Ông tham gia cuộc chiến tranh quân phiệt thời Tam Quốc trong lịch sử Trung
**Lưu Kỳ** (chữ Hán: 劉琦; 173-210) là Thứ sử Kinh châu đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất hiện trên chính trường Trung Quốc đương thời dù không có vai trò
**Giả Quỳ** (chữ Hán: 贾逵, 174 – 228) vốn có tên là **Giả Cù**, tên tự là **Lương Đạo**, người huyện Tương Lăng, quận Hà Đông, tướng lãnh cuối thời Đông Hán, quan viên, khai
Hoàn cảnh của một Tây Thục có phần chắp vá khi đó không khác là mấy so với những gì mà một startup phải trải qua: Xuất phát điểm ban đầu chỉ là ý tưởng.Đối
Tân toàn tướng Tam quốc chí bình thoại Bình thoại về Tam quốc chí, bản tranh minh họa đầy đủ, bộ mới là tác phẩm viết về đề tài Tam quốc được khắc in vào