✨Gia Luật Lưu Ca (nhà Nguyên)

Gia Luật Lưu Ca (nhà Nguyên)

Gia Luật Lưu Ca (chữ Hán: 耶律留哥, 1165 – 1220) hay Lưu Cách (琉格) , người dân tộc Khiết Đan, là thủ lĩnh nổi dậy phản kháng cuối đời Kim, nhà sáng lập nước Đông Liêu. Ông là một trong số ít thủ lĩnh nổi dậy chủ động quy phụ Mông Cổ, rất được Thành Cát Tư hãn xem trọng.

Khởi nghĩa kháng Kim

Ban đầu Lưu Ca làm Thiên hộ ở bắc biên của nhà Kim. Thành Cát Tư hãn quật khởi ở Mạc Bắc, Kim đình e ngại di dân Khiết Đan nổi dậy, hạ lệnh cứ 1 hộ Khiết Đan thì lấy 2 hộ Nữ Chân kìm kẹp. Lưu Ca không yên lòng, năm 1212 , trốn đến Long An , Hàn Châu , tụ tập tráng sĩ, cướp bóc nơi ấy. Châu phát lính lùng bắt, đều bị Lưu Ca đánh đuổi. Khi ấy có Gia Luật Đích cũng nổi dậy, Lưu Ca bèn cùng ông ta hợp lực, tiến hành mộ binh, sau vài tháng lực lượng lên đến hơn 10 vạn. Mọi người đề cử Lưu Ca làm Đô nguyên soái, Đích làm phó, bày doanh trướng dài trăm dặm, uy chấn Liêu Đông.

Quy phụ Mông Cổ

Thành Cát Tư hãn mệnh Án Trần Na Diễn, Hồn Đô Cổ hành quân đến Liêu Đông , Lưu Ca tìm đến xin hàng. Đôi bên họp mặt ở Kim Sơn, Lưu Ca làm thịt ngựa trắng, bò trắng, lên núi Kim Sơn nhìn về phía bắc, bẻ tên mà thề; Án Trần Na Diễn hứa hẹn sẽ giao việc chinh phục Liêu Đông cho ông.

Đánh bại quân Kim

Kim đình sai Hàm Bình binh mã đô tổng quản Hoàn Nhan Thừa Dụ soái 60 vạn quân, xưng trăm vạn, đến đánh Lưu Ca , đánh tiếng rằng ai bắt được 1 lạng xương của ông thì thưởng 1 lạng vàng, 1 lạng thịt của ông thì thưởng 1 lạng bạc, còn được thế tập 1 vạn hộ. Lưu Ca nhắm không địch nổi, cáo cấp với Mông Cổ. Thành Cát Tư hãn sai Án Trần, Bột Đô Hoan , A Lỗ Đô Hãn đưa 1000 kỵ binh đến giúp Lưu Ca, cùng quân Kim đối trận ở Địch Cát Não Nhi . Lưu Ca lấy cháu là An Nô làm tiên phong, đánh cho quân Kim đại bại, đem quân nhu bắt được hiến cho Mông Cổ. Thành Cát Tư hãn triệu Án Trần trở về, để lại Khả Đặc Ca làm phó của Lưu Ca, đồn trú đất ấy.

Xưng vương định đô

Mọi người cho rằng Liêu Đông đã định, vào tháng 3 ÂL năm 1213 , đề cử Lưu Ca làm vương, tức là Liêu vương; ông lập vợ là Diêu Lý thị làm phi, đổi niên hiệu là Nguyên Thống , lấy thân thuộc là Gia Luật Tư Bất làm quận vương, bọn Pha Sa, Tăng Gia Nô, Gia Luật Đích, Lý Gia Nô làm thừa tướng, nguyên soái, thượng thư, Thống Cổ Dữ, Trứ Bát làm Hành Nguyên soái phủ sự; đặt quốc hiệu là Liêu, sử cũ gọi là nước Đông Liêu. Năm 1214 lãnh hơn 40 vạn quân đến đánh . Lưu Ca chống trả ở thượng du Hoàng Hà thuộc huyện Quy Nhân , quân Kim tan vỡ, Vạn Nô thu tàn binh chạy về Đông Kinh . An Đông đồn tri A Liên sợ , sai sứ xin quy phụ. Vì thế Lưu Ca chiếm trọn châu quận Liêu Đông, bèn định đô ở Hàm Bình, gọi là Trung Kinh. Kim tả phó nguyên soái Di Lạt Đô đem 10 vạn quân . Tháng 11 ÂL .

Vào chầu Đại hãn

Trong số những thủ lĩnh phản kháng nhà Kim đến cống nạp , Lưu Ca không phải là người sớm nhất, Thành Cát Tư hãn cũng có lệnh ai đến trước thì gặp trước, nhưng lại cho rằng Lưu Ca trượng nghĩa hiệu thuận, không như những kẻ khác chịu bức bách mà đến, nên gọi Lưu Ca vào trước. Sau khi gặp mặt, Thành Cát Tư hãn rất hài lòng, nói với tả hữu rằng: Phàm những gì Lưu Ca hiến, đem cáo với trời, rồi mới nhận. Người Mông Cổ bày những thứ ấy trên giạ trắng, sau 7 ngày mới nạp vào các kho. Nhân đó Thành Cát Tư hãn hỏi quan chức của Lưu Ca, ông đáp: Là Liêu vương. Thành Cát Tư hãn mệnh ban Kim hổ phù, vẫn cho làm Liêu vương; lại hỏi có bao nhiêu hộ tịch, đáp rằng: Hơn 60 vạn. Nhân đó Thành Cát Tư hãn mệnh cho Lưu Ca điều động 3000 người làm Ngốc Lỗ Hoa quân , lấy 300 người Mông Cổ đi chọn; Lưu Ca sai đại phu Khất Nô , an phủ Ngốc Ca cùng họ trở về. Khi phá Đông Kinh, Khả Đặc Ca chiếm vợ của Vạn Nô là Lý Tiên Nga, Lưu Ca không bằng lòng; đến nay Thành Cát Tư hãn gửi lời trách mắng, đòi bắt ông ta về chịu tội. Khả Đặc Ca sợ, bèn cùng bọn Gia Luật Tư Bất tuyên bố "Lưu Ca đã chết", rồi tiến hành nổi loạn, tấn công 300 người Mông Cổ, chỉ có ba người chạy thoát. Biết tin, Thành Cát Tư hãn vỗ về Lưu Ca, hứa rằng sẽ phong thưởng bội hậu, cho mượn quân đội quay về giành lại những gì đã mất.

Mượn quân dẹp loạn

Năm 1216 , lấy anh trai Lưu Ca là Độc Lạt làm bình chương, đặt trăm quan. Được hơn 1 tháng, nguyên soái Thanh Cẩu bỏ phản quân Khiết Đan quay về với nhà Kim, còn Tư Bất ở ngôi được hơn 70 ngày thì bị bộ hạ giết chết. Phản quân cử thừa tướng Khất Nô làm giám quốc, Khất Nô cùng Hành nguyên soái Nha Nhi chia binh, dân làm 2 cánh trái, phải, đồn trú ở khoảng giữ 2 quan Khai Châu, Bảo Châu. Tướng Kim giữ Cái Châu là Chúng Gia Nô đem quân đánh bại phản quân Khiết Đan ở Khai Châu, khiến phản quân chạy về Đại Phu Doanh. Lưu Ca đưa vài ngàn quân Mông Cổ kéo đến, giành lại anh trai Độc Lạt và vợ mình Diêu Lý thị cùng 2000 hộ. Khất Nô, Nha Nhi đưa mấy vạn tàn quân chạy về phía đông, Lưu Ca đuổi theo không kịp, vượt Liêu Hà trở về, chiêu phủ Ỷ Châu, Quảng Ninh, dời dân đến phủ Lâm Hoàng. Khất Nô vượt sông Áp Lục, chạy vào Cao Ly, sau đó bị Kim Sơn giết chết. Kim Sơn tự xưng quốc vương, đổi niên hiệu là Thiên Đức, sau đó bị Thống Cổ Dữ giết chết. Thống Cổ Dữ tự lập làm chúa, sau đó bị Hảm Xá giết chết. Hảm Xá cũng tự lập làm chúa.

Năm 1217 lên đến 10 vạn người, hợp với quân Đông Hạ của nguyên soái Hồ Thổ vào Cao Ly, vây Hảm Xá ở thành Giang Đông. Liên quân đòi Cao Ly cho mượn lương mượn lính, Cao Ly đem ra ngàn thạch lương thực, sai tướng là Triệu Xung, Kim Tựu Lệ đem 40 vạn người đến hội sư. Tháng giêng ÂL năm sau (1219) , liên quân hãm thành, Hảm Xá tự thắt cổ. Lưu Ca thu lấy quân dân trong thành đem về, an trí họ ở Tây Lâu.

Qua đời

Cuối năm 1220 , Thành Cát Tư hãn trở về, Diêu Lý thị đem theo con trai là Thiện Ca, Thiết Ca, Vĩnh An, cháu trai là Tháp Tháp Nhi, cháu nội là Thu Quốc Nô, gặp Đại hãn ở hành tại là thành A Lý Tưu thuộc nước Tây Hạ . Thành Cát Tư hãn nói: Chim ưng khỏe không đến được đất này, mày là đàn bà lại có thể à!? rồi ban rượu, an ủi rất nhiều. Diêu Lý thị tâu rằng: Lưu Ca đã mất, quan dân thiếu chủ, con trưởng là Tiết Đồ hỗ tùng (tức là hộ vệ hoàng đế) đã lâu, xin lấy con thứ là Thiện Ca thay thế, để hắn trở về tập tước. Thành Cát Tư hãn nói: Tiết Đồ nay là người Mông Cổ rồi, hắn theo trẫm đánh Tây Vực, Hồi Hồi vây Thái tử ở thành Hợp Mê, Tiết Đồ đưa ngàn quân cứu ra được, bản thân trúng sóc; lại ở thành Bồ Hoa, Tầm Tư Kiền cùng Hồi Hồi giao chiến, bị thương vì tên lạc. Đã tích đủ công lao để làm Bạt đô lỗ, không thể sai đi, hãy để Thiện Ca tập tước của cha. Diêu Lý thị lạy mà khóc nói: Tiết Đồ do vợ trước của Lưu Ca sinh ra, là đích tử, nên được lập. Thiện Ca là do tì tử sinh ra, nếu được lập, là bởi ích kỷ mà làm trái luân thường, tì tử thiết nghĩ không thể làm vậy. Thành Cát Tư hãn khen là người hiền, cấp 40 ngựa dịch, đem mẹ con Diêu Lý thị tòng chinh Tây Hạ, ban 9 tù binh Hạ, 9 thớt ngựa, 9 đĩnh bạc, mỗi loại vật dụng đều có chín món; hứa cho Tiết Đồ tập tước, giữ lại Thiện Ca, Tháp Tháp Nhi, Thu Quốc Nô, chỉ còn con út Vĩnh An theo mẹ về miền đông.

Gia đình

Con trai

  • Gia Luật Tiết Đồ (1193 – 1238), trở thành con tin và phục vụ quân đội Mông Cổ từ cuối năm 1215. Vào lúc Lưu Ca mất (1220), Tiết Đồ đang tham gia cuộc tây chinh của người Mông Cổ, có nhiều chiến công, được ban hiệu Bạt đô lỗ. Năm 1227, Thành Cát Tư hãn đáp ứng thỉnh cầu của mẹ kế Tiết Đồ là Diêu Lý thị, cho phép Tiết Đồ quay về nối tước của Lưu Ca, triệu Tiết Đồ mà dụ rằng: "Khi xưa người Nữ Chân càn rỡ, cha mày khởi binh, từ Liêu Đông hội sư với trẫm, còn có thể cắt đứt tình thân, để mày phụng sự trẫm, tấm lòng trong sáng thành thật ấy thật đáng khen. Kế đó kẻ gian là bọn Da Luật Tư Bật làm phản, nhân dân ly tán. Người muốn ăn thịt cha con mày, nay chẳng còn ai nữa! Trẫm lấy tình anh em đối đãi với cha mày, thì mày cũng như con ta; cha mày đã mất rồi, mày với em ta Biệt Lặc Cổ Đài đều quản hạt quân mã, làm Đệ tam thiên hộ." Tiết Đồ thụ mệnh. Năm 1229, Tiết Đồ theo Hãn Oa Khoát Đài đánh Nam Tống, có công, được ban 400 ngựa, 600 bò, 200 dê. Năm 1230, Tiết Đồ nhận lệnh cùng Trát Lạt Diệc Nhi Đài đông chinh, thu lấy dân chúng mà Lưu Ca để lại, dời sang trấn giữ phủ Quảng Ninh, làm Hành Quảng Ninh lộ đô nguyên soái phủ sự. Trong thời gian 1230 – 1237, liên tiếp tham gia tấn công Cao Ly, Đông Hạ (của Bồ Tiên Vạn Nô), giành lại hơn 6000 hộ. Năm 1238, mất, hưởng thọ 46 tuổi.
  • Gia Luật Thiện Ca (1213/1215 – 1264), được ban tên Mông Cổ Ngạt, từ năm 1226 trở thành con tin ở Mông Cổ, nhận lệnh đi theo thân vương Khẩu Ôn Bất Hoa. Năm 1230 , tham gia đánh phá bảo Thiên Thành. Năm sau (1231), tham gia đánh hạ phủ Phượng Tường. Nhờ công được nhận hiệu Sung Bạt đô lỗ. Năm 1232 , đưa 3000 quân vượt Hoàng Hà, hội họp với đại quân của Hãn Oa Khoát Đài, tham gia đánh Kim. Sau đó tham gia đánh Nam Tống, chiếm Quang Châu, Táo Dương, từ Thiên hộ thăng Quảng Ninh doãn. Năm 1264, mất, hưởng thọ 52 tuổi .
  • Gia Luật Thiết Ca
  • Gia Luật Vĩnh An

Cháu nội

  • Con Tiết Đồ là Gia Luật Thu Quốc Nô (1215 – 1259), từ năm 1226 trở thành con tin ở Mông Cổ, làm đến Hành Quảng Ninh phủ lộ tổng quản quân dân vạn hộ phủ sự, đổi tên là Thạch Lạt. Tham gia đánh Cao Ly, có công. Năm 1251 , Hãn Mông Ca cho rằng Thạch Lạt 3 đời ra sức vì nước, mệnh cho tạo thêm hổ phù để ban cho, lệnh Thạch Lạt giúp chư vương Dã Khổ , Trát Lạt Diệc Nhi Đài khống chế Cao Ly. Năm 1259 , mất, hưởng thọ 45 tuổi.
  • Con Thiện Ca là Gia Luật Thiên Hữu được tập chức Quảng Ninh thiên hộ, đổi làm Quảng Ninh huyện doãn.

Chắt nội

  • Con Thu Quốc Nô là Gia Luật Cổ Nãi (1234 – 1269) được kế tự, làm Quảng Ninh doãn. Năm 1260, theo chư vương Cáp Đan, Bất Giả đánh dẹp A Lam Đáp Nhi, Hồn Đô Hải ở Sơn Đan, phá được. Năm 1262, tòng chinh Lý Thản, có công phá Dịch Sơn, được nhận thưởng. Năm 1269, nhà Nguyên hợp Quảng Ninh lộ với Đông Kinh, nên Cổ Nãi rời chức, nước Đông Liêu bị phế trừ. Mất trong năm ấy, hưởng thọ 36 tuổi. Con là Thắc Ca.
👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Gia Luật Lưu Ca** (chữ Hán: 耶律留哥, 1165 – 1220) hay **Lưu Cách** (琉格) , người dân tộc Khiết Đan, là thủ lĩnh nổi dậy phản kháng cuối đời Kim, nhà sáng lập nước Đông
**Da Luật Lưu Ca** (chữ Hán: 耶律刘哥, ? – ?), tự **Minh Ẩn**, tông thất, tướng lãnh nhà Liêu. ## Xuất thân Lưu Ca là con trưởng của Da Luật Dần Để Thạch – em
**Lưu Túc** (chữ Hán: 刘肃, 1188 – 1263), tên tự là **Tài Khanh**, người huyện Minh Thủy, phủ Uy Châu , quan viên cuối đời Kim, đầu đời Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Gia Luật Bội** (, 899 – 7 tháng 1 năm 937), cũng được biết đến với tên **Gia Luật Đột Dục** (耶律突欲) hay **Gia Luật Đồ Dục** (耶律圖欲), hiệu **Nhân Hoàng vương** (人皇王), và sau
**Gia Luật Nhân Tiên** (chữ Hán: 耶律仁先, 1013 – 1072), tên tự là **Cửu Lân** (乣邻), tiểu tự là Tra Lạt (查剌), là danh thần và vị tướng nổi tiếng đời nhà Liêu. Ông từng
**Gia Luật Tà Chẩn** hay **Gia Luật Sắc Trân** (chữ Hán: 耶律斜轸 hay 耶律色珍, ? – 999) là người dân tộc Khiết Đan, tông thất, tướng lãnh nhà Liêu trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Hàn Đức Nhượng** (chữ Hán: 韩德让, 941 – 1011), người dân tộc Hán, nguyên quán Ngọc Điền, Kế Châu , tể tướng nhà Liêu, về cuối đời được ban tên họ là **Gia Luật Long
**Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước** (tiếng Anh: _State Records and Archives Department of Vietnam_) là cơ quan trực thuộc Bộ Nội vụ, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ
**Gia Luật Lý Hồ** (耶律李胡, 911 – 960), nhất danh **Hồng Cổ** (洪古), tự **Hề Ẩn** (奚隱), là một thân vương của triều Liêu. Ông là hoàng tử thứ ba của hoàng đế khai quốc
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
**Gia Luật Sa** (耶律沙, ?-988), tự **An Ẩn** (安隱), là một quân nhân, chính trị gia của triều Liêu. ## Thân thế Gia Luật Sa là hậu duệ của Diêu Liễn thị, đến những năm
**Lưu Mẫn** (chữ Hán: 刘敏, 1201 – 1259), tên tự là **Đức Nhu**, tiểu tự là **Hữu Công**, người làng Thanh Lỗ, huyện Tuyên Đức , quan viên Đế quốc Mông Cổ. Ông xuất thân
**Hoàn Trạch** (chữ Hán: 完泽, 1246 – 1303), người thị tộc Thổ Biệt Yến (Tǔbiéyān), bộ tộc Khắc Liệt (Keraites), dân tộc Mông Cổ, thừa tướng nhà Nguyên. ## Thân thế Ông nội là Thổ
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn** phản _ánh kết quả hoạt động của các_ ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn thời kỳ
**Nguyễn Phúc Đài** (chữ Hán: 阮福旲; 5 tháng 10 năm 1795 – 14 tháng 11 năm 1849), tước phong **Kiến An vương** (建安王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
Chân dung Lưu Bá Ôn **Lưu Bá Ôn** (chữ Hán: 劉伯溫, 1310-1375), tên thật là **Lưu Cơ** (劉基), tên tự là **Bá Ôn** (伯溫), thụy hiệu **Văn Thành** (文成); là nhà văn, nhà thơ và
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
**Liêu sử** là một bộ sách lịch sử trong 24 bộ sách sử của Trung Quốc (Nhị thập tứ sử), tổng cộng có 116 quyển kể lại các sự kiện lịch sử từ khi ra
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Tinh tuyển chư gia luật thi** (_Tập thơ luật lựa chọn phần tinh hoa nhất của các nhà_) là tuyển tập thơ Việt Nam viết bằng chữ Hán do Dương Đức Nhan biên tập. Đây
**Nguyễn Tư Giản** (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: **Văn Phú**, **Địch Giản**, sau mới đổi lại là **Tư Giản**, tự: **Tuân Thúc**(洵叔), **Hy Bật**, hiệu: **Vân Lộc**(雲麓) và **Thạch Nông**(石農). Ông là một danh sĩ
**Lưu Đức Hoa** (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1961) là một nam diễn viên, ca sĩ kiêm nhà sản xuất điện ảnh người Hồng Kông. Anh là một trong Tứ Đại Thiên Vương của
**Nguyễn Trung Trực** (chữ Hán: 阮忠直; 1838 – 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp ###
**Nguyễn Quang Bích** (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là **Ngô Quang Bích**, tự **Hàm Huy**, hiệu **Ngư Phong**; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
**Nguyễn Huy Lượng** (chữ Hán: 阮輝諒; 1750 - 1808) là nhà chính trị, danh sĩ nổi tiếng ở cuối đời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn đến đầu đời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
Mộc bản triều Nguyễn tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV Mộc bản **Mộc bản triều Nguyễn** (chữ Hán: 阮朝木版, phiên âm Hán-Việt: "Nguyễn triều mộc bản") gồm 34.618 tấm, là những văn bản
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
nhỏ|Ông Nguyễn Tiến Lãng **Nguyễn Tiến Lãng** (1909 - 1976) là nhà văn Việt Nam, nhà chính trị Việt Nam, làm quan nhà Nguyễn thời kỳ cuối, sau năm 1952 định cư tại Pháp. ##
**Nguyễn Xuân Thục** (chữ Hán: 阮旾俶,; 1762 - 1827), người huyện Quảng Phúc (hay _Quảng Phước_, nay thuộc thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) từng làm Phó sứ Sơn Lăng lo việc xây cất
**Lưu Tư** (chữ Hán: 刘孜, ? – 1468), tự **Hiển Tư**, người Vạn An, Giang Tây, quan viên nhà Minh. ## Tiểu sử Năm Chánh Thống thứ 10 (1445) thời Minh Anh Tông, Tư đỗ
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**_Bộ luật Hồng Đức_** là tên gọi thông dụng của bộ **_Quốc triều hình luật_** hay **_Lê triều hình luật_**, là bộ luật chính thức của nhà nước Đại Việt thời Lê sơ hiện còn
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Chế định trách nhiệm dân sự** trong Luật Hồng Đức là tổng thể các quy định của Luật Hồng Đức (Hay còn được gọi là Quốc Triều Hình Luật) quy định các vấn đề liên
**Nguyên sử** (tiếng Trung: 元史, bính âm: Yuán Shǐ) là một tác phẩm do Tống Liêm (1310-1381) và một số quan lại khác phụng mệnh Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương biên soạn năm 1370.
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
Tượng [[Thích-ca Mâu-ni tu khổ hạnh theo phong cách Phật giáo Hy Lạp hóa, khoảng thế kỷ thứ 2–3, Gandhara (nay thuộc miền đông Afghanistan), Bảo tàng Lahore, Pakistan.]] **Phật giáo Nguyên thủy**, còn gọi